Nguyễn Tuân là người nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp

Nếu mong muốn tìm về một thời xưa cũ, về với những vẻ đẹp vĩnh hằng & sự tài hoa tinh tế một thời trong những trang văn thì lựa chọn vị trí đầu tiên của bạn đọc hẳn sẽ là Nguyễn Tuân, viên ngọc đắt giá của nền văn học Viet Nam.

Nguyễn Tuân là người nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp

Với sự hiện ra với một tập truyện ngắn đưa tên Vang bóng một thời ra đời vào đầu thế kỷ XX, tên tuổi của Nguyễn Tuân đã nhanh chóng trở thành môt biểu tượng cho việc đạt đến sự chân thiện mỹ của văn chương.

Nguyễn Tuân & chặng đường trở thành nhà văn lớn của nền văn chương Viet Nam hiện đại

Ông sinh trong tháng 7 năm 1910 tại phố Hàng Bạc, Hà Nội. Quê gốc của ông ở làng Mọc, nay thuộc phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội.

Thân sinh của nhà văn là cụ Nguyễn An Lan (tức cụ Tú Hải Văn), một nhà nho tài hoa đậu thi khoa Hán học cuối cùng cùng lúc cũng là người ảnh hướng lớn nhất đến hồn văn của Nguyễn Tuân sau này.

Nguyễn Tuân là nhà văn cùng lúc là một người có học thức uyên thâm, thấu hiểu đa số về toàn bộ các ngành nghề văn hóa như: hội họa, điện ảnh, âm nhạc, võ thuật, sân khấu kịch,…Gia đình ông từng có thời gian sống ở các tỉnh & tp miền Trung, chính cảnh ngộ sống của gia đình đã tạo cơ hội cho Nguyễn Tuân ngay từ thời niên thiếu khi được đi qua nhiều nơi.

Nguyễn Tuân là người nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp

Nguyễn Tuân cầm bút từ khoảng đầu những năm 1935 nhưng chỉ thực sự nổi tiếng sau thời điểm xuất bản các tác phẩm tùy bút, chữ ký có phong thái mới lạ như

Nguyễn Đình Thi chia sẻ về Nguyễn Tuân

Cách mạng tháng Tám thành công, Nguyễn Tuân trở thành cây viết tiêu biểu của nền văn học mới. Năm 1950, ông được kết nạp vào Đảng. Từ 1948 đến 1958, ông giữ chức Tổng thư ký Hội Nghệ thuật Viet Nam.

Ông mất ngày 28 tháng 7 năm 1987 tại Hà Nội. Năm 1996, ông được nhà nước Viet Nam truy tặng Giải thưởng Sài Gòn về văn học văn nghệ

Nguyễn Tuân biểu trưng cho khúc giao thời của hai công đoạn văn học nhiều biến động  

Ra đời & lớn lên trong một gia đình có truyền thống Nho học, Nguyễn Tuân được kế thừa đầy đủ tinh hoa của Hán học một thời vàng son. Ngoài ra khi thời thế đổi thay, văn hóa Phương Tây du nhập đã dần khiến Hán học chỉ đang là những mảnh dư tàn.

Nguyễn Tuân là người nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp

Cụ Tú Nguyễn An Lan & nhiều nhà nho khác bỗng trở nên lỗi thời trước sự giao thời của xã hội Tây Tàu nhố nhăng. Có thể nói, sự giao thời của hai công đoạn văn hóa xã hội đã làm ra chất “ngông” trong văn phong & Chủ nghĩa di dời của Nguyễn Tuân.

Công đoạn đầy biến động ấy đã tác động sâu sắc đến cá tính, quan niệm cũng như phong thái văn nghệ Nguyễn Tuân sau này. 

Một hành trình tuổi trẻ ngông nghênh & kiêu bạc mà ông từng đi qua

Năm 1939, Nguyễn Tuân bị đuổi học vì gia nhập cuộc bãi khóa phản đối gia sư người Pháp nói xấu người Việt. Sau đó vì ham mê sự “xê dịch”, ông vượt biên sang Thái Lan bất hợp pháp & lại bị tóm gọn lần nữa.

Nguyễn Tuân là người nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp

Như bao lớp trẻ khác, Nguyễn Tuân có những nông nổi, ngông cuồng, cá tính & hoài bão của riêng mình. Ông mong muốn vượt lên trên những điều tầm thường bé xíu của thực tại & thoát khỏi khuôn khổ chật hẹp, để vươn tới toàn cầu mênh mang bát ngát hơn.

Ông đã đi hết bề dài quốc gia để tìm kiếm những điều mới lạ, đó chính là thành tố lớn nhất đã hình thành một cây viết thiên tài. Toàn bộ những nơi từng in dấu chân Nguyễn Tuân đều trở thành nguồn xúc cảm trong những trang văn của ông.

Nguyễn Tuân suốt cuộc đời đi kiếm tìm & cất giữ lại những vẻ đẹp vĩnh hằng

Hình như so với văn nghệ, đẹp là tính năng vị trí đầu tiên & đưa cái đẹp là sứ mạng thiêng liêng nhất của văn chương. Sinh thời, Nguyễn Tuân đã luôn trằn trọc về cái đẹp trong suốt cuộc đời cầm bút của mình.

Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã từng chia sẻ.

Cái đẹp trong văn Nguyễn Tuân được hiện thân trọn vẹn qua ngòi bút tinh tế, sắc sảo & tài hoa hơn người của Nguyễn Tuân. Từ vẻ đẹp hoài cổ , đến những áng văn trữ tình mềm mại trong , cô đọng thâm sâu trong

Xem Thêm  TMA Solutions tuyển dụng việc làm IT chất nhất - đăng nhập meganet

& muôn mảnh trời quê hương yên bình, nguy nga, thơ mộng qua tùy bút

Nếu như các nhà văn cùng thời đi sâu vào cái nhiễu nhương, xô bồ của cuộc đời thì Nguyễn Tuân vẫn miệt mài với chặng đường của mình là đi tìm cái đẹp ngàn xưa. Cái đẹp ẩn sâu trong loài người, trong nền văn hóa ngàn đời của dân tộc.

Nguyễn Tuân là người nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp

Ông lặng lẽ đi về với những gì từng là truyền thống, ông khơi nên cái đẹp trong mạch ngầm văn hóa quốc gia Viet Nam, những giá trị lắng sâu không phải ai cũng cảm nghĩ hết được.

Vang bóng một thời & những điều xưa cũ đọng lại của một thời vàng son  

Nhắc đến viên ngọc sáng giá nhất mà Nguyễn Tuân để lại cho nền văn học dân tộc phải nói tới tập truyện .

Vang bóng một thời gồm mười một tùy bút hoặc truyện ngắn, bài viết viết về những bậc người hùng, những loài người nghệ sĩ tài hoa nhưng nay đã tàn thế & chỉ đang là một thời vang bóng & những nếp sống thanh cao của người xưa. 

“Trong cái vội vàng, cái cẩu thả của những tác phẩm xuất bản gần đây, những sản phẩm đã hạ thấp văn chương xuống mực giá trị của một sự đua đòi, người ta lấy làm sung sướng khi thấy một nhà văn kính trọng và yêu mến cái đẹp, coi công việc sáng tạo là công việc quý báu và thiêng liêng”- Nhà văn Thạch Lam nói về Nguyễn Tuân

Trong số đó nổi trội là những truyện ngắn (hay ) & được nhìn nhận là đạt gần đến sự toàn thiện, toàn mỹ.

Nguyễn Tuân là người nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp

Tác phẩm ban đầu được đăng trong mục trên báo chí Tao Lũ vào năm 1939, sau đó nhà xuất bản Tân Dân in thành sách năm 1940. Tính đến năm 1988 là lần xuất bản thứ sáu do nhà xuất bản Văn học ấn hành với 30,000 cuốn.

Khi in thành sách có nhiều đoạn kiểm duyệt từ thời Pháp thuộc bị cắt bỏ nhưng sau này đã được các nhà xuất bản đã khôi phục & trả lại cho tác phẩm địa điểm xứng đáng.

là những gì còn sót lại của một thời vàng son khi văn hóa phương Tây chưa du nhập, quốc gia chưa lâm vào những nhiễu loạn. Sau khoảng thời gian đã đắm chìm trong những áng văn của Nguyễn Tuân, nhà phê bình Vương Trí Nhàn chia sẻ:

“Nguyễn Tuân, trong Vang bóng một thời, lại phác họa một cách tài hoa nếp sống thanh nhã của người xưa, và cho thấy một đời sống tinh thần vững chãi là cần thiết cho con người đến như thế nào.” 

Vẫn là ngòi bút hướng tới cái đẹp hoàn mỹ, Nguyễn Tuân đã sử dụng hết cái tài & tâm của người nghệ sĩ để cất giữ những nét đẹp về loài người tài hoa nghệ sĩ bị thời cuộc dập vùi.

Nguyễn Tuân là người nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp

Giữa vẻ đẹp một thời vang bóng ấy là những triết lý về văn nghệ, về cuộc đời của Nguyễn Tuân. Ông luôn tâm niệm rằng cái đẹp sẽ không lúc nào bị băng hoại bởi thời gian. Cái thiên lương loài người sẽ thắng lợi được cái ác, cái tàn tệ.

Có những nhà văn chỉ nổi lên một thời nhưng cũng có những người trở thành tượng đài của nền văn học. Nguyễn Tuân chính là một trong những nhà văn hữu tình vĩ đại của nền văn học Viet Nam Công đoạn 1930-1945 khi đã sống cả một đời dâng hiến cho cái đẹp trong văn chương, bằng toàn bộ cái tài & tâm của người nghệ sĩ lớn.

 Nguyễn Quân

Chuyên đề Nguyễn Tuân – “Người lái đò Sông Đà”Nguyễn Tuân – người nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹpMỞ ĐẦULí do chọn đề tàiChẳng phải tự nhiên mà tên tuổi Nguyễn Tuân lại được người ta nhắc tớinhiều đến vậy mỗi khi quay dòng lịch sử nhìn lại những thời đại Văn học vàng sonđã qua của dân tộc. Là những năm 30-45 với hai mảng màu ấn tượng và nổi trộikhác biệt giữa bảng màu u ám thời bấy giờ – “hoài cổ” và “xê dịch”; là mộtNguyễn Tuân hăm hở hòa mình vào cuộc sống trong thời kì đổi mới những nămsau Cách mạng tháng Tám. "Lớn lên" ở cả hai thời kỳ, từ cuộc đời cũ đến cuộc đờimới ; vừa là cây bút nổi bật của xu hướng văn học lãng mạn với đủ thứ "tật bệnhđiển hình", vừa ở trong hàng ngũ những nhà văn thành tâm chào đón và chân thànhđi theo Cách mạng đến cùng; trong hành trình gian khổ hơn nửa thế kỷ ấy có lúc vavấp, có lúc chênh vênh, cũng có lúc phải tự "lột xác" đớn đau, nhưng nhà văn vẫnluôn giữ vẹn được nhân cách, bản ngã của mình. Trên đỉnh cao sáng tạo vừa chóilòa vinh quang vừa cực kỳ cheo leo hiểm trở, nhà văn phải dốc đến kỳ cùng sứclực để không trở nên nhạt nhẽo, vẫn luôn giữ được nét độc đáo của phong cáchnghệ thuật, làm nên một dòng chảy thống nhất xuyên suốt các trang văn của ông,hình thành nên một cá tính, một phong cách rất riêng của ông Nguyễn, để rồi ngườita không ngần ngại mà khẳng định “Nguyễn Tuân là một định nghĩa về người nghệsĩ” (Nguyễn Minh Châu).Đối với ông, văn chương trước hết phải là văn chương, nghệ thuật trước hếtphải là nghệ thuật, và đã là nghệ thuật thì phải có phong cách độc đáo. Toàn bộcuộc đời cũng như gần năm nghìn trang viết của ông đã tạo nên một "huyền sử" huyền sử của một người ưa lối chơi "độc tấu". Cái ngông, suy đến cùng, lại nhưmột giá trị, được đảm bảo bởi sức bền vững của tài hoa và tầm cao tư tưởng nghệ1thuật. Giáo sư Nguyễn Ðăng Mạnh có nhận định : "Hạt nhân của phong cáchnghệ thuật Nguyễn Tuân có thể gói gọn trong một chữ ngông. Cái ngông vừa cómàu sắc cổ điển, kế thừa truyền thống tài hoa bất đắc chí của những NguyễnKhuyến, Tú Xương, Tản Ðà,... và trực tiếp hơn là cụ Tú Lan, thân sinh nhà văn ;vừa mang dáng vẻ hiện đại, ảnh hưởng từ các hệ thống triết lý nổi loạn của xã hộitư sản phương Tây như triết lý siêu nhân, quan niệm về con người cao đẳng, thuyếthiện sinh...” Cung đàn văn chương Nguyễn Tuân được viết trên cùng một khuôngnhạc nhưng với thanh âm trầm bổng khác nhau của các nốt nhạc, phong cáchNguyễn Tuân vì vậy mà có sức hấp dẫn người đọc.Và một trong những “nốt nhạc” đã làm say đắm biết bao con người trongbản đàn muôn cung nghìn điệu ấy chính là lòng đam mê đi tìm vẻ đẹp độc đáo củacon người và cuộc sống không bao giờ vơi cạn của ông Nguyễn. Nếu như nói“ngông” là cá tính đặc trưng cho Nguyễn Tuân thì sự cố chấp của ông đối với cáiđẹp, cái mỹ hẳn là một nỗi ám ảnh. Ðời viết văn hơn nửa thế kỷ của Nguyễn Tuânlà một quá trình lao động nghệ thuật thật sự nghiêm túc. Về sau, khi đã ở đỉnh caonghề nghiệp, ông vẫn không bao giờ tỏ ra lơi lỏng, hời hợt ; mà ngược lại, luônnghiêm khắc với chính mình. Không quá khi nói rằng đây là nhà văn "suốt đời đitìm cái Ðẹp, cái Thật" (Nguyễn Ðình Thi), thậm chí ông còn tự nhận mình là người"sinh ra để thờ Nghệ Thuật với hai chữ viết hoa". Nhà văn Pautopxki đã từng nhậnxét: "Đọc Nguyễn Tuân có người đã gọi nghệ thuật là người đi tìm cái đẹp, khôngchỉ vậy, ông còn là người dẫn đường đến xứ sở cái đẹp".Trước Cách mạng tháng Tám, quan niệm về cái Ðẹp của Nguyễn Tuân đậmmàu sắc chủ quan, "không bà con gì với luân lý thời đại". Một chuyển động đến“long trời lở đất” như Cách mạng tháng Tám đã không thể khiến ông ngừng viết(như nhiều đồng nghiệp khác), trái lại càng kích thích ông viết. Bởi dường như, saucơn “khủng hoảng tâm thần” và cách sống “phóng túng hình hài”, ông đã tìm rađược lối thoát cho mình, trong một cuộc giải phóng lớn của dân tộc, như là mộtthời cơ có một, để làm thay đổi ông, không chỉ trong tư cách một công dân mà cảtrong tư cách nghệ sĩ - người từng có lúc đã tưởng có thể chết đi được nếu ai đótước đi quyền viết của mình. Giờ đây, quan niệm về cái đẹp của con người mangmột nỗi chấp nhất với nghề viết ấy - không ngừng viết bất cứ lúc nào, dẫu với bấtcứ chuyển động nào của lịch sử, đã có sự hài hòa cần thiết. Bởi cái Ðẹp giờ hiệnhữu trong thực tại, là đời sống muôn màu của Nhân Dân ; như có thể cầm lên tay2mà nâng niu ngắm nghía. Hoài cổ không còn mang ý nghĩa níu kéo dĩ vãng màđược nâng lên thành ý thức về sự góp mặt của dĩ vãng ở hiện tại. Có thể nói, chínhsự đổi thay trong cách nhìn, cách khám phá về cái đẹp của Nguyễn Tuân là mộttỏng những đặc điểm tiêu biểu để người ta có thể nhận diện được đâu là ôngNguyễn của thời đại mới.Tùy bút “Sông Đà” có thể coi như là một cột mốc quan trọng, đỉnh caomới trong sáng tác của Nguyễn Tuân nói chung và phong cách nghệ thuật NguyễnTuân từ sau Cách mạng tháng Tám nói riêng. Ðọc "Sông Ðà", thấy trữ lượng cáiÐẹp - chất "vàng" của đất nước và con người Việt Nam trong cuộc sống mới - quảlà nhiều vô kể. Cánh cửa tâm hồn tài hoa, lãng tử của Nguyễn Tuân như mở toangra cho cái Ðẹp ùa vào, tưới tắn tâm hồn tưởng chừng đã héo hon, vui say mà hòavào cuộc sống đang sục sôi của đất nước.Đoạn trích “Người lái đò Sông Đà” là một đoạn trích nằm ở phần giữa tậptùy bút, tuy chỉ là một đoạn trích ngắn nhưng cũng đủ để thể hiện lòng đắm say,chấp nhất thiết tha với cái đẹp của Nguyễn Tuân.Lịch sử vấn đềNguyễn Tuân cùng lòng mê say cái đẹp của mình từ lâu đã là niềm cảmhứng, cũng như mảnh đất màu mỡ để những yêu văn tìm tòi và khai thác.Có người hứng thú với “Vang bóng một thời” – tập truyện ngắn đặc sắc củaNguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám, đã rút ra một kết luận: Nguyễn Tuânluôn khao khát đi tìm “cái đẹp và cái thực” song trong thời đại mà Nguyễn Tuânsống, cái đẹp chân chính thật không dễ tìm chút nào, nói như nhà văn NguyễnĐình Thi thì “Trong cuộc đời ông sống, cái đẹp và cái thật không bao giờ khớpđược với nhau”. Có lẽ vì thế Nguyễn Tuân phải đi tìm cái đẹp trong quá khứ và tìmngay trong chính tâm tưởng, cảm giác của mình. (“Tìm hiểu quan niệm về cái đẹpcủa Nguyễn Tuân trong Vang bóng một thời” - ThS. Triệu Thị Huệ, Trường THPTchuyên Lê Hồng Phong, TP.HCM).Lê Lưu Oanh khi đến với tập truyện “Yêu ngôn” thì lại khẳng định rằnghành trình đi tìm cái đẹp của Nguyễn Tuân lại là hành trình xuyên không gian và3thời gian, “phải đi tìm một thế giới khác để được sống mãnh liệt, nồng nàn, cuồngnhiệt, phát huy tận độ cá tính của mình” (Nguyễn Đăng Mạnh).Thú vị và đặc sắc hơn cả có lẽ là Đỗ Thị Mỹ Lợi khi tìm ra những nét tươngđồng trong quan niệm về cái đẹp của Akutagawa Ryunosuke - một trong nhữngngười trụ cột có công mở ra cánh cửa văn học Nhật Bản hiện đại và là một trong banhà văn của đất nước này được thế giới biết đến nhiều nhất, với Nguyễn Tuân quabài viết “Chủ nghĩa duy mỹ trong truyện ngắn của Akutagawa và Nguyễn Tuân”.Bài viết đã khẳng định: Lý tưởng thẩm mỹ đã đưa hai nghệ sĩ ở hai đất nước xíchlại gần nhau trong hành trình kiếm tìm và tôn vinh cái đẹp – quả thật chính cái đẹplà thứ cầu nối vững bền mà tự nhiên nhất để kết nối hai trái tim cộng cảm.Mục đích nghiên cứuNhững bài viết trên hầu hết đều nhìn nhận hành trình đi tìm cái đẹp củaNguyễn Tuân một cách khái quát trong suốt quá trình “trưởng thành và lột xác” củaông, hoặc chuyên chú vào nghiên cứu một tập truyện ngắn / tùy bút với một nétphong cách chủ đạo xuyên suốt.Bài viết này sẽ đi sâu vào nghiên cứu và phân tích hành trình truy tìm cáiđẹp của Nguyễn Tuân khi đến với đất trời thiên nhiên Tây Bắc qua đoạn trích“Người lái đò Sông Đà”.NỘI DUNG1. Về “cái đẹp”1.1. Khái niệm.Cái đẹp là một phạm trù mỹ học cơ bản vừa là phạm mĩ học cơ bản, vừa làphạm trù mĩ học trung tâm. Bởi lẽ, đối tượng của mỹ học là đời sống thẩm mĩ củacon người. Ðời sống thẩm mĩ tuy rất phong phú đa dạng nhưng chủ yếu quayquanh cái đẹp. Mà “cái đẹp” thì rất phổ biến trong đời sống, hay nói cách khác, conngười thường dễ bị thu hút va lôi cuốn hơn bởi cái đẹp.4Trong văn học, cái đẹp đem lại cho con người cảm giác khoái lạc về mặtthẩm mỹ, biểu hiện dưới hình thức cảm tính, dồng thời xác định giá trị thẩm mỹcủa đối tượng về sự hoàn thiện, xem chúng là cá chiện tượng có giá trị thẩm mỹcao nhất.1.2. Các quan niệm khác nhau về cái đẹpVề cái đẹp, xung quanh phạm trù cái đẹp tồn tại rất nhiều quan điểm, nhiềutrường phái khác nhau. Trong đó có ba phái chính nổi cộm:Phái cho rằng cái đẹp là thuộc tính khách quan của sự vật. Phái này quanniệm: bản thân sư vật, tự nhiên đã chứa đựng cái đẹp. Cái đẹp không lệ thuộc vào ýmuốn của con người. Màu sắc của sự vật tồn tại ngoài ý thức con người. Nó làthuộc tính tự nhiên của tạo vật. Ðẹp cũng thế. Ðẹp là phẩm chất của tự nhiên.Thuộc về phẩm chất đẹp của tự nhiên là thuộc tính cân xứng, hài hòa, nhịp điệu,cấu trúc không gian, thời gian...(điển hình có Platon, Hogart, Fechner, LeonardoDe Vinci…)Phái cho rằng cái đẹp là sản phẩm của ý muốn chủ quan của con người tiêubiểu có Kant -một triết gia duy tâm chủ quan, người Ðức, cho rằng: vẻ đẹp khôngnằm ở đôi má hồng của người thiếu nữ mà nằm trong mắt của kẻ si tình. Như vậy,theo Kant, cái đẹp là sản phẩm của ý thức cá nhân.Socrate, một triết gia Hy Lạp cổ đại, lại theo phái cho rằng cái đẹp là cái cóích, cái có lợi ích thực dụng. Ông lí giải cái đẹp luôn luôn gắn với cái có ích, thậmchí, đánh đồng cái đẹp với cái có ích: cái đẹp là cái có ích và cái gì có ích là cáiđẹp. Ông giải thích: Cái mộc đẹp là vì nó để tự vệ, còn cái giáo đẹp là vì người tacó thể dùng sức mạnh mà lao về phía quân thù. Mĩ học Socrate được gọi là mĩ họcvụ lợi. Sai lầm cơ bản của Socrate là đánh đồng cái đẹp với cái có ích. Tuy nhiên,quan niệm của ông có ý nghĩa quan trọng ở chỗ đưa thực tiễn xã hội vào địnhnghĩa cái đẹp.(Theo MĨ HỌC ĐẠI CƯƠNG - Nguyễn Hoa Bằng)Và để rồi, ý nghĩa Cách mạng trong quan niệm của mỹ học hiện đại với quanđiểm Mác xít đã khẳn định bản chất của cái đẹp trong tính biện chứng – xã hội củanó. Cái đẹp là một trong những thuộc tính thẩm mỹ của hiện thực. Nó chính là một5giá trị xã hội mang tính khách quan, rộng rãi của các sự vật, hiện tượng toàn vẹn,cụ thể, cảm tính được con người cảm thụ, đánh giá và sáng tạo. Cái đẹp giữ vị trítrung tâm của hệ thẩm mỹ, dùng để khái quát những giá tị xã hội tích cực, kháchquan, rộng rãi của hiện thực thẩm mỹ, xuất phát từ thực tiễn, tồi tại dưới dạng hìnhtượng toàn vẹn, cụ thể – cảm tính phù hợp với tình cảm, thị hiếu và lý tưởng thẩmmỹ của xã hội.Như vậy, ngọn nguồn gốc rễ của bản chất vươn tới cái đẹp, sáng tạo theo quiluật của cái đẹp, đầu tiên và trước hết phải là đứa con của đất mẹ hiện thực, hứngánh sáng thế gian và tắm trong khi không bao la của đất trời. Có như thế, cái đẹpmới thật sự toàn vẹn.1.3. Cái đẹp trong tác phẩm văn họcMục đích đầu tiên và sau cùng của nghệ thuật và văn học, theo tôi là mangđến cái hay cái đẹp cho đời người. Tự thân nó không có mầm mống của một mưutoan nào cả. Hãy cho nó thanh thản tự do và mãi mãi là hiện thân của điều thiệncủa cái đẹp. Hê –ghen từng nói: “Mỹ học là triết học của sự sáng tạo nghệ thuật” –nghệ thuật là hình thái cao nhất của sự đồng hóa thế giới thẩm mỹ theo quy luậtcủa cái đẹp.Nguyễn Đình Thi đã từng có lần khẳng định: “Nói nghệ thuật tức là nói đếnsự cao cả qua tâm hồn. Đẹp tức là một cái gì cao cả. Đã nói đẹp là nói cao cả. Cókhi nhà văn miêu tả một cái nhìn rất xấu, một tội ác, một tên giết người, nhưngcách nhìn, cách miêu tả phải cao cả.” Thật vậy, một tác phẩm có truyền tải được“cái đẹp” đến đâu, “cái mỹ” như thế nào, phần nhiều phụ thuộc vêào người nghệ sĩcó thể “dùng” đôi mắt của mình đến đâu. Nhà văn không nên nhìn sự vật ở mộtchiều, tức là không nên chỉ nói đến cái đẹp. cái cao cả rồi cho rằng đã quá đủ. Nhàvăn phải linh hoạt, biết quan sát, biết đứng ở mọi nơi mọi chốn để tìm ra “ đẹp manmác khắp vũ trụ, lẩn khuất khắp hang cùng ngõ hẻm, tiềm tàng ở mọi vật tầmthường”, “cái đẹp ở những chỗ không ai ngờ tới, “cái đẹp kín đáo và che lấp của sựvật" (Thạch Lam).2. “Cái đẹp” trong đoạn trích “Người lái đò Sông Đà”2.1. Cái đẹp của thiên nhiên6Nguyễn Tuân là một nhà văn yêu nước, giàu lòng tự hào dân tộc. Tình yêunước ấy cũng chính là tình yêu thiên nhiên tha thiết. Đặc biệt, ông luôn dụng tâmkhám phá thiên nhiên vạn vật dưới góc độ văn hóa thẩm mỹ. Khám phá về sông Đà– dòng chảy dữ dội của núi rừng Tây Bắc là một thành công đặc sắc của ông. Chỉcó ông Nguyễn mới không nhọc công dò đến ngọn nguồn lạch sông, truy tìm đếntận nơi gốc tích khai sinh ra sông Đà, để biết chỗ phát nguyên của nó thuộc huyệnCảnh Đông và thoạt kì thủy, dòng sông mang những cái tên Trung Hoa khá thơmộng: Li Tiên, Bả Biên Giang. Cũng chưa có nhà văn nào trước Nguyễn Tuân cóthể kể tên vanh vách 50/73 con thác lớn nhỏ nằm lô nhô suốt một dải sông từ LaiChâu về đến chợ Bờ. Cũng không có ai như Nguyễn, để có thể hạ bút viết đúng bacâu về màu sắc nước sông Đà đã phải có mấy lần bay ngang qua miền sông ấy.Nếu sông Đà cứ chảy xuôi dòng như bao con sông khác thì có lẽ sẽ chẳng bao giờNguyễn Tuân nhọc lòng vì nó đến vậy, bởi không có gì đặc biệt thì làm sao có thểhấp dẫn ngòi bút của nhà văn?! Nhất là lại với một người nghệ sĩ vốn chẳng baogiờ bằng lòng với những gì chung chung, đại khái như Nguyễn Tuân. Chẳng thếmà nguồn cảm hứng cũng như lời đề từ cho tác phẩm lại là câu thơ của NguyễnQuang Bích:''Chúng thuỷ giai đông tẩuĐà giang độc bắc lưu''Ngay từ câu đề từ, Nguyễn Tuân đã vừa thâu tóm lấy cái thần sông Đà, vừa tómluôn cái thần chữ của mình. Một mặt “ bắc lưu ” là sư cưỡng lại “đông tẩu” - cáiriêng độ đáo là sự cưỡng lại sức xói mòn của cái chung nhàm cũ. Mặt khác, “bắclưu” chỉ tồn tạI trước “đông tẩu” - cái riêng độc đáo chỉ tồn tạ trước cái chung củanó đồng nghĩa vớI cái cao hơn sự khác lạ là cái sáng tạo. Sông Đà - con sông độclạ thật thích hợp vớI một ngòi bút độc lạ. Nguyễn Tuân đã lay con sông vô tri thứcdậy, tướI vào linh hồn nó, và ông khai sinh dòng sông nghệ thuật của minh bằngmột cái tên đủ in luôn tính nết vào nó: “hung bạo và trữ tình” . Tính cách sông Đàlà một hệ thống những phẩm chát đối chọi nhau nhu nước với lửa , và phải từnhững nghịch lí nghịch âm ấy , con sông mớI có đủ điều kiện phô bày hết vẻ phứctạp phong phú, đầy hấp dẫn của mình. Ai đó đã từng nói: “Dù đã có bao ngườikhắc, vẽ, và kể chuyện về sông Đà, làm thơ và ca hát với sông Đà thì có lẽ vẫnchưa ai vượt hơn được Nguyễn Tuân trong việc biến vùng sông nước ấy thànhnghệ thuật , thành một gợi cảm mênh mang”. Một dòng sông hung bạo và trữ tình,7khám phá nó như trèo lên một cái cây đầy gai, nhưng trên ngọn là quả ngọt, khôngít khó khăn nhưng cũng đầy thú vị.2.1.1Vẻ đẹp uy nghiêm, hùng vĩ, dữ dội của Sông ĐàCái hùng vĩ, dữ dội của con sông nằm ngay ở khúc thượng nguồn – nơi đỉnhđầu tổ quốc ta. Ngay từ đầu tác phẩm, nhà văn đã giới thiệu ngay về nét đẹp hùngvĩ của vùng núi Tây Bắc – nơi dòng sông tọa lạc: “Núi Tây Bắc cao một ngànthước, hai ngàn thước và ngọn núi ba ngàn một trăm bốn mươi hai thước, đỉnh đáPhăng Tây Păng cao nhất của Tổ quốc ta là mọc ở Tây Bắc. Nằm lọt giữa cái thảmđá, giường đá vĩ đại Tây Bắc là con Sông Đà, đúng là trôi từ cấp đá các miền núiTây Bắc dốc xuống”.Và bằng tài hoa nghệ thuật cùng sự tinh tế trong cảm nhận, Nguyễn Tuân đãkhám phá vẻ đẹp hùng vĩ của con sông không chỉ ở diện mạo mà còn ở tâm địa củanó.Ở diện mạo, Sông Đà lộ rõ bộ mặt nham hiểm và nguy hiểm với những “đábờ sông dựng vách thành” và những bức thành vách đá cao vút vững chãi, chẹtchặt lấy lòng sông hẹp. Cái hẹp của lòng sông tác giả tả theo đủ cách: “Mặt sôngchỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời”; “Con hổ con nai có thể vọt qua sông, vàchỉ can nhẹ tay thôi cũng có thể ném hòn đá từ bờ bên này qua bên kia vách”.Chính sự chật hẹp ấy mang đến cho người ta cảm giác những vách đá tựa nhữngthành trì kiên cố, thâm nghiêm, chứa đầy những bí mật. Nó vừa có sức hút ngườita, vừa có sức đẩy người ta bởi sức đe dọa từ cái không khí thâm u ngàn đời củanó. Và cũng chính cái sự chật hẹp ấy đã mang lại cảm giác “ngồi trong khoang đòqua quãng ấy, đang mùa hè cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cáingõ mà ngóng vọng lên một cái khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nàovừa tắt phụt đèn điện” - là cái lạnh do hơi nước bị cầm tù dưới chân vach đá, haydo khí đá sắc như dao, hoặc phải chăng là cái cảm giác gai ghê ớn lạnh trước vẻhùng vĩ, uy nghiêm tưởng chừng không một tia sự sống có thể tồn tại ấy của khúcthượng nguồn?Bằng cách so sánh vừa chính xác, tinh tế, vừa bất ngờ và lạ lùng, ta có cảmgiác như Nguyễn Tuân đã lục lọi đến tận kiệt cùng cái “kho chữ” ấn tượng đầy ămắp để tìm cho được một cách nói có thể làm kinh động hồn trí con người nhất.8Và nữa là gió trên Sông Đà đoạn ghềnh Hát Loóng “dài hàng cây số” cũngkhông phải là thứ mà người ta có thể khinh nhờn, khi mà "nước xô đá, đá xô gió,cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm”. Câu văn dài, nhịp văn nhanh cùng lối diễnđạt theo kiểu móc xích, cấu trúc câu trùng điệp gợi ra hình ảnh nước đá sông Đàhệt như một lũ cuồng quân dữ dằn như lúc nào cũng muốn tiêu diệt con người.Cái diện mạo dữ dằn của Sông Đà còn thấy ở những hút nước quãng TàMường Vát đầy ghê rợn: “Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc. Trênmặt cái hút xoáy tít đáy, cũng đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn.” Cách ví vonđầy hình ảnh ấy khiến con sông hiện lên không khác gì một loài thủy quái đang hámiệng nhe nanh, tham lam muốn nuốt con mồi quá khổ mà dãy dụa kêu lên nhữngtiếng “ặc ặc”. Sức hủy diệt của những con hút ấy cũng không phải dùng từ “đángsợ” mà có thể hình dung được: “Không thuyền nào dám men gần những cái hútnước ấy, thuyền nào qua cũng chèo nhanh để lướt quãng sông, y như là ô tô sangsố ấn ga cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Chèonhanh và tay lái cho vững mà phóng qua cái giếng sâu, những cái giếng sâu nướcặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào. Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống,thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòngsông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới”. Đến những bè gỗkhổng lồ, những con thuyền linh lợi mà còn trở thành miếng mồi ngon cho laofithủy quái ấy thì huống hồ là con người nhỏ bé, lẻ loi.Âm thanh nước thác cũng góp them vào cái diện mạo hiểm độc của consông: “như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọnggằn mà chế nhạo”, rồi lại như “tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữarừng vầu rừng te nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét vớiđàn trâu da cháy bùng bùng”. Bằng nghệ thuật so sánh, nhân hóa tài ba cùng nhữngliên tưởng rất “đắt”, Nguyễn Tuân đã cho thấy giúp ta nhận thấy được từng sắcdiện người trong những hình thù lũ đá vô tri, để rồi khắc họa nên một cảnh tượngthác nước hùng vĩ, nguy hiểm vô cùng. Lần đầu tiên trong thơ văn có người lạidùng lửa để miêu tả nước, hai nguyên tố có sức hủy diệt rất lớn lại luôn tương khắcvới nhau, có nước thì không có lửa, ngược lại, có lửa thì không có nước. Vậy màNguyễn Tuân đã làm được điều đó. Ông quả là một nghệ sĩ bậc thầy!9Cái tài của ông Nguyễn còn là sự điêu luyện tinh tế khi ông thổi hồn vàotừng thứ đá vô tri một linh hồn, một xúc cảm, một diện mạo khi mà mặt hòn nàocũng “ngỗ ngược”, rồi “nhăn nhúm”, “méo mó” hệt như một lũ tướng dữ quân tợn,đầu trâu mặt ngựa, phường bất hảo nơi thiên nhiên hoang dại với tâm địa hiểm áckhông thể lường trước được.Đặc biệt hơn nữa, sông Đà hình thành một trùng vi thạch trận, giao việc chomỗi hòn, để chúng phối hợp lại thành ba trùng vi nguy hiểm. Người lái đò muốnvượt qua dòng chảy này thì phải vượt qua ba trận chiến hiểm trở, táo bạo này. Vớigiọng văn dồn dập, cùng trí tưởng tượng phong phú, kho từ vựng giàu có, vốn trithức phong phú được sử dụng hợp lí, Nguyễn Tuân như một vị tướng tài ba trêntrận đồ chữ nghĩa, dồn hết bút lực kéo người đọc vào cùng vượt thác với người láiđò.Trận thứ nhất “mặt nước hò la vang dậy quanh mình, ùa vào mà bẻ gãy cánchèo. Sóng nước như thể quân liều mạng vào sát nách…” Sang đến trận thứ hai“tăng thêm nhiều của tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch quabên phía bờ hữu ngạn”. Sang đến trận thứ ba dường như ít cửa hơn nhưng lại quyếtliệt và mãnh liệt hơn. Sông Đà hiện lên không khác nào một con thủy quái với tháiđộ đầy trịch thượng, hách dịch đang đòi nuốt chửng người lái đò và chiếc thuyềnbất cứ lúc nào có thể. Con sông giờ phút này đã chính thức trở thành “kẻ thù sốmột” của người lái đò, với tất cả đặc tính nham hiểm, thâm độc nhất. Thạch trậnkhôn lường ấy lại càng thêm phức tạp khi đá “đánh bạn” với nước – ra những mónđòn hiểm độc như “đòn âm”, “đòn tỉa”, “đánh hồi lùng”. Hai thế lực hùn hạp vớinhau tạp nên thế gọng kìm hiểm độc, tạo thành một trận đồ bát quái kinh khủng.Chính khúc thượng nguồn dữ dội ấy đã làm nên nét riêng độc đáo không thể nhầmlẫn giữa muôn nghìn con sông khác – một vẻ đẹp hùng vĩ tráng lệ đầy thách thứccủa dòng chảy Tây Bắc đại ngàn kì vĩ.2.1.2Vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của Sông ĐàCũng như bao như muôn nghìn con sông khác, Sông Đà cũng xuôi dòng đổra biển, thả dáng vươn mình qua những thung lũng, đồng bằng thoai thoải nơi hạlưu. Dòng sông Đà không chỉ có những “dòng thác hùm beo đang hồng hộc tếmanh trên sông đá” mà nó còn là bức tranh thủy mặc vương vấn lòng người với nét10đẹp trữ tình đầy thơ mộng biết bao nhiêu! Nhạc điệu trầm bổng, đưa người đọc đếnvới cái yên ả của dòng sông đà nơi hạ lưu: "Dòng sông quãng này lững lờ nhưthương nhớ những hòn thác đá xa xôi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc. Và consông như đang lắng nghe những giọng nói êm êm của người xuôi, và con sôngđang trôi những con đò mình nở chạy buồm vải no khác hẳn những con đò đuôi énthắt mình dây cổ điển dòng trên".Qua ngòi bút tinh tế của Nguyễn Tuân, từ trên tàu bay nhìn xuống Sông Đà“tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời TâyBắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mùa khói mèo đốt nươngxuân”. Thật là một cách so sánh tài hoa, phong tình, “áng tóc” hay chính là “ángthơ” – dòng sông như cũng có cốt cách và phẩm giá nghệ thuật như một niềm thơ.Đặc biệt khi tác giả miêu tả nước của dòng sông mới thật tuyệt vời và thi vịbiết bao: “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà không xanh màucanh hến của sông Gâm sông Lô. Mùa thu nước sông đà lừ lừ chín đỏ như da mặtmột người bầm đi vì ruơu, lừ lừ cái màu đỏ giận giữ ở một người bất mãn bực bộigì mỗi độ thu về”. Màu nước sông tưởng như những chiếc khăn với màu sắc khácnhau mà núi rừng Tây Bắc quàng lên mình mỗi khi chuyển mùa.Việc so sánh màu nước Sông Đà với những con sông khác cũng thể hiện mộtnét đặc sắc nữa trong phong cách Nguyễn Tuân là ông thường miêu tả những cảnhđẹp tuyệt mỹ, tuyệt đích; cái đẹp ấy là sự hội tụ của cái đẹp thi vị trữ tình và vẻ đẹphoành tráng dữ dội đến dữ dằn. Đọc những câu văn này mà tôi lại nhớ đến khi màNguyễn Tuân tả màu nước biển Cô Tô: “Biển xanh như gì nhỉ ? Xanh như lá chuốinon ? Xanh như lá chuối già ? Xanh như mùa thu ngả cốm làng Vòng ? Nước biểnCô Tô đang đổi từ vẻ xanh này sang vẻ xanh khác. Nó xanh như cái màu áo KimTrọng trong tiết Thanh Minh ? Ðúng một phần thôi. Bởi vì con sóng vừa dội lênkia đã gia giảm thêm một chút gì, đã pha biến sang màu khác. Thế thì nước biểnxanh như cái vạt áo nước mắt của ông quan Tư Mã nghe đàn tì bà trên con sóngGiang Châu thì có đúng không?” Chẳng hiểu sao chỉ đọc một lần vậy thôi mà ta đãcó thể nghĩ rằng – đây quả đúng là văn cụ Nguyễn.Những từ ngữ mượt mà, sức liên tưởng phóng túng của mình, Nguyễn tuânđã trao cho con sông vô tri một linh hồn rất con người, cũng mang tâm trạng, tìnhcảm như ai. Để rồi ông nhìn ra sự gợi cảm của Sông Đà với vẻ đẹp của nắng tháng11ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”, làm cho người đi rừng dàingày “vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứtquãng”. Cách so sánh ví von tự nhiên mà giàu sức gợi, khiến cho cái tình NguyễnTuân đối Sông Đà thật chẳng khác nào cái tình giữa những người tri kỉ, tình vớimột “cố nhân”.Bờ bãi Sông Đà khúc hạ lưu cũng lại mang một vẻ đẹp rất riêng đầy thơmộng của một vùng bờ bãi “lặng tờ”. Có những cảnh hoang vu, hoang sơ đến kì lạ:“Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổtích tuổi xưa”. Hai bên sông còn là “những nương ngô nhú lên những lá ngô nonđầu mùa, những cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầungốn cỏ gianh đẫm sương đêm”. Trong lúc đang thưởng thức cảnh sắc thiên nhiênthơ mộng và tuyệt đẹp như thế, nhà văn bỗng cảm thấy “thèm được giật mình vìmột tiếng còi xúp-lê của một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ – Yên Bái– Lai Châu” - muốn được đánh thức bởi sự hiện diện của con người. Thiên nhiêntuy đẹp đấy nhưng hoang sơ, “tịnh không một bóng người”, “một nương ngô nhúlên mấy lá ngô non đầu mùa” mà không có ai chăm sóc, “dường như từ đời Lí đờiTrần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi” – một vẻ đẹp tháchthức thời gian, tựa như trường tồn vĩnh cửu. Thật buồn tẻ! Nhưng nhanh chóng, từquá khứ nhà văn trở về với hiện tại và hướng tới tương lai đẹp đẽ. Đất đai ở đây sẽcó con người khai phá, đường xá sẽ được mở, những ngôi làng thị trấn sẽ đượcmọc lên, khắp nơi đều đầy ắp tiếng cười nói của mọi người. Chỉ có thể là trí tưởngtượng phong phú của Nguyễn Tuân mới có thể đưa ra một phép so sánh mới lạ đầyấn tượng nhường ấy, khi lấy không gian đặt cạnh thời gian, lấy cái vô hình để vívon với cái hữu hình - so sánh không nhằm để tả, mà hòng gợi. Đang mộng mơbên cảnh sông Đà, Nguyễn Tuân có mối giao cảm kì lạ với loài vật: “Con hươu thơngộ ngẩng đầu nhung khỏi ánh cỏ sương, chăm chăm nhìn tôi lừ lừ trôi trên mộtmũi đò. Hươu vểnh tai, nhìn tôi không chớp mắt mà như hỏi tôi bằng cái tiếng nóiriêng của con vật lành: Hỡi ông khách sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe thấymột tiếng còi sương?”. Ở đây dường như là con vật hỏi người hay chính là ngườiđang say trong cảnh mộng mà tự hỏi mình. Cảnh sông Đà thơ mộng là thế, cónhững khoảng lặng diệu kì khiến con người ta rơi vào cảm giác thần tiên để rồitiếng đập nước của ”đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạcrơi thoi đuổi mất đàn hươu vụt biến” đánh thức người đang mộng. Nguyễn Tuân đãdùng cái động để tả thật tài tình cái tĩnh lặng kì diệu.12Vẻ đẹp hoang sơ thơ dại là thế, bờ bãi Sông Đà còn mang một vẻ đẹp trữtình nên thơ. Lênh đênh trên dòng nước xanh ngọc đẹp đẽ, phẳng lặng, nhà thơchợt có sự đồng điệu trong cảm xúc về sông Đà như Tản Đà khi trước: “Dải sôngđà bọt nước lênh bênh – Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình” của “một người tình nhânchưa quen biết”. Vậy là Sông Đà đã trở thành nguồn thi cảm, nơi gặp gỡ của muônhồn thi nhân không chia người sau kẻ trước ở một lòng thiết tha với cảnh sắc vàphong vị quê hương. Đặc biết, cách diễn đạt của Nguyễn Tuân đã xóa nhòa ranhgiới giữa dòng sông và dòng thơ, giữa hiện tại và cảnh trong mộng nhớ, khiến conthuyền Nguyễn Tuân không chỉ đang trôi trên Sông Đà nữa mà còn như đang viễndu vào mênh mông vùng nghệ thuật.Để rồi, ta lại không kìm được mà thốt lên rằng: quả thực “chưa ai vượt hơnđược Nguyễn Tuân trong việc biến vùng sông nước ấy thành nghệ thuật, thành mộtgợi cảm mênh mang”.2.2. Cái đẹp của con người2.2.1. Quan niệm nghệ thuật của Nguyễn Tuân về con ngườiDù trước hay sau Cách mạng, quan niệm nghệ thuật của Nguyễn Tuân vềcon người đều có một điểm thống nhất: vẫn luôn tiếp cận con người ở phương diệntài hoa, nghệ sĩ. Nếu Thạch Lam truy tìm cái đẹp trong cuộc đời nghèo khổ, bìnhdị, thì Nguyễn Tuân thường say mê với những vẻ đẹp phi thường, tuyệt mĩ. Trongquan niệm của nhà văn ngay cả những người bình thường khi thực thi những côngviệc bình thường cũng phải đạt tới đỉnh cao của sự tài hoa, khéo léo.Tuy nhiên, nếutrước Cách mạng tháng Tám, con người Nguyễn Tuân hướng tới và ca ngợi lànhững “con người đặc tuyển, những tính cách phi thường” thì sau Cách mạng,nhân vật tài hoa nghệ sĩ của Nguyễn Tuân có thể tìm thấy ngay trong cuộc chiếnđấu, lao động hàng ngày của nhân dân. Trước Cách mạng tháng Tám, NguyễnTuân là một người tài tử, thích chơi “ngông”, mắc cái bệnh ham mê thanh sắc,thích chiêm ngưỡng, chắt chiu cái Đẹp và nhấm nháp những cảm giác mới lạ.Nhưng trải qua một cuộc “lột xác”, bừng tỉnh nhận thức và tư duy, nhà văn trở nênnhạy cảm với con người mới, cuộc sống mới từ góc độ thẩm mĩ của nó. Không cònlà một Nguyễn Tuân “nghệ thuật vị nghệ thuật” nữa. Ông đã nhìn cái đẹp của con13người là cái đẹp gắn với nhân dân lao động, với cuộc sống đang nẩy nở sinh sôi,đồng thời lên án, tố cáo chế độ cũ, khẳng định bản chất nhân văn của chế độ mới.Hình tượng người lái đò trong đoạn trích “Người lái đò Sông Đà” chính làmột hình tượng tiêu biểu đặc trưng cho cách nhìn con người của Nguyễn Tuân thờikì mới.2.2.2. Vẻ đẹp của hình tượng người lái đòNgười lái đò dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân đã không đơn thuần chỉ là mộtngười lao động bình thường nữa mà đã trở thành người nghệ sĩ trên mặt trận sôngnước với một phẩm chất tài hoa nghệ sĩ.Có lẽ bao tình cảm đam mê, yêu quý sông Đà của Nguyễn Tuân được gửigắm vào nhân vật ông lái đò, nên nhà văn đã để nhân vật của mình gắn bó với sôngĐà đến mức máu thịt, hiểu và yêu dòng sông đến mức thuộc lòng từng tên thác tênghềnh hơn một nghìn tên dù dễ hay khó đều hội tụ lắng đọng thành một dòng chảytrong trái tim của ông lái đò hay chính là trái tim của Nguyễn Tuân. Ông thuộcdòng sông như thuộc một “bản trường ca, thuộc đến từng dấu chấm dấu phẩy, dấuchấm than và từng đoạn xuống dòng”. Ông lái tựa như một người nghệ sĩ đích thựckhi nhìn con sông như nhìn một tác phẩm nghệ thuật; và đây đã không còn đơnthuần chỉ là tình yêu của một người làm nghề với môi trường nghề nghiệp nữa mànó đã trở thành niềm đắm say của người nghệ sĩ với công trình tuyệt tác nghệ thuậtmà đất trời đã hào phóng ban cho Tây Bắc xa xôi.Không chỉ yêu mến, ông lái còn am hiểu con sông một cách tận tường khi“đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá, ông đã thuộc quy luật phục kíchcủa lũ đá nơi ải nước hiểm trở này”. Có lẽ chính vì thế mà ông lái đò đã khuấtphục, chế ngự được sự hung bạo của dòng sông Đà. Ông không phải thần thánh màchỉ là một người lao động bình thường bằng xương bằng thịt nhưng với chí dũngsong toàn mà vẫn hiên ngang đối đầu với cả “thần”, chiến thắng thiên nhiên nghiệtngã để tồn tại.Sự tài hoa, trí dũng của ông lái đò được cụ thể qua những cuộc giao tranh dữdội với nước, sóng, gió và đá qua ba thạch trận.14Trước hết là trùng vi thạch trận thứ nhất, người đọc đặc biệt ấn tượng vớinhững câu văn tả đá được nhân hóa như một đội quân: “đá tảng, đá hòn”…, “đátiền vệ” đã bày ra thạch trận với năm cửa, có bốn cửa tử và một cửa sinh. Bên cạnhđó, nhà văn sử dụng một loạt động từ trùng điệp để tô đậm sức mạnh của đội quânđá: “mai phục”, “nhổm cả dậy”, “đứng ngồi nằm tùy theo sở thích”. “ăn chết”,“canh cửa”, “hất hàm’…Cộng hưởng với những động từ là những tính từ làm nổibật tính hung bạo: “ngỗ ngược”, “nhăn nhúm”, “méo mó…Tất cả làm nổi bật thếvà lực của đá sông vừa đông vừa mạnh hung tợn, ghê sợ tạo thành thế không cânsức với ông lái đò chỉ có một mình đơn phương độc mã để gieo vào lòng người đọcbao phấp phỏng, hồi hộp. Bên cạnh đá là nước, “phối hợp với đá, nước thác reo hòlàm thanh viện cho đá”, tạo nên âm thanh dữ dội tăng thêm không khí chiến đấu ácliệt. Sóng nước biết tung ra các đòn đánh nguy hiểm như đánh giáp lá cà, đánhkhuýp quật vô hồi, đá trái, thúc gối…Có thể nói Nguyễn Tuân đã rộng mở sự uyênbác tài hoa của mình để kho ngôn từ phong phú sinh động đầy ắp trong mọi lĩnhvực của sự sống, tuôn chảy không ngừng cả các ngôn ngữ quân sự thể thao, quânsự cũng được huy động với tần số đậm đặc để cực tả đá nước sông Đà. Đây chínhlà nghệ thuật vẽ mây đẩy trăng để gián tiếp ca ngợi chí dũng song toàn của ông láiđò khi sáng suốt lựa chọn binh pháp chế ngự kết hợp phòng thủ. Ở chặng này, nhàvăn ca ngợi ông lái đò có sức chịu đựng phi thường “ông đò cố nén vết thương, haichân vẫn kẹp chặt cuống lái”… chỉ huy ngắn gọn kín đáo và ông đã chiến thắng“phá xong trùng vi thạch trận thứ nhất”.Ở trùng vi thạch trận thứ hai, đá nước sóng tăng thêm nhiều cửa tử “dòngthác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh”, “bốn năm thủy quân không ngớt khiêukhích”…Những động từ mạnh vẫn tiếp tục tuôn chảy không ngớt trên những trangvăn cộng hưởng với phép tu từ so sánh nhân hóa rất độc đáo giúp nhà văn biếnsóng nước thành hùm thiêng, sông nước tăng thêm sức mạnh đến đỉnh điểm của Đàgiang để tiếp tục tôn lên tư thế hào hùng của ông lái đò. Ông lái đò “không chútnghỉ tay, nghỉ mắt phá luôn vòng vây thứ hai và đổi luôn chiến thuật”, “ông đònắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá, ông đã thuộc hết quy luật phục kíchcủa lũ đá” nên ông chủ động tự tin nhanh nhẹn làm chủ tình thế “cưỡi lên thácsông Đà như cưỡi hổ, nắm chặt bờm sóng, ghì cương lái, phóng nhanh, chặt đôithác để mở đường tiến”. Những động từ mạnh liên tiếp lại như đưa người đọc vàocuộc chiến của sóng nước tạo ra trạng thái say như say sóng, để từ đó tôn vinh lênnhững nét đẹp của ông lái đò đó là mưu trí, dũng cảm, kiên cường.15Nếu ở cuộc giao tranh thứ nhất và thứ hai Nguyễn Tuân cực tả vẻ đẹp trídũng song toàn và phẩm chất anh hùng của ông lái đò thì ở chặng thứ ba nàyNguyễn Tuân muốn cho người đọc thấy “tay lái ra hoa” của ông lái. Nguyễn Tuânmiêu tả “bên phải, bên trái đều là luồng chết” khiến ông lái đò phải vận dụng tàinăng nghề nghiệp của mình, nâng thuyền của mình lên mặt nước như nghệ sĩ láimô tô bay trong không trung để “xuyên qua mặt nước”…những động từ mạnh“vút” hay “xuyên” lặp đi lặp lại nhấn mạnh tốc độ lái thuyền nhanh mạnh, cộng vớinhiều phép so sánh liên tiếp khiến người đọc vừa cảm nhận được độ nhanh mạnhvừa cam nhận được độ khéo léo của con thuyền trong hướng đi luồn lách tránh độiquân đá đông đúc. Nghệ thuật lái thuyền đến đây khiến người đọc hoàn toàn tâmphục, khẩu phục. Đúng là ông lái đò đã đạt đến mức nghệ sĩ trong nghề nghiệp củamình.Vượt qua thách dữ ghềnh sâu, ông lái lại trở vè là một con người ung dung,bình dị của cuộc sống thường nhật. Xong trận, ông nào cũng ung dung, thanh thảnnhư chưa từng vượt thác: sóng thác xèo xèo tan ra trong trí nhớ. Sông nước lạithanh bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bànvề cá anh vũ, cá dầm xanh, về những cái hầm cá hang ca mùa khô nổ những tiếngto như mìn bộc phá rồi túa ra đầy tràn ruộng. Cũng chả thấy ai bàn thêm một lờinào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi ải nước đủ tướng dữ quân tợn vừa rồi. Nhưnhững nghệ sĩ chân chính, sau khi vắt kiệt sức mình để thai nghén nên tác phẩmkhông mấy ai tự tán dương về công sức của mình. Nguyễn Tuân đầy tinh tế mà đưara một lời nhận xét: “Cuộc sống của họ là ngày nào cũng chiến đấu với sông Đà dữdội, ngày nào cũng giành lấy sự sống từ tay những cái thác, nên nó cũng không cógì là hồi hộp, đáng nhớ… Họ nghĩ thế, lúc ngừng chèo”. Chính sự khiêm nhườngkhi coi chiến tích vĩ đại chỉ là một chuyện bình thường đã khiến hình ảnh người laođộng càng trở nên lồng lộng phi thường. Và có phải chăng người lái đò anh hùngcó lẽ dế thấy, nhưng nhìn người lái đò tài hoa, chỉ có Nguyễn Tuân.KẾT LUẬNQuả thực Nguyễn Tuân là một nhà văn suốt đời mê cái đẹp và mải miết truytìm cái đẹp. Vẻ đẹp trong thiên nhiên và con người nơi Tây Bắc xa xôi đã hòaquyện phối hợp với nhau thực nhuần nhị, thiên nhiên hùng vĩ làm nền cho conngười xuất hiện đầy hùng tráng, con người lại tô điểm cho thiên nhiên them mỹ lệ,lộng lẫy. Chính điều này đã phần nào thể hiện một nét phong cách đặc trưng của16ông: ưa “quan sát, khám phá sự vật ở phương diện mĩ thuật và con người ở phươngdiện tài hoa nghệ sĩ” (Nguyễn Đăng Mạnh).Giữa cuộc sống bình dị này, chính nhà văn là người mang lại cho ta một thếgiới mới, tinh khôi, kì diệu. Nguyễn Tuân cũng là một nhà văn, một người gópphần sáng tạo lại thế giới. Văn chương của Nguyễn Tuân đã mang đến cho chúngta một chân trời huyền bí riêng biệt, hấp dẫn và độc đáo. Đó là chân trời của cáiđẹp, của sự tài hoa và uyên bác – nơi những con chữ nhảy múa vi diệu trên trận đồchữ nghĩa, mang đến một mỹ cảm trọn vẹn tỏng cả nội dung và hình thức nghệthuật. “Người lái đò Sông Đà” khép lại nhưng những mỹ cảm nó mang đến vẫn cứđọng lại mãi, vấn vương tâm trí con người ta như một niềm ám ảnh.17