Bệnh nào sau đây không nên dùng thuốc kháng sinh để trị

         Kháng sinh (antibiotic) là các thuốc dùng trong y học, có tác dụng phòng ngừa và tiêu diệt vi khuẩn. Nhiều năm nay, các bác sĩ đã khuyến cáo về sự nguy hiểm của việc lạm dụng kháng sinh. Một số nghiên cứu mới đây đã chỉ ra thêm một nguyên nhân nữa khiến chúng ta phải suy nghĩ lại về việc sử dụng kháng sinh để điều trị bệnh - đó là: “Thuốc kháng sinh có thể làm tăng nguy cơ sỏi thận”.

         Theo một nghiên cứu đăng trên tạp chí “Journal of the American Society of Nepherology”, uống thuốc kháng sinh có liên quan đến nguy cơ hình thành sỏi thận và nguy cơ cao nhất nằm ở nhóm trẻ em và người trưởng thành. Nghiên cứu cũng cho rằng nguy cơ bị sỏi thận thường tăng cao vài năm sau khi sử dụng thuốc kháng sinh. Để tìm hiểu mối liên hệ giữa sử dụng kháng sinh và sỏi thận, các nhà nghiên cứu đã kiểm tra liệu việc sử dụng kháng sinh có khả năng tác động lên nguy cơ sỏi thận. Các bác sĩ đều biết rằng kháng sinh thay đổi các thành phần vi sinh vật trong cơ thể, bao gồm cả vi sinh vật trong ruột. Nghiên cứu trước đây cũng đã chỉ ra rằng việc phá vỡ hệ vi khuẩn trong đường ruột và đường tiết niệu có thể liên quan đến sỏi thận. Cụ thể, kháng sinh làm giảm vi khuẩn Oxalobacter trong ruột - vi khuẩn này có khả năng ngăn ngừa một số dạng sỏi thận hình thành. 

Các nghiên cứu cũng phát hiện ra rằng trong các loại thuốc kháng sinh, việc uống 5 loại kháng sinh sau đây có nguy cơ làm tăng khả năng hình thành sỏi thận trong 3-12 tháng sau đó, bao gồm: sulfas dạng uống, cephalosporins, fluoroquinolones, nitrofurantoin và  penicillins phổ rộng. Nguy cơ hình thành sỏi thận liên quan đến những loại thuốc này cao lần lượt gấp 1,3  - 2,3 lần những người bình thường không dùng kháng sinh. Nguy cơ này giảm dần theo thời gian nhưng vẫn duy trì trong khoảng 3 - 5 năm sau khi sử dụng kháng sinh. 

Bệnh nào sau đây không nên dùng thuốc kháng sinh để trị

Thuốc kháng sinh có thể làm tăng nguy cơ sỏi thận

         Các nhà nghiên cứu cho rằng việc chúng ta bao nhiêu tuổi, tiếp xúc với chất gì và tiếp xúc khi nào cũng đều quan trọng như nhau. Chẳng hạn, một số thuốc bà bầu sử dụng thuốc trong suốt thai kỳ có thể dẫn đến những hệ lụy đối với đứa trẻ sau này. Nghiên cứu của các nhà khoa học đã khẳng định, uống một số loại kháng sinh nhất định có thể làm tăng nguy cơ sỏi thận và nguy cơ cao nhất thường gặp ở độ tuổi nhỏ hơn cả. Khẳng định này nhấn mạnh sự cần thiết của việc tránh lạm dụng kháng sinh, cần lựa chọn loại kháng sinh phù hợp và ưu tiên những phương pháp không sử dụng kháng sinh, đặc biệt đối với những người đã có sẵn nguy cơ sỏi thận. 

         Mặc dù giới chuyên môn vẫn còn tranh cãi về nguy cơ sỏi thận và kháng sinh - họ cho rằng vẫn chưa có đủ bằng chứng về mối quan hệ “nhân quả” giữa hai vấn đề này, nghiên cứu vẫn đưa ra những số liệu cho thấy rằng có mối quan hệ nhất định giữa việc thay đổi thành phần vi sinh vật trong cơ thể có thể gây sỏi thận. Nghiên cứu này không cho rằng kháng sinh không nên được sử dụng mà nhấn mạnh tầm quan trọng của việc sử dụng kháng sinh một cách hợp lý.

         Rõ ràng kháng sinh rất quan trọng trong y khoa, nhưng cả bác sĩ và bệnh nhân đều nên có kiến thức về việc sử dụng kháng sinh một cách đúng đắn. Không chỉ có thể tăng nguy cơ sỏi thận, lạm dụng kháng sinh còn dẫn đến nhiều vấn đề sức khỏe khác như kháng thuốc kháng sinh hay giảm lượng vi khuẩn có lợi cho cơ thể. Do đó, khi được chỉ định dùng kháng sinh, cần hỏi bác sĩ mức độ cần thiết, sự an toàn và có cách nào thay thế không. Đặc biệt, đối với những người có sẵn nguy cơ sỏi thận, chỉ nên uống thuốc kháng sinh khi cần thiết và kiểm soát các yếu tố nguy cơ khác có thể làm tăng thêm nguy cơ như: béo phì, uống thiếu nước, ăn nhiều muối,...

Bệnh nào sau đây không nên dùng thuốc kháng sinh để trị

Bệnh nào sau đây không nên dùng thuốc kháng sinh để trị

Bệnh nào sau đây không nên dùng thuốc kháng sinh để trị

Bệnh nào sau đây không nên dùng thuốc kháng sinh để trị

Bệnh nào sau đây không nên dùng thuốc kháng sinh để trị

Bệnh nào sau đây không nên dùng thuốc kháng sinh để trị

Bệnh nào sau đây không nên dùng thuốc kháng sinh để trị

Bệnh nào sau đây không nên dùng thuốc kháng sinh để trị

  • Đang truy cập50
  • Hôm nay3,568
  • Tháng hiện tại83,359
  • Tổng lượt truy cập5,253,989

Bệnh nào sau đây không nên dùng thuốc kháng sinh để trị

Bệnh gây ra bởi vi khuẩn sẽ được điều trị bằng thuốc kháng sinh thích hợp.

Vi khuẩn là những sinh vật nhân sơ. Cấu trúc của tế bào còn đơn giản, không có màng nhân nhưng chúng có khả năng tự tổng hợp chất dinh dưỡng để phát triển và tự sinh sản nhân lên. Cấu trúc vi khuẩn thường bao gồm lớp vỏ nhầy, thành tế bào, màng tế bào chất, tế bào chất, thể nhân, ribosome, mesosome, các hạt chức năng khác, nhung mao giúp bám dính và tiên mao để di chuyển.

Virus là một nhóm vi sinh vật nhỏ hơn vi khuẩn khoảng 10- 100 lần. Cấu trúc vô cùng đơn giản chỉ gồm lớp vỏ bao bọc vật chất di truyền bên trong, không có chứa các enzyme chuyển hóa hay enzyme hô hấp. Do đó, virus chỉ có thể sinh sản bên trong tế bào sống của vật chủ và rất khó để diệt virus. Dựa vào vật chất di truyền trong cấu tạo, virus được phân loại hai loại là ARN virus hoặc ADN virus.

Khác biệt về sinh sản

Trong điều kiện thích hợp, vi khuẩn sinh sản vô tính bằng cách phân đôi. Sau đó, mỗi tế bào 'con' sẽ tiếp tục phân chia và cứ tiếp tục như vậy. Chỉ cần một thời gian rất ngắn- trong vòng 08 giờ, một loại vi khuẩn có thể phát triển thành một quần thể hơn 500.000 con.

Nếu điều kiện môi trường không phù hợp với vi khuẩn, một số loài sẽ chuyển sang trạng thái không hoạt động. Chúng tạo ra một lớp vỏ bao phủ bên ngoài để bảo vệ, những tế bào vi khuẩn không hoạt động này được gọi là bào tử. Bào tử khó bị tiêu diệt hơn vi khuẩn đang hoạt động vì tính thấm kém của lớp phủ bên ngoài của chúng. 

Khác với vi khuẩn, virus chỉ có thể nhân lên trong tế bào chủ (vi khuẩn, thực vật, động vật). Các giai đoạn nhân lên của virus thường bao gồm hấp phụ, xâm nhập vào tế bào chủ, tổng hợp các thành phần cấu trúc, lắp ráp sau đó phá vỡ tế bào chủ để ra ngoài và tiếp tục xâm nhập vào tế bào chủ khác.

 Với các mARN virus, muốn tích hợp vào ADN của tế bào chủ để được nhân lên, chúng cần có enzyme phiên mã ngược để tổng hợp ADN từ mARN. Chính vì đặc điểm phá vỡ tế bào chủ hàng loạt trong quá trình nhân lên của virus, nên trong giai đoạn tiến triển của bệnh, người nhiễm virus có những triệu chứng rầm rộ.

Tác động tới hệ miễn dịch của cơ thể

Khi cơ thể nhiễm vi khuẩn hay virus thì các tế bào của hệ miễn dịch sẽ được kích hoạt để khởi phát các phản ứng bảo vệ cơ thể. Đáp ứng miễn dịch biểu hiện thông qua tăng thân nhiệt, khởi động phản ứng viêm, tăng lưu lượng máu cục bộ tới vị trí nhiễm trùng, các tế bào miễn dịch đến nhận diện, vây bắt và tiêu diệt hoặc vô hiệu hóa tác nhân gây bệnh.

Tuy nhiên, virus đặt ra thách thức lớn hơn đối với hệ thống miễn dịch của cơ thể vì chúng ẩn bên trong các tế bào. Điều này làm cho các kháng thể, các tế bào miễn dịch khó tiếp cận và tiêu diệt chúng. Một số tế bào đặc biệt của hệ thống miễn dịch, được gọi là tế bào lympho T, có thể nhận ra và tiêu diệt các tế bào chứa virus, vì bề mặt của các tế bào bị nhiễm bệnh bị thay đổi khi virus nhân lên. 

Nhiều loại virus, khi được giải phóng khỏi các tế bào bị nhiễm, sẽ bị đánh đánh bại hiệu quả bởi các kháng thể đã được tạo ra trước đó trong đáp ứng với chu kỳ nhiễm virus cũ hoặc việc tiêm chủng.

Bệnh nào sau đây không nên dùng thuốc kháng sinh để trị

Thuốc kháng sinh không được dùng trong trị các bệnh lý do virus gây ra

Sự khác biệt giữa thuốc kháng sinh và thuốc kháng virus

Bệnh gây ra bởi vi khuẩn sẽ được điều trị bằng thuốc kháng sinh thích hợp tùy thuộc đặc điểm của vi khuẩn, khả năng phân bố của kháng sinh tới vị trí nhiễm khuẩn.

Thuốc kháng sinh tác động tới vi khuẩn thông qua việc làm gián đoạn quá trình trao đổi chất của vi khuẩn hoặc ức chế quá trình tổng hợp các chất cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của vi khuẩn. Từ đó vi khuẩn bị kìm hãm sự nhân lên và sau đó bị li giải, tiêu diệt. 

Cụ thể, các nhóm thuốc kháng sinh sẽ tác động lên quá trình tổng hợp vách tế bào vi khuẩn, gây rối loạn chức năng màng tế bào chất, ức chế sinh tổng hợp protein và acid nucleic. Thế nhưng, đến nay tình trạng kháng kháng sinh đang là vấn đề báo động do thực trạng sử dụng thuốc kháng sinh không hợp lý.

Trong điều trị bệnh do virus, chủ yếu là điều trị hỗ trợ, điều trị triệu chứng như hạ sốt, giảm đau, phòng biến chứng, và ngăn ngừa bội nhiễm. Về cấu trúc, thuốc kháng virus chia làm hai loại là thuốc có cấu trúc nucleosid hoặc không nucleosid.

Thuốc kháng sinh không được dùng trong trị các bệnh lý do virus gây ra bởi cấu tạo và đặc điểm sinh sản khác hoàn toàn giữa hai loại vi sinh vật này.

Thuốc kháng virus có thể can thiệp vào từng giai đoạn nhân lên của virus trong tế bào chủ mà chủ yếu là tác dụng thông qua enzyme đặc hiệu của mỗi quá trình. Từ đó, thuốc kháng virus sẽ ngăn cản virus bám vào tế bào chủ để xâm nhập, ngăn cản quá trình phiên mã, dịch mã tổng hợp protein, ngăn cản sự tái tổ hợp tạo hạt virus mới…

Hiện nay, mới chỉ có một số virus có thuốc kháng virus đặc hiệu như virus cúm, virus Herpes, virus viêm gan B, viêm gan C và HIV. Thuốc kháng virus khác đang được tiếp tục nghiên cứu.

Nên tiêm vaccine để kích thích cơ thể sản sinh sẵn kháng thể khi ứng phó với sự xâm nhập của vi khuẩn và virus.

Nâng cao sức đề kháng của cơ thể bằng việc bổ sung đầy đủ các chất dinh dưỡng: Tăng cường vitamin bằng rau xanh, trái cây, các loại ngũ cốc, sữa, trứng.

Rửa tay bằng xà phòng trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh.

Thường xuyên vệ sinh mũi, họng bằng nước muối sinh lý.

Chỉ sử dụng thuốc kháng sinh theo chỉ định của bác sĩ khi cơ thể có dấu hiệu nhiễm hoặc bội nhiễm vi khuẩn rõ rệt.

Mời xem thêm video đang được quan tâm:

Thông điệp 5T: Pháo đài chống dịch COVID-19 trong tăng cường giãn cách xã hội.

Ths.DS. Mai Ngọc Tú