Người Tày cao bao nhiêu?

Cao Bằng là tỉnh miền núi, vùng cao, biên giới, thuộc phía Đông Bắc của Tổ quốc với nhiều dân tộc cùng sinh sống, đồng bào dân tộc thiểu số chiếm hơn 94,87%. Trong đó, dân tộc Tày đông nhất chiếm 40,83%, tiếp sau là dân tộc Nùng 29,81%, Mông 11,65%, Dao 10,36%...

Kết quả khảo sát cho thấy, hiện nay, dân tộc Tày cơ bản vẫn bảo tồn tốt tiếng nói riêng của dân tộc mình. 80% người Tày thường xuyên sử dụng tiếng Tày làm ngôn ngữ giao tiếp trong cuộc sống hàng ngày.

Tuy nhiên, xu hướng ở hầu hết các địa phương có dân tộc Tày sinh sống, đặc biệt trong các gia đình ở khu vực thị trấn, thành phố, các gia đình trẻ và gia đình có bố mẹ là cán bộ, công chức, viên chức nhà nước chủ yếu giao tiếp trong gia đình bằng tiếng phổ thông (tiếng Việt).

Chính vì vậy ở những khu vực này, trẻ em dân tộc Tày ít nói tiếng dân tộc, chủ yếu sử dụng tiếng phổ thông và điều này đã làm cho tiếng Tày tự mai một chính trong nội bộ con em dân tộc Tày.

Riêng tại hai địa phương Hòa An và thành phố Cao Bằng, thế hệ trẻ dân tộc Tày hầu như ít người biết nói tiếng mẹ đẻ, những người biết cũng ít sử dụng tiếng nói của dân tộc Tày trong giao tiếp.

Về chữ viết, dân tộc Tày có chữ Nôm Tày, nhưng hiện nay không còn duy trì chữ viết riêng, chỉ còn một phần nhỏ trong hệ thống sách cúng, sách Then, sách của thầy cúng và một số người hành nghề thầy cúng. Số người biết về chữ Nôm Tày hầu như không còn. Trong các nghi lễ như: tang ma, giải hạn, thượng thọ, xem ngày giờ..., đa số các thầy tào dân tộc Tày vẫn sử dụng chữ Hán.

Các thầy tào biết viết chữ Hán, tuy nhiên chỉ học theo lối chép lại văn bản chứ không được truyền dạy bài bản. Một số sách chữ Nôm Tày, chữ Hán hiện vẫn đang được lưu giữ trong các gia đình làm nghề thầy Tào.

Về ngữ văn dân gian, dân tộc Tày vẫn còn lưu giữ, tuy nhiên chỉ một số ít nghệ nhân cao tuổi mới nắm được nên nguy cơ mai một cao.

Người Tày cao bao nhiêu?
Kết quả khảo sát, đánh giá thực trạng sử dụng tiếng nói, chữ viết các dân tộc thiểu số (Tày, Thái, Dao) trên địa bàn tỉnh Cao Bằng (Ảnh chụp trang đầu và trang cuối)

Trong khi đó, người Dao sinh sống ở Cao Bằng có khoảng gần 55.000 người, có hai nhóm Dao đỏ và Dao Tiền cư trú tập trung tại các huyện: Bảo Lâm, Bảo Lạc, Nguyên Bình, Thạch An.

Hiện nay, dân tộc Dao vẫn giữ được tiếng nói của dân tộc mình và sử dụng giao tiếp hàng ngày; chỉ có một số ít các gia đình người Dao ở thị trấn, thành phố có bố mẹ là công chức, viên chức nhà nước hoặc kết hôn với người dân tộc khác ít biết hoặc ít sử dụng tiếng nói dân tộc Dao. Trẻ em người Dao trên địa bàn tỉnh được cha ông truyền dạy tiếng mẹ đẻ và sử dụng ngôn ngữ của dân tộc mình trong giao tiếp hàng ngày.

Người Dao cũng có chữ viết là một hệ thống ký tự chữ Hán được phiên âm ra tiếng Dao (hay nói cách khác, người Dao mượn chữ Hán để ghi chép tiếng nói của mình). Hệ thống chữ viết này được các bậc trí thức người Dao trước đây sử dụng trong mọi văn tự, từ phản ánh mọi mặt đời sống vật chất, tinh thần, sách lịch sử, các bài hát, bài cúng đến ghi chép ngày, tháng, thơ văn...

Hiện nay, ở hầu hết các gia đình dân tộc Dao có người cao tuổi (từ 70 tuổi trở lên) còn giữ được nhiều cuốn sách cổ do ông cha để lại. Những người nắm giữ tri thức chữ viết của người Dao chủ yếu là những người thực hành nghi lễ tín ngưỡng trong cộng đồng người Dao như Thầy mo, thầy tào.

Các sách viết tay ghi chép về các nghi thức cúng tế hiện nay còn được các thầy mo, thầy tào lưu giữ. Ngoài thầy mo và thầy tào, trong cộng đồng người Dao rất hiếm người biết đọc các cuốn sách cổ của người Dao, thậm chí nhiều thầy mo chỉ biết đọc chữ nhưng lại không dịch được nội dung...

Theo kết quả khảo sát của UBND tỉnh Cao Bằng, các bản sách dạy chữ của người Dao đều được viết tay trên giấy dó. Hiện, chữ viết của người Dao hiện nay đang có nguy cơ bị mai một cao, do vậy cần phải có những biện pháp bảo tồn, lưu giữ chữ viết.

Thực hiện công tác sưu tầm, bảo tồn, Bảo tàng tỉnh Cao Bằng hiện đang lưu giữ 39 đầu sách chữ Hán và Nôm Tày sử dụng trong nghi lễ của thầy tào dân tộc Tày và 22 đầu sách sưu tầm được trong cộng đồng người Dao.

Từ năm 2013 đến năm 2020, tỉnh Cao Bằng đã tổ chức bồi dưỡng tiếng Tày cho cán bộ, công chức, viên chức được 78 lớp với 5.284 lượt người tham gia. Ngoài ra, bằng các nguồn xã hội hóa, tại các huyện đã mở các lớp hát then, đàn tính (tiếng Tày) hoặc thông qua các câu lạc bộ để truyền dạy cho con em các dân tộc trong huyện, nhằm bồi dưỡng, phát huy, gìn giữ giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc.

Lịch sử: Người Tày có mặt ở Việt Nam từ rất sớm, có thể từ nửa cuối thiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên.

Hoạt động sản xuất: Người Tày là cư dân nông nghiệp có truyền thống làm ruộng nước, từ lâu đời đã biết thâm canh và áp dụng rộng rãi các biện pháp thuỷ lợi như đào mương, bắc máng, đắp phai, làm cọn lấy nước tưới ruộng. Họ có tập quán đập lúa ở ngoài đồng trên những máng gỗ mà họ gọi là loỏng rồi mới dùng dậu gánh thóc về nhà. Ngoài lúa nước người Tày còn trồng lúa khô, hoa màu, cây ăn quả... Chăn nuôi phát triển với nhiều loại gia súc, gia cầm nhưng cách nuôi thả rông cho đến nay vẫn còn khá phổ biến. Các nghề thủ công gia đình được chú ý. Nổi tiếng nhất là nghề dệt thổ cẩm với nhiều loại hoa văn đẹp và độc đáo. Chợ là một hoạt động kinh tế quan trọng.

Người Tày cao bao nhiêu?

Lạng Sơn nổi tiếng thuốc lá sợi vàng. Thuốc ngon do đất, giống, sấy và cũng do cách phơi.

Người Tày cao bao nhiêu?

Người Tày (Pa Dí) có truyền thống làm các loại bánh bằng bột. Những ngày tết, phiên chợ, phụ nữ trong các gia đình thường rất bận rộn làm bánh.

Người Tày cao bao nhiêu?

Trang phục của người Tày hầu như không thêu hoa văn. Riêng áo phụ nữ nhóm Pa Dí có thêu hoa văn ở cổ và hò áo, ống tay áo được nối bởi những đoạn vải màu. Ðiểm nổi bật nhất trong bộ trang phục nữ Pa Dí là chiếc mũ hình mái nhà.

Người Tày cao bao nhiêu?

Thầy cúng còn gọi là thày mo là người am hiểu phong tục tập quán dân tộc và có địa vị cao trong xã hội.

Người Tày cao bao nhiêu?

Ðàn tính là nhạc cụ được sử dụng phổ biến ở người Tày. Bầu đàn làm bằng vỏ quả bầu khô, cần đàn bằng gỗ, dây đàn bằng tơ. Ðàn có thể có 2 hoặc 3 dây. Ðàn tính thường dùng trong nghi lễ, đệm cho hát then, ngày nay còn dùng biểu diễn trên sân khấu.
Hiện vật Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam.

Ăn: Trước kia, ở một số nơi, người Tày ăn nếp là chính và hầu như gia đình nào cũng có ninh và chõ đồ xôi. Trong các ngày tết, ngày lễ thường làm nhiều loại bánh trái như bánh chưng, bánh giày, bánh gai, bánh dợm, bánh gio, bánh rán, bánh trôi, bánh khảo... Ðặc biệt có loại bánh bột hấp dẫn nhân bằng trứng kiến và cốm được làm từ thóc nếp non hơ lửa, hoặc rang rồi đem giã.

Mặc: Bộ y phục cổ truyền của người Tày làm từ vải sợi bông tự dệt, nhuộm chàm, hầu như không thêu thùa, trang trí. Phụ nữ mặc váy hoặc quần, có áo cánh ngắn ở bên trong và áo dài ở bên ngoài. Nhóm Ngạn mặc áo ngắn hơn một chút, nhóm Phén mặc áo màu nâu, nhóm Thu Lao quấn khăn thành chóp nhọn trên đỉnh đầu, nhóm Pa Dí đội mũ hình mái nhà còn nhóm Thổ mặc như người Thái ở Mai Châu (Hoà Bình).

Ở: Người Tày cư trú ở vùng thung lũng các tỉnh Ðông Bắc, từ Quảng Ninh, Bắc Giang, Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Hà Giang, Tuyên Quang đến Lào Cai, Yên Bái. Họ thích sống thành bản làng đông đúc, nhiều bản có tới hàng trăm nóc nhà.

Ngôi nhà truyền thống của người Tày là nhà sàn có bộ sườn làm theo kiểu vì kèo 4, 5, 6 hoặc 7 hàng cột. Nhà có 2 hoặc 4 mái lợp ngói, tranh hay lá cọ. Xung quanh nhà thưng ván gỗ hoặc che bằng liếp nứa.

Phương tiện vận chuyển: Với những thứ nhỏ, gọn người Tày thường cho vào dậu để gánh hoặc cho vào túi vải để đeo trên vai, còn đối với những thứ to, cồng kềnh thì dùng sức người khiêng vác hoặc dùng trâu kéo. Ngoài ra, họ còn dùng, mảng để chuyên chở.

Quan hệ xã hội: Chế độ quằng là hình thức tổ chức xã hội đặc thù theo kiểu phong kiến sơ kỳ mang tính chất quý tộc, thế tập, cha truyền con nối.

Trong phạm vi thống trị của mình quằng là người sở hữu toàn bộ ruộng đất, rừng núi, sông suối... vì thế có quyền chi phối những người sống trên mảnh đất đó và bóc lột họ bằng tô lao dịch, bắt phải đến lao động không công và tô hiện vật, buộc phải cống nạp. Chế độ quằng xuất hiện từ rất sớm và tồn tại dai dẳng mãi đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.

Cưới xin: Nam nữ được tự do yêu đương, tìm hiểu nhưng có thành vợ thành chồng hay không lại tuỳ thuộc vào bố mẹ hai bên và "số mệnh" của họ có hợp nhau hay không lại tuỳ thuộc vào bố mẹ hai bên và "số mệnh" của họ có hợp nhau hay không. Vì thế trong quá trình đi tới hôn nhân phải có bước nhà trai xin lá số của cô gái về so với lá số của con mình. Sau khi cưới, cô dâu ở nhà bố mẹ đẻ cho đến khi có mang sắp đến ngày sinh nở mới về ở hẳn bên nhà chồng.

Sinh đẻ: Khi có mang cũng như trong thời gian đầu sau khi đẻ, người phụ nữ phải kiêng cữ nhiều thứ khác nhau với ước muốn được mẹ tròn, con vuông, đứa bé chóng lớn, khoẻ mạnh và tránh được những vía độc hại.

Sau khi sinh được 3 ngày cúng tẩy vía và lập bàn thờ bà mụ. Khi đầy tháng tổ chức lễ ăn mừng và đặt tên cho trẻ.

Ma chay: Ðám ma thường được tổ chức linh đình với nhiều nghi lễ nhằm mục đích báo hiếu và đưa hồn người chết về bên kia thế giới. Sau khi chôn cất 3 năm làm lễ mãn tang, đưa hồn người chết lên bàn thờ tổ tiên. Hàng năm tổ chức cúng giỗ vào một ngày nhất định.

Nhà mới: Khi làm nhà phải chọn đất xem hướng, xem tuổi, chọn ngày tốt. Trong ngày vào nhà mới chủ gia đình phải nhóm lửa và giữ ngọn lửa cháy suốt đêm đến sáng hôm sau.

Thờ cúng: Người Tày chủ yếu thờ cúng tổ tiên. Ngoài ra còn thờ cúng thổ công, vua bếp, bà mụ.

Lễ tết: Hàng năm có nhiều ngày tết với những ý nghĩa khác nhau. Tết Nguyên đán, mở đầu năm mới và tết rằm tháng 7, cúng các vong hồn là những tết lớn được tổ chức linh đình hơn cả. Tết gọi hồn trâu bò tổ chức vào mùng 6 tháng 6 âm lịch, sau vụ cấy và tết cơm mới, tổ chức trước khi thu hoạch là những cái tết rất đặc trưng cho dân nông nghiệp trồng lúa nước.

Lịch: Người Tày theo âm lịch.

Học: Chữ nôm Tày xây dựng trên mẫu tự tượng hình, gần giống chữ nôm Việt ra đời khoảng thế kỷ XV được dùng để ghi chép truyện thơ, bài hát, bài cúng... Chữ Tày-Nùng dựa trên cơ sở chữ cái La-tinh ra đời năm 1960 và tồn tại đến giữa năm 80 được dùng trong các trường phổ thông cấp I vùng có người Tày, Nùng cư trú.

Văn nghệ: Người Tày có nhiều làn điệu dân ca như lượn, phong slư, phuối pác, phuối rọi, vén eng... Lượn gồm lượn cọi, lượn slương, lượn then, lượn nàng ới... là lối hát giao duyên được phổ biến rộng rãi ở nhiều vùng. Người ta thường lượn trong hội lồng tồng, trong đám cưới, mừng nhà mới hay khi có khách đến bản. Ngoài múa trong nghi lễ ở một số địa phương có múa rối với những con rối bằng gỗ khá độc đáo.

Chơi: Trong ngày hội lồng tồng ở nhiều nơi tổ chức ném còn, đánh cầu lông, kéo co, múa sư tử, đánh cờ tướng... Ngày thường trẻ em đánh quay, đánh khăng, đánh chắt, chơi ô...