Nhà bảo sanh tiếng anh là gì năm 2024

Mời bạn nhập câu hỏi ở đây (đừng quên cho thêm ngữ cảnh và nguồn bạn nhé)

Bạn đang cần hỏi gì? Đăng nhập để hỏi đáp ngay bạn nhé.

Nhà bảo sanh tiếng anh là gì năm 2024

Rừng ít người vô nhỉ, nhưng trong bài viết của em thống kê thì lượng view đọc bài lúc nào R cũng đứng đầu á, thậm chí còn kéo dài liên tục, đều đặn Lạ nhỉ

Cơ quan chủ quản: Công ty cổ phần Truyền thông Việt Nam. Địa chỉ: Tầng 16 VTCOnline, 18 Tam Trinh, Minh Khai, Hai Bà Trưng, Hà Nội Điện thoại: 04-9743410. Fax: 04-9743413.

Liên hệ Tài trợ & Hợp tác nội dung Hotline: 0942 079 358 Email: [email protected]

19 Những người khảo cứu xác nhận rằng những đứa bé sanh tại các nhà bảo sanh thường gặp phải khó khăn đôi khi ngay trong những giờ đầu sau khi sanh.

19 Researchers claim that the problems of babies treated by medical centers can sometimes be traced to the first few hours of life.

Khi so sánh những đứa trẻ sanh tại nhà bảo sanh và lìa mẹ chúng lúc sanh ra, với những đứa khác đã được đem lại gần mẹ chúng, người ta thấy rằng một tháng sau những đứa trẻ được đem lại gần mẹ chúng ngay sau khi sanh thường mạnh khỏe hơn.

Comparisons made between children given the standard hospital treatment at birth and others immediately put with their mothers indicate that after one month the babies delivered by natural childbirth were doing better.

Thượng Đế bảo họ: “Hãy sanh-sản, thêm nhiều, làm cho đầy-dẫy đất; hãy làm cho đất phục-tùng”.

God said to them: “Be fruitful and become many and fill the earth and subdue it.”

Ngài đã tạo ra cặp vợ chồng đầu tiên, ông A-đam và bà Ê-va, để họ trong vườn địa-đàng Ê-đen, và truyền bảo họ sanh sản con cái và nới rộng địa-đàng ra khắp đất.

He created the first human pair Adam and Eve, placed them in an earthly paradise called Eden, and instructed them to have children and extend their Paradise home earth wide.

(1 Phi-e-rơ 3:20) Và Giê-hô-va Đức Chúa Trời bảo họ: “Hãy sanh-sản, thêm nhiều, làm cho đầy-dẫy trên mặt đất”.—Sáng-thế Ký 9:1.

(1 Peter 3:20) And to them Jehovah God gave a mandate saying: “Be fruitful and become many and fill the earth.” —Genesis 9:1.

Kìa, trong bốn mươi lăm năm nay, từ khi Ngài phán lời nầy cùng Môi-se, đương khi Y-sơ-ra-ên còn đi trong đồng vắng, Đức Giê-hô-va đã bảo-tồn sanh-mạng tôi đến bây giờ, và ngày nay tôi được tám mươi lăm tuổi.

And now here Jehovah has preserved me alive, just as he promised, these forty-five years since Jehovah made this promise to Moses when Israel walked in the wilderness, and now here I am today eighty-five years old.

(Ê-sai 45:18) Đức Chúa Trời đặt cặp vợ chồng đầu tiên trong vườn địa đàng và bảo họ “hãy sanh-sản, thêm nhiều, làm cho đầy-dẫy đất; hãy làm cho đất phục-tùng”.

(Isaiah 45:18) God placed the first human couple in a paradise garden and instructed them: “Be fruitful and become many and fill the earth and subdue it.”

Ngài bảo họ: “Hãy sanh-sản, thêm nhiều, làm cho đầy-dẫy đất; hãy làm cho đất phục-tùng, hãy quản-trị loài cá dưới biển, loài chim trên trời cùng các vật sống hành-động trên mặt đất” (Sáng-thế Ký 1:28).

He said to them: “Be fruitful and become many and fill the earth and subdue it, and have in subjection the fish of the sea and the flying creatures of the heavens and every living creature that is moving upon the earth.”—Genesis 1:28.

Đức Chúa Trời dặn bảo họ: “Hãy sanh-sản, thêm nhiều, làm cho đầy-dẫy đất; hãy làm cho đất phục-tùng, hãy quản-trị loài cá dưới biển, loài chim trên trời cùng các vật sống hành-động trên mặt đất”.—Sáng-thế Ký 1:28.

God told them: “Be fruitful and become many and fill the earth and subdue it, and have in subjection the fish of the sea and the flying creatures of the heavens and every living creature that is moving upon the earth.” —Genesis 1:28.

14 Đức Giê-hô-va đã phán bảo cặp vợ chồng đầu tiên: “Hãy sanh-sản, thêm nhiều” (Sáng-thế Ký 1:28).

14 Jehovah instructed the first human couple: “Be fruitful and become many.”

Với sự nhơn-từ của Ngài, Đức Giê-hô-va đã sai Giăng Báp-tít đến với những “nhánh nguyên” Y-sơ-ra-ên mà bảo họ phải sanh trái “xứng-đáng với sự ăn-năn” và tin nơi Giê-su (Ma-thi-ơ 3:8:, Công-vụ các Sứ-đồ 19:4).

In his kindness Jehovah had sent John the Baptizer to the Jewish “natural branches” to tell them to “produce fruit that befits repentance” and to believe in Jesus.

Đức Giê-hô-va bảo vệ “vườn nho” Ngài và khiến nó sanh hoa lợi

Jehovah protects his “vineyard” and makes it fruitful

Nhưng kết hôn và sanh con cái không nhất thiết bảo đảm sự an toàn.

But marriage and childbearing do not guarantee security.

Thí dụ, Lời Đức Chúa Trời bảo: “Hãy nghe lời cha đã sanh ra con, chớ khinh-bỉ mẹ con khi người trở nên già-yếu”.

For example, God’s Word directs: “Listen to your father who caused your birth, and do not despise your mother just because she has grown old.”

(Sáng-thế Ký 2:23) Thứ hai, Đức Chúa Trời bảo A-đam và Ê-va “hãy sanh-sản, thêm nhiều, làm cho đầy-dẫy đất”.

(Genesis 2:23) Second, God told Adam and Eve to “be fruitful and become many and fill the earth.”

Đức Chúa Trời bảo với cặp vợ chồng đầu tiên: “Hãy sanh-sản, thêm nhiều, làm cho đầy-dẫy đất” (Sáng-thế Ký 1:28).

God told the first human couple: “Be fruitful and become many, fill the earth.”

(Sáng-thế Ký 2:25) Đức Chúa Trời bảo họ hãy sinh con cái, Ngài nói: “Hãy sanh-sản, thêm nhiều, làm cho đầy-dẫy đất”.

(Genesis 2:25) God told them to have children, saying: “Be fruitful and become many and fill the earth.”

Đức Giê-hô-va đã tạo ra trái đất và bảo con người hãy sanh sản làm cho đất đầy dẫy những người đàn ông và đàn bà công bình biết chăm sóc các loài cây cỏ và sinh vật sống trên đất, giữ gìn vẻ đẹp của nó thay vì hủy phá nó.

Jehovah created the earth and told mankind to fill it with righteous men and women who would care for its plant and animal life and preserve its beauty instead of destroying it.

10 Vì nhà tiên tri Giê-rê-mi sống trong một thời kỳ bi đát nên Đức Chúa Trời bảo ông không được lấy vợ và sanh con cái (Giê-rê-mi 16:1-4).

10 Because of the dramatic times in which the prophet Jeremiah lived, God required that he refrain from marrying and raising children.

Đức Chúa Trời dặn bảo họ: “Các ngươi hãy sanh-sản, thêm nhiều, và làm cho đầy-dẫy trên mặt đất” (Sáng-thế Ký 9:7). Cãi lại lời chỉ dẫn của Đức Giê-hô-va, người ta đi xây một cái thành để họ khỏi bị “tản-lạc khắp trên mặt đất”.

(Genesis 9:7) In opposition to Jehovah’s direction, the people built a city so that they would not “be scattered over all the surface of the earth.”

Chúng ta được dạy bảo trong các thánh thư rằng “nếu đức tin không sanh ra việc làm thì tự mình nó chết” (Gia Cơ 2:17).

We are told in the scriptures that “faith, if it hath not works, is dead, being alone” (James 2:17).

Đức Chúa Trời đã bổ túc người đàn ông bằng cách tạo ra người đàn bà để giúp ông ta làm theo lời chỉ bảo của Đức Chúa Trời là sanh sản thêm nhiều, làm đầy dẫy và chăm sóc trái đất.

God made woman as a satisfying match for man to assist him in carrying out the God-given instructions to populate and care for the earth.

Ngài bảo Bôn-xơ Phi-lát: “Nầy, vì sao ta đã sanh và vì sao ta đã giáng-thế; ấy là để làm chứng cho lẽ thật” (Giăng 18:37).

He told Pontius Pilate: “For this I have been born, and for this I have come into the world, that I should bear witness to the truth.”

Đó là lý do tại sao Đấng Tạo hóa bảo họ làm đất “phục-tùng” trong khi họ tiếp tục sanh sản làm đầy dẫy đất (Sáng-thế Ký 1:28).