Nguồn gốc và ý nghĩa của trò chơi ô ăn quan

Ngày bé tôi và lũ trẻ hàng xóm thích chơi ô ăn quan. Đi đâu trẻ con thấy sỏi đẹp nhặt cất để chơi rải ranh hay ô ăn quan.  Giữa Hà Nội thời chiến, sỏi đá cũng hiếm vì người ta hầu như không xây dựng. Trẻ con quý từng viên sỏi. Nhiều khi lấy cả hạt na, hạt nhãn rửa sạch để thay thế. Bây giờ trẻ Việt Nam ít chơi trò này vì bị cho là “lê la” bẩn thỉu.

Trò chơi “lê la” này rất tiện, chỉ cần hòn gạch non vẽ mấy cái ô trên đất, sân xi măng là cả lũ ngồi quanh chơi vui vẻ. Chỉ hai người cũng thành cuộc vui cả giờ. Một trò chơi trí tuệ giúp cho kỹ năng tính toán. Bao lâu nay tôi cứ tưởng đó là trò chơi dân gian của Việt Nam.

Trò chơi ô ăn quan thực ra gốc từ châu Phi có tên gọi là Awalé. Awalé có nghĩa là túi hạt. Hạt từ một loại quả cây hiếm ở châu Phi. Trò chơi xuất phát từ Bờ Biển Ngà, Nigeria sau trở nên phổ biến ở châu Phi. Hạt chơi sau này từ cả những cây khác như hạt ô liu, nhiều nơi thay hạt bằng sỏi, vỏ sò, ốc… nên có nơi gọi là ô kola. 

Các vị truyền giáo và các sơ khi đến thuộc địa châu Phi thấy trò chơi này hấp dẫn và đơn giản. Tài liệu ghi nhận lại: chỉ một số hạt hay ít sỏi, kẻ một dãy ô hai tầng là chơi được. Cách chơi : Chia 4 hay 5 viên sỏi ở mỗi ô.

Nguồn gốc và ý nghĩa của trò chơi ô ăn quan
Trẻ em và người lớn ở Phi châu đều thích chơi ô ăn quan

Mỗi lượt đi thì rải một vòng, tùy hướng, và rải hết, hễ có một ô trống vừa hết sỏi, thì được ăn ô cách đó. Rồi bốc ô tiếp sau đi tiếp, nếu bên kia ăn hết sỏi hoặc hết ô dự trữ hai đầu thì ván chơi kết thúc, và thắng thua căn cứ vào số điểm ăn được. Ở các vùng khác nhau có quy định và sáng tạo mới của người chơi. Trò chơi rất có ý nghĩa với người châu Phi. Họ còn gọi là trò chơi gieo hạt và thu hoạch. Hạn hán mà hết hạt gieo là mất mùa, thua thiệt. Trò chơi mang tính trí tuệ vừa mang tính chất giáo dục. Phải tính toán để có hạt giống gieo cho vụ sau.  Trong trường hợp hết hạt gieo, đối phương cho vay một hạt, nếu đi được mà ăn đối phương vài hạt thì trò chơi tiếp diễn, nếu không còn đường đi tiếp, vì các ô khác đã trống, còn ít, không đủ quân mà rải là thua. Cuộc sống vất vả, đời sống con người gắn liền với nông nghiệp, hiểu rõ sự quý giá của hạt giống, nên trò chơi đều có gắn với những câu nói về cuộc sống mang ý nghĩa giáo dục.

Trò chơi này cũng được truyền sang Philippines cuối thế kỷ 19. Tuy nhiên, các quy tắc và tùy hoàn cảnh, câu đồng dao đi kèm đã biến đổi theo địa phương mỗi nước. Trò này ở Philippines gọi là dakon.

Trò này sang đến xứ Ả rập trở thành mancala (có nghĩa là di chuyển). Các nhà khảo cổ học đã tìm thấy đồ chơi này trong một ngôi mộ ở Ethiopie từ thế kỷ thứ tám. Hiện nay trò chơi vẫn còn giữ nguyên ở nhiều nước châu Phi.  Trò chơi theo những người nô lệ da đen sang tận Mỹ và đảo Caraibes. Trò chơi được nhà phương Đông học Thomas Hyde ghi nhận trong cuốn sách De Ludis Orientalibus Libri Duo (1694 Oxford).

Người Pháp vẫn để nguyên tên Awalé (có nơi awélé). A-wa-lé đọc lơ lớ nghe như ô ăn oan. Trò chơi đến VN, vào thời điểm chính quyền Pháp muốn xóa bỏ ảnh hưởng văn hóa Tàu, các nhà nho Tây học, tân tiến có xu hướng chống phong kiến quan lại, khát vọng dân chủ Tây phương, nên đã lái cái tên thành “ô ăn quan” và sáng tạo thêm hai hòn sỏi to tượng trưng như hai ông quan ở hai đầu. Hai vòng cung hai đầu tạo cảm giác như cung các nhà quan, và hai viên to thể hiện quyền lực và sự giàu có. Trò chơi không còn ý nghĩa gieo hạt để vụ sau, trở thành một trò chơi chống quan lại, lấy của quan chia cho người nghèo (các ô khác). Kết thúc trò chơi với câu “Hết quan toàn dân kéo về”. Câu nói và trò chơi làm tôi liên tưởng đến câu ca dao thuộc lòng thời thơ ấu: “quan có cần nhưng dân chưa vội, quan có vội quan lội quan sang” hay “cướp đêm là giặc cướp ngày là quan”.

Theo một số nhà toán học, cuộc chơi có thể kéo dài không phân thắng bại đến 51 tiếng với 889?063?398?406 lần đi. 

Nói thêm về sự chuyển âm Việt hóa, trò chơi rải ranh cũng do người Pháp mang đến. Tên trò chơi này ghép hai từ Việt và Pháp. Trò chơi có nghĩa là rải hạt. Hạt tiếng Pháp là grain (phát âm nhanh nghe lơ lớ gần như “ranh” tiếng Việt). Rất nhiều thành ngữ, từ Việt đã được kết hợp, biến hóa từ tiếng Pháp. Ví dụ nói ba láp (palabre) có nghĩa là nói linh tinh  – được ghép hai từ Việt và Pháp (nói + ba láp);  Cua gái ngày nay thế hệ trẻ còn gọi cưa gái. Thành ngữ này thực ra gốc Pháp  (faire la cour có nghĩa tán gái). Nay nhiều người lại nghĩ ra gốc từ cái cưa gỗ.

Rất tiếc trẻ em Việt bây giờ hầu như chỉ chơi máy tính, điện thoại, những trò chơi có tính chất dân gian và giáo dục cao mất dần. Ở châu Âu, dù cuộc sống đầy đủ, nhưng các trò chơi kiểu này vẫn được các thầy cô giáo dạy trong trường và được sản xuất bày bán càng ngày càng hấp dẫn trẻ em. 

Ô ăn quan đã có ở Việt Nam từ rất lâu đời, có thể nó được lấy cảm hứng từ những cánh đồng lúa nước ở nơi đây. Những câu truyện lưu truyền về Mạc Hiển Tích (chưa rõ năm sinh, năm mất), đỗ Trạng nguyên năm 1086 nói rằng ông đã có một tác phẩm bàn về các phép tính trong trò chơi Ô ăn quan và đề cập đến số ẩn (số âm) của ô trống xuất hiện trong khi chơi[1]. Ô ăn quan đã từng phổ biến ở khắp ba miền Bắc, Trung, Nam của Việt nam nhưng những năm gần đây chỉ còn được rất ít trẻ em chơi. Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam có trưng bày, giới thiệu và hướng dẫn trò chơi này.

Theo các nhà nghiên cứu, ô ăn quan thuộc họ trò chơi mancala, tiếng Ả Rập là manqala hoặc minqala (khi phát âm, trọng âm rơi vào âm tiết đầu ở Syria và âm tiết thứ hai ở Ai Cập) có nguồn gốc từ động từ naqala có nghĩa là di chuyển. Bàn chơi mancala đã hiện diện ở Ai Cập từ thời kỳ Đế chế (khoảng 1580 – 1150 TCN). Tuy nhiên còn một khoảng trống giữa lần xuất hiện này với sự tồn tại của mancala ở Ceylon (Srilanka) những năm đầu Công nguyên và ở Ả Rập trước thời Muhammad. Tuy nhiên có những dấu hiệu để nhận định rằng một số dạng mancala lan truyền từ phía Nam Ả Rập hoặc vùng cực Nam của biển Đỏ qua eo biển Bab El Mandeb sang bờ đối diện thuộc châu Phi rồi từ đó xâm nhập lục địa này. Trong những giai đoạn sau, các tín đồ Hồi giáo đã phổ biến mancala sang những miền đất khác cùng với sự mở rộng của tôn giáo và văn hoá.

Bàn chơi: bàn chơi Ô ăn quan kẻ trên một mặt bằng tương đối phẳng có kích thước linh hoạt miễn là có thể chia ra đủ số ô cần thiết để chứa quân đồng thời không quá lớn để thuận tiện cho việc di chuyển quân, vì thế có thể được tạo ra trên nền đất, vỉa hè, trên miếng gỗ phẳng…. Bàn chơi được kẻ thành một hình chữ nhật rồi chia hình chữ nhật đó thành mười ô vuông, mỗi bên có năm ô đối xứng nhau. Ở hai cạnh ngắn hơn của hình chữ nhật, kẻ hai ô hình bán nguyệt hoặc hình vòng cung hướng ra phía ngoài.

Các ô hình vuông gọi là ô dân còn hai ô hình bán nguyệt hoặc vòng cung gọi là ô quan. Quân chơi: gồm hai loại quan và dân, được làm hoặc thu thập từ nhiều chất liệu có hình thể ổn định, kích thước vừa phải để người chơi có thể cầm, nắm nhiều quân bằng một bàn tay khi chơi và trọng lượng hợp lý để khỏi bị ảnh hưởng của gió. Quan có kích thước lớn hơn dân đáng kể cho dễ phân biệt với nhau. Quân chơi có thể là những viên sỏi, gạch, đá, hạt của một số loại quả… hoặc được sản xuất công nghiệp từ vật liệu cứng mà phổ biến là nhựa. Số lượng quan luôn là 2 còn dân có số lượng tùy theo luật chơi nhưng phổ biến nhất là 50.

Bố trí quân chơi: quan được đặt trong hai ô hình bán nguyệt hoặc cánh cung, mỗi ô một quân, dân được bố trí vào các ô vuông với số quân đều nhau, mỗi ô 5 dân. Trường hợp không muốn hoặc không thể tìm kiếm được quan phù hợp thì có thể thay quan bằng cách đặt số lượng dân quy đổi vào ô quan. Người chơi: thường gồm hai người chơi, mỗi người ngồi ở phía ngoài cạnh dài hơn của hình chữ nhật và những ô vuông bên nào thuộc quyền kiểm soát của người chơi ngồi bên đó. Mục tiêu cần đạt được để giành chiến thắng: người thắng cuộc trong trò chơi này là người mà khi cuộc chơi kết thúc có tổng số dân quy đổi nhiều hơn. Tùy theo luật chơi từng địa phương hoặc thỏa thuận giữa hai người chơi nhưng phổ biến là 1 quan được quy đổi bằng 10 dân hoặc 5 dân.

Di chuyển quân: từng người chơi khi đến lượt của mình sẽ di chuyển dân theo phương án để có thể ăn được càng nhiều dân và quan hơn đối phương càng tốt. Người thực hiện lượt đi đầu tiên thường được xác định bằng cách oẳn tù tì hay thỏa thuận. Khi đến lượt, người chơi sẽ dùng tất cả số quân trong một ô có quân bất kỳ do người đó chọn trong số 5 ô vuông thuộc quyền kiểm soát của mình để lần lượt rải vào các ô, mỗi ô 1 quân, bắt đầu từ ô gần nhất và có thể rải ngược hay xuôi chiều kim đồng hồ tùy ý. Khi rải hết quân cuối cùng, tùy tình huống mà người chơi sẽ phải xử lý tiếp như sau:

Nếu liền sau đó là một ô vuông có chứa quân thì tiếp tục dùng tất cả số quân đó để rải tiếp theo chiều đã chọn. Nếu liền sau đó là một ô trống (không phân biệt ô quan hay ô dân) rồi đến một ô có chứa quân thì người chơi sẽ được ăn tất cả số quân trong ô đó. Số quân bị ăn sẽ được loại ra khỏi bàn chơi để người chơi tính điểm khi kết thúc. Nếu liền sau ô có quân đã bị ăn lại là một ô trống rồi đến một ô có quân nữa thì người chơi có quyền ăn tiếp cả quân ở ô này …

Do đó trong cuộc chơi có thể có phương án rải quân làm cho người chơi ăn hết toàn bộ số quân trên bàn chơi chỉ trong một lượt đi của mình. Trường hợp liền sau ô đã bị ăn lại là một ô vuông chứa quân thì người chơi lại tiếp tục được dùng số quân đó để rải. Một ô có nhiều dân thường được trẻ em gọi là ô nhà giàu, rất nhiều dân thì gọi là giàu sụ. Người chơi có thể bằng kinh nghiệm hoặc tính toán phương án nhằm nuôi ô nhà giàu rồi mới ăn để được nhiều điểm và có cảm giác thích thú. Nếu liền sau đó là ô quan có chứa quân hoặc 2 ô trống trở lên thì người chơi bị mất lượt và quyền đi tiếp thuộc về đối phương.

Trường hợp đến lượt đi nhưng cả 5 ô vuông thuộc quyền kiểm soát của người chơi đều không có dân thì người đó sẽ phải dùng 5 dân đã ăn được của mình để đặt vào mỗi ô 1 dân để có thể thực hiện việc di chuyển quân. Nếu người chơi không đủ 5 dân thì phải vay của đối phương và trả lại khi tính điểm. Cuộc chơi sẽ kết thúc khi toàn bộ dân và quan ở hai ô quan đã bị ăn hết. Trường hợp hai ô quan đã bị ăn hết nhưng vẫn còn dân thì quân trong những hình vuông phía bên nào coi như thuộc về người chơi bên ấy; tình huống này được gọi là hết quan, tàn dân, thu quân, kéo về hay hết quan, tàn dân, thu quân, bán ruộng. Ô quan có ít dân (có số dân nhỏ hơn 5 phổ biến được coi là ít) gọi là quan non và để cuộc chơi không bị kết thúc sớm cho tăng phần thú vị, luật chơi có thể quy định không được ăn quan non, nếu rơi vào tình huống đó sẽ bị mất lượt.

Ô ăn quan thú vị, dễ chơi đã từng là trò chơi hàng ngày của trẻ em Việt Nam. Chỉ với một khoảng sân nho nhỏ và những viên sỏi, gạch, đá là các em nhỏ đã có thể vui chơi. Có thể thấy dấu ấn của Ô ăn quan trong đời sống và văn học, nghệ thuật: Thành ngữ: Một đập ăn quan – hàm ý chỉ những hành động đơn giản nhưng tức thì đạt kết quả to lớn. Trích bài thơ “Chơi Ô ăn quan” của Lữ Huy Nguyên:

Bên rìa hầm trú ẩn

Em chơi ô ăn quan

Sỏi màu đua nhau chạy

Trên vòng ô con con.

Sỏi nằm là giặc Mỹ

Sỏi tiến là quân mình

Đã hẹn cùng nhau thế…

Tán bàng nghiêng bóng xanh…

Trích bài thơ “Thời gian trắng” của Xuân Quỳnh:

Những ô ăn quan, que chuyền, bài hát

Những đầu trần, chân đất, tóc râu ngô

Quá khứ em đâu chỉ ngày xưa

Mà ngay cả hôm nay thành quá khứ…

Nguồn gốc và ý nghĩa của trò chơi ô ăn quan
Ảnh minh họa (Nguồn internet)