Concerto là gì

Ý nghĩa của từ concerto là gì:

concerto nghĩa là gì? Ở đây bạn tìm thấy 4 ý nghĩa của từ concerto. Bạn cũng có thể thêm một định nghĩa concerto mình


0

Concerto là gì
  0
Concerto là gì


Côngxectô. | : ''a piano '''concerto''''' — một bản côngxectô cho pianô | Côngxectô.


0

Concerto là gì
  0
Concerto là gì


bản nhạc hoà tấu cho một nhạc khí và dàn nhạc bản concerto cho violon và dàn nhạc


0

Concerto là gì
  0
Concerto là gì


Concerto hay côngxectô là một tác phẩm khí nhạc trong đó có hai nhóm nhạc cụ, một nhóm đông người hơn (gọi là Ripieno) và một nhóm ít người (chừng 3 người, [..]

Concerto là gì
Sự khác biệt giữa Sonata và Concerto - ĐờI SốNg

Sonata vs Concerto  

Sự khác biệt giữa sonata và concerto có thể là điều cần biết đối với những người yêu âm nhạc. Âm nhạc, bằng mọi cách, là phổ quát. Nó là một thuật ngữ rộng bao gồm các phong cách và thể loại đa dạng, cùng với các loại sáng tác âm nhạc khác nhau. Có một lịch sử phong phú từ thời cổ đại cách đây nhiều nghìn năm, được truyền bá ở một số lượng lớn các quốc gia và nền văn hóa, âm nhạc có sức lan tỏa sâu rộng. Sáng tác âm nhạc là một tác phẩm âm nhạc được viết riêng cho các cách sắp xếp cụ thể của các nhạc cụ. Khi xem xét các loại tác phẩm âm nhạc khác nhau, có rất nhiều loại như sonata, concert, dàn nhạc, giao hưởng, cantatas, tứ tấu đàn dây, v.v. Chúng khác biệt rõ ràng với nhau, nhưng chúng cũng có một số điểm tương đồng. Bài viết này tìm cách khám phá sự khác biệt giữa sonata và concerto, hai loại tác phẩm hoặc bản nhạc.

Sonata là gì?

Sonata, một từ có nguồn gốc từ tiếng Latinh có nghĩa là hát, là một hình thức sáng tác âm nhạc liên quan đến việc hát được lồng vào bản nhạc. Nó là một loại nhạc hòa tấu được chơi và hát trên sân khấu. Sonatas được phân biệt bởi cấu trúc và hình thức của nó đã phát triển qua hàng trăm năm lịch sử.Sự xuất hiện đầu tiên của các bản sonata được biết đến trong Thời kỳ Baroque mặc dù nó có tầm quan trọng lớn hơn trong Thời đại Cổ điển của âm nhạc. Vào khoảng thế kỷ 20 và 21, hình thức của các bản sonata đã thay đổi so với thời Baroque. Bản sonata vào cuối thời kỳ Baroque và cổ điển bao gồm một nhạc cụ độc tấu; chủ yếu là bàn phím hoặc một số nhạc cụ độc tấu khác đi kèm với nhạc cụ bàn phím. Đã có những bản sonata sáng tác cho các nhạc cụ khác. Một bản sonata cũng bao gồm bốn chuyển động; chuyển động đầu tiên là nhịp độ nhanh và chuyển sang chuyển động thứ hai là nhịp độ chậm. Động tác thứ ba, thông thường, là một giai điệu khiêu vũ và sau đó chuyển động thứ tư được viết trong phím home của bản nhạc.


Concerto là gì?

Concerto, một từ có nghĩa là sáng tác, kết hợp và chiến đấu, là một loại sáng tác âm nhạc khác. Cũng giống như sonata, lịch sử của concertos cũng bắt nguồn từ thời kỳ âm nhạc sớm nhất, Thời kỳ Baroque. Đặc trưng của concertos là một nhạc cụ độc tấu, thường là piano hoặc violin hoặc cello hoặc sáo, đi kèm với một nhóm các nhạc cụ khác. Concertos cũng đã phát triển theo thời gian và cấu trúc của nó bao gồm ba chuyển động. Chuyển động đầu tiên là nhanh và chuyển động thứ hai chậm hoặc yên tĩnh và chuyển động thứ ba hoặc chuyển động cuối cùng lại nhanh. Concerto trong thời kỳ Baroque khác biệt đáng kể so với thế kỷ 20 và 21.

Concerto là gì

Sự khác biệt giữa Sonata và Concerto là gì?

• Sonata cũng liên quan đến ca hát trong khi các bản hòa tấu hoàn toàn là âm nhạc.


• Mặc dù sonata và hòa tấu có thể giống nhau về tốc độ chuyển động của chúng, nhưng sự khác biệt nằm ở chỗ một bản concerto bắt đầu và kết thúc ở tiết tấu nhanh trong khi các bản sonata chỉ bắt đầu ở tiết tấu nhanh.

• Sonatas và concertos cũng khác nhau về hình thức. Sonata có bốn chuyển động trong khi concertos chỉ có ba.

• Các bản Sonata được chơi bằng nhạc cụ độc tấu, thường là piano (keyboard) hoặc một nhạc cụ đi kèm với piano. Các bản hòa tấu được chơi bằng một nhạc cụ độc tấu đi kèm với một nhóm dàn nhạc (nhóm nhạc cụ) nhỏ hoặc lớn.

Như vậy, sonata và concertos khác nhau chủ yếu ở hình thức của chúng. Cũng có những khác biệt khác liên quan đến âm nhạc mà họ chơi.

Thứ Năm, 03 11 2011 11:41

(Ngày đăng: 03-03-2022 15:05:04)

Concerto là gì
  
Concerto là gì
  
Concerto là gì
  
Concerto là gì
  

Concerto, concert: là hai danh từ danh từ có cách viết gần giống nhau, nhưng nghĩa hoàn toàn khác nhau.

Concerto /kənˈtʃɜːtəʊ/: bản phối, bản hòa tấu cổ điển.

Concert /ˈkɒnsət/: bản hòa nhạc.

Concerto: Bản hòa tấu cổ điển, một loại nhạc được viết đặc biệt cho một hay nhiều nhạc cụ cùng chơi và dàn nhạc.

Concerto là gì
 Ex: Bethoven's Violin Concerto.

Bản hòa tấu nhạc cổ điển bằng đàn Violin của nhạc sĩ Bethoven.

Ex: How much does a universal ticket cost for a classical concerto?

Bao nhiêu một vé cửa chung cho buổi hòa tấu cổ điển và những nhạc cụ khác?

Concert: Buổi hòa nhạc.

Ex: She had gone to the concert that evening.

Cô ấy đã đi tới buổi hòa nhạc tối hôm đó.

Ex: Mozart's concert has flute and harp.

Buổi hòa nhạc của Mozart có sáo và đàn hạc.

Tư liệu tham khảo: English Usage for Learner & Oxford Advanced Learner’s Dictionary. Bài viết phân biệt concerto, concert được soạn bởi giáo viên trung tâm tiếng Anh SGV.

Nguồn: http://saigonvina.edu.vn

Related news

Concerto Là Gì – Concerto Nghĩa Là Gì Trong Tiếng Ý

Nền âm nhạc truyền thống để lại ba dấu ấn quan trọng trong nền văn hóa truyền thống âm nhạc thế giới đến ngày nay. Đó là ba thể loại: Sonata, Concerto, Symphony (Giao hưởng). Có người đã hỏi chúng tôi: “Làm sao để phân biệt ba thể loại này một cách thức nhanh nhất”. Có thể nói: “Sonata là một tác phẩm khí nhạc dành cho một hoặc đôi khi là hai nhạc cụ. Concerto là một bản sonata trong đó có sự so tài giữa một nhạc cụ độc tấu với cả dàn nhạc. Giao hưởng là một bản sonata dành cho cả dàn nhạc”.

Bài Viết: Concerto là gì

Concerto là gì

Sonata – Những kiến thức cơ bản

Theo những nhà nghiên giúp, lý luận âm nhạc, sonata “vừa là một hình thức âm nhạc (musical form), vừa là một thể loại (style)”. Một tác phẩm âm nhạc có thể mang cấu trúc của sonata, khi đó, người ta gọi tác phẩm đó mang “hình thức sonata” mà chúng ta đã làm quen trong bài viết ở kỳ 6 vừa qua. Ở kề bên đó, sonata còn là một loại tác phẩm âm nhạc, tương tự như oratorio, opera, concerto, v.v…, khi đó người ta có “thể loại sonata” hay “liên khúc sonata”, mà chúng ta tìm hiểu trong số báo này.

Danh từ sonata xuất hiện ở Ý vào đầu thế kỷ 17, và chỉ có nghĩa đơn giản là một khúc khí nhạc nhỏ. Tuy cũng gồm nhiều chương với nhịp độ khác nhau, nhưng sonata ở thế kỷ 17 và đầu thế kỷ 18 cũng chỉ có tính chất gần với tổ khúc (suite) nhạc múa, và được gọi là sonata tiền truyền thống (sonata thời baroque). Domenico Scarlatti (Nhạc sĩ Ý, 1685 – 1757) đã có rất nhiều những đóng góp đáng kể trong việc hoàn thiện hình thức sonata. Ông viết tất cả 555 sonata. Trong đó ông bắt đầu sử dụng những kiểu chủ đề tương phản, làm cơ sở cho sự phát triển hình thức sonata sau này. Cho đến Philipp Emanuel Bach (1714 – 1788), thiếu niên của J. S. Bach, hình thức sonata lại có nhiều tiến bộ rõ rệt, thể hiện ở sự kết hợp tinh tế giữa chất trữ tình du dương và chất suy tư, kịch tính của ngôn ngữ âm nhạc. Những nhà soạn nhạc vĩ đại của trường phái truyền thống Vienne (Haydn, Mozart) cũng đã có rất nhiều những đóng góp quý báu cho thể loại này. Nhưng công lao to to nhất phải dành cho nhà soạn nhạc bậc thầy Beethoven, người đã hoàn chỉnh thể loại sonata một cách thức tuyệt vời, đưa hình thức này lên đỉnh cao nghệ thuật, thể hiện được một cách thức tài tình những tư tưởng to của thời đại và những diễn biến tinh tế nhất của tâm hồn con người.

Liên khúc sonata truyền thống là một tác phẩm gồm nhiều chương links lại với nhau, trong đó mỗi chương tương đối mang tính độc lập. Ngoài ra yếu tố thiết yếu và quan trọng của thể loại liên khúc sonata truyền thống là: trong số những chương trong tác phẩm, nhất thiết phải có một chương (thường là chương I) được viết dưới hình thức sonata. Về bố cục, thể loại liên khúc sonata truyền thống thường gồm có ba hoặc bốn chương với vận tốc khác nhau:

a. Chương I: thường được viết ở hình thức sonata với nhịp độ nhanh, sôi sục (nên thường được gọi là sonata allegro). Do hình tượng và ý đồ nghệ thuật của hình thức sonata nên chương một nhằm giới thiệu tập trung nội dung của tác phẩm. Hai chủ đề phản ánh những mặt tương phản của cuộc sống, tư tương và tâm hồn con người. Do đó, có thể nói chương I đã thể hiện phần nào tư tưởng và quan điểm của tác giả.

b. Chương II: thường được viết ở nhịp độ chậm như: Andante, Adagio hay Largo. Chương II thường sẽ có giai điệu trữ tình như một ca khúc. Đôi khi, nó cũng mang tính chất suy tư hoặc bi thương (như trong Sonata số 12 của Beethoven, chương chậm là một hành khúc tang lễ – marche funèbre).

c. Chương III: Những nhà soạn nhạc ở thế kỷ 18 (như Haydn, Mozart) thường chỉ viết sonata ba chương, riêng Beethoven đã sáng tạo ra sonata bốn chương. Trong thể loại sonata bốn chương này, Beethoven đã đặt giữa chương hai và chương cuối một chương có nhịp điệu Scherzo. Tính chất âm nhạc ở đây khi thì vui nhộn, khi thì hóm hỉnh, châm biếm. Nó khác điệu Menuet ở chỗ không bị gò bó vào tiết tấu vũ khúc, mà có phong cách thức tự do và giàu sức diễn tả hơn. Là chương kết, thường sẽ có nhịp độ rất nhanh (vivace, presto). Chương kết có thể được xây dựng trên cơ sở một điệu múa dân gian, khúc biến tấu (variation) của một chủ đề mang tính ca khúc, hoặc được viết theo hình thức Rondo. Từ thế kỷ 18 trở đi, do nhu cầu diễn đạt nội dung ngày càng tinh tế và phong phú, nên chương kết cũng có thể được viết ở hình thức sonata. Trong trường hợp này, chương kết có vị trí quan trọng trong việc tổng kết vấn đề đã nêu ra trong tác phẩm, khẳng định một kết luận bằng những hình tượng âm nhạc tràn đầy kịch tính và sức diễn tả.

Concerto – Bản sonata của David và Goliath

Concerto ngày nay được hiểu như một liên khúc sonata dành cho một nhạc cụ độc tấu đối thoại với dàn nhạc: chàng David nhỏ bé (sau này trở thành Vua Do Thái) đối đầu với gã khổng lồ Goliath! Thật ra, kể từ khi được hình thành, thể loại này đã trải qua nhiều dạng thức phát triển. Khái niệm “concerto” đã được hiểu theo nhiều cách thức khác nhau tùy mỗi thời đại.

Từ “concerto” trong tiếng Ý được xuất phát từ động từ “concertare” nghĩa là “đối đầu, ganh đua”. Ở đây, là sự ganh đua giữa một nhạc cụ độc tấu với cả dàn nhạc. Nhưng cũng có người cho rằng, nguồn gốc của tên gọi “concerto” là từ một danh từ La-tinh: “consortio” nghĩa là “sự hiệp nhất lại”. Ở đây, là sự hiệp nhất giữa hai bè: độc tấu và dàn nhạc để diễn tả cùng một nội dung.

Vào khoảng năm 1600, lần trước tiên trong trường phái Venise (với Gabrieli và Monteverdi và học trò người Đức của hai ông là Schütz) xuất hiện tên gọi “concerto” để chỉ chung những tác phẩm hoặc viết cho nhiều ban hợp xướng, hoặc phối hợp giữa thanh nhạc và khí nhạc. Cuối thế kỷ XVII, khái niệm “concerto” được coi như là một nguyên tắc thể loại để tạo nên những hình thức như: concerto grosso, triosonata, những motet dành cho solo hay hợp xướng. Đỉnh cao của thể loại này là vào khoảng từ 1700 đến 1750 với Corelli, Händel, Vivaldi và Bach.

Xem Ngay: Shopee Mall Là Gì – điều Khoản Dịch Vụ Của Shopee Mall

Từ lúc ra đời đến nay, concerto đã lần lượt mang nhiều ý nghĩa khác nhau:

1) Để gọi tên một tác phẩm viết cho một hay nhiều bè giọng hát có nhạc cụ đệm. Ví dụ như; “Concerti ecclesiastici a 8 voci” (1595) (Concerto giáo đường viết cho 8 giọng) của Banchier. Tên gọi theo ý nghĩa này tồn tại mãi đến đầu thế kỷ XVIII. Chính Bach là người đã đưa ra tên gọi “concerto” với ý nghĩa trên cho một số bản cantate nhà thờ của ông.

Xem Ngay:  So What Nghĩa Là Gì

2) Đó là một tác phẩm được viết cho vài nhạc cụ, trong đó có nhạc cụ diễn loại bè trầm đánh số (figured bass, basso continuo) và thường sẽ có giai điệu tương phản với những nhạc cụ khác. Thể loại concerto này tồn tại trong thế kỷ XVII và đầu thế kỷ XVIII. Ví dụ, 6 bản “Concerto Brandenburg” của Bach. Tính chất concerto của thời kỳ này có những thể loại:

a/. Concerto grosso là một tác phẩm dàn nhạc có vài chương, trong đó, theo tập quán, có những đoạn dành cho một nhóm nhạc cụ độc tấu (gọi là concertino) diễn tấu tương phản với đoạn tutti (diễn theo bè trầm đánh số, figured bass) do toàn thể dàn nhạc (concerto grosso).

b/. Concerto độc tấu là loại concerto mà chúng ta thường gặp ngày nay, ttrong đó, có một nhạc cụ cụ độc tấu diễn tấu cùng dàn nhạc. Khái niệm này có từ đầu thế kỷ XVIII, lúc đó, violon là nhạc cụ thường được sử dụng độc tấu. Với loại concerto này, người ta luôn phải nêu tên nhạc cụ độc tấu. Ví dụ, “Concerto cho đàn Tranh và dàn nhạc” của nhạc sĩ Quang Hải.

3) Khái niệm “Concerto” còn được những nhà soạn nhạc hiện đại dùng với ý nghĩa nghĩa là một sáng tác cho một nhóm nhạc cụ hòa tấu (ensemble) nhưng không dùng đến nhạc cụ (thường là đàn organ) để diễn bè trầm đánh số (figured bass). Ví dụ: “Concerto cho dàn nhạc” của Belá Bartók.

4) Concerto theo phong cách thức Ý (Concerto nach Italienischen Gusto) thường được gọi là “concerto Ý”, là một tác phẩm độc tấu của đàn clavecin, mô phỏng theo thể loại concerto độc tấu với dàn nhạc bằng cách thức làm nổi bật sự tương phản giữa nghệ sĩ độc tấu với phần “Tutti”

Giao hưởng (symphony) – Bản sonata cho dàn nhạc

Kể từ khoảng năm 1750, thuật ngữ “symphony” được sử dụng với nghĩa “bản sonata dành cho cả dàn nhạc”. Trước đó, thuật ngữ này có nhiều nghĩa khác nhau. “Symphony” có căn nguyên từ tiếng Hy-lạp với nghĩa là “một chồng âm”. Người Hy-lạp cổ dùng từ này để gọi việc kết hợp những âm thanh một cách thức dễ nghe với dàn đồng ca. Về sau, tuy nó được sử dụng nhiều cách thức khác nhau, nhưng thường nhất vẫn là để chỉ một loại khí nhạc. Một ngoại lệ là trong tác phẩm “Sacrae symphoniae” (Giao hưởng thánh) của G. Gabrieli và H. Schütz nó lại được sử dụng để chỉ thể loại âm nhạc dành cho nhạc cụ và cả giọng hát. Tên gọi symphony đã được cần sử dụng cho những chương khí nhạc của một vở opera (như vở “Orfeo” của Monteverdi ), cho phần mở đầu của tổ khúc nhạc khí (như trong “Sonata da camera” của Rosenmüller ), cho phần dạo đầu của một cantata (như trong bản Cantata số 156 của Bach), cho tên gọi ouverture (phần mở màn) của thể loại opera Ý, thậm chí cho phần dạo đầu của một ca khúc, hay bất thường hơn, được Bach dùng để gọi tên những inventions (ứng tấu) 3 phần của tớ.

Giao hưởng hiện đại vẫn duy trì hình thức tác phẩm độc lập, dựa trên khuôn mẫu 3 chương từ ouverture Ý từ 1730 đến 1750. Những nhà soạn nhạc thành Vienne đã thêm một chương minuet (menuet) vào cấu trúc của ouverture Ý để có được thể loại giao hưởng. Do đó, tuy người ta thường gọi Joseph Haydn (1732-1809) là “Cha của giao hưởng” (Father of symphony) nhưng như vậy không có nghĩa là ông đã sáng tạo ra nó, mà chỉ vì Haydn đã có rất nhiều nhiều cải cách thức quan trọng và có công phát triển thể loại mạnh mẽ này qua 104 bản giao hưởng trong sự nghiệp sáng tác của ông. Từ những giao hưởng được viết sau năm 1780, nổi bật trong 12 giao hưởng Salomon sáng tác cho thành phố London (nên còn gọi là giao hưởng London), Haydn đã nương tựa nhiều về sự tinh tế và duyên dáng của Mozart, nhà soạn nhạc thế hệ sau ông. Tính chất, qua 3 giao hưởng sau cùng (trong số 41 giao hưởng, viết vào năm 1788) của tớ, Mozart đã vượt xa Haydn và được tôn vinh bởi sự thăng bằng âm sắc, diễn cảm và cách thức tạo cấu trúc cho giao hưởng.

Xem Ngay:  Archicad Là Gì - Có Thể Bạn Chưa Biết Về Archicad

Trong số 9 giao hưởng của Beethoven, “Symphony No. 3 – Eroica” là giao hưởng trước tiên theo phong cách thức mới. Nó được xem như tiền thân của âm nhạc Lãng mạn,và nổi bật “Symphony No. 9” với quan niệm to nhất về cấu trúc hình thức của symphony trước khi những giao hưởng đồ sộ của Mahler xuất hiện. Trong bản giao hưởng số 9 của Beethoven, lần đầutiên giọng người qua hình thức hợp xướng được sử dụng như một nhạc khí trong một thể loại thuần túy dành cho khí nhạc. Hợp xướng tiếp tục được khai thác nhiều trước khi có những giao hưỡng Mahler. Trong symphony-cantata “Lobgesang” (Bài ca ngợi) của tớ, Mendelssohn thậm chí còn làm cho tính chất cantata (hợp xướng) nổi trội hơn giao hưởng.

Xem Ngay: Compensation Là Gì – Vai Trò Trong Ngành Hành Chính Nhân Sự

Bản giao hưởng số 6 của Beethoven, “Pastorale”, mở đầu cho khuynh hướng sáng tác thể loại giao hưởng có chương trình (program symphony), có tiêu đề. Trong đó, Beethoven đã đặt tên cho 5 chương của tớ. Đây cũng là lần trước tiên có thể loại giao hưởng 5 chương. Sau này Berlioz đã nối tiếp sáng kiến của Beethoven để viết “Symphonie fantastique” và giao hưởng thảm kịch“Roméo et Juliette”. Hai tác phẩm này được viết cho dàn nhạc và giọng hát nhưng lại theo một thể loại mới do Liszt sáng tạo: thơ giao hưởng (Symphonic poem).

Mặc dù còn tồn tại nhiều biến đổi nữa do nhiều tác giả làm phong phú thể loại giao hưởng, nhưng cho đến ngày nay, trong những giao hưởng hiện đại, người ta vẫn có khuynh hướng viết theo cấu trúc 3 hoặc 4 chương. Trong số rất ít nhà soạn nhạc thuộc dòng nhạc bác học của Việt Nam, có rất ít người viết thể loại giao hưởng. Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể tự hào với nhà soạn nhạc, Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Văn Nam , tác giả của 8 giao hưởng đã được thông dụng ở vài nơi trên thế giới và giao hưởng số 9 vừa được hoàn tất với đề tài Cửu Long dậy sóng . Chỉ tiếc rằng, trong số những học trò đã tốt nghiệp của ông tại những Nhạc viện, kể cả những người đang lãnh đạo bộ môn Sáng tác tại những nơi đó, gần như không ai có được tác phẩm giao hưởng thứ hai ngoài tác phẩm tốt nghiệp! Một nền âm nhạc tuyệt tự?

Thể Loại: Chia sẻ Kiến Thức Cộng Đồng