Những biện pháp phát triển nhân cách cho bản thân

Về một số giải pháp xây dựng nhân cách đạo đức hiện nay

PTS. Nguyễn Văn Phúc

06:19 CH @ Chủ Nhật - 25 Tháng Sáu, 2006

Sự hình thành nhân cách nói chung, nhân cách đạo đức nói riêng, bị quy định bởi tổng thể những điều kiện kinh tế xã hội và bởimột hệ thống giáo dục do chính những điều kiện kinh tế - xã hội đó quy định. Tuy vậy, để xây dựng nhân cách đạo đức, trước hết cần phải tính đến những nhân tố cơ bản quy định sự hình thành và phát triển nhân cách đạo đức để từ đó, rút ra những giải pháp khả thi.

Nhân tố quy định nhân cách đạo đức ở tầng sâu nhất là cơ sở lợi ích. Nói cụ thể hơn, tính chất của việc giải quyết quan hệ lợi ích giữa cá nhân và xã hội là nhân tố sau cùng quy định bộ mặt đạo đức của nhân cách. Trong xã hội truyền thống và trong thời kỳ thực hiện nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, lợi ích của cộng đồng, của tập thể được đề cao nhiều khi đến tuyệt đối hoá. Điều đó dẫn đến một sự đối lập có tính tách rời giữa đạo đức và lợi ích cá nhân. Định hướng và sự lựa chọn hành vi cá nhân thường được đặt trong tình thế tuyển mạnh: hoặc là đạo đức, hoặc là lợi ích. Nói cách khác, khi con người vươn tới những giá trị đạo đức cao cả thì họ buộc phải từ bỏ việc theo đuổi lợi ích cá nhân. Sự tách rời giữa đạo đức và lợi ích khiến cho hoạt động đạo đức của nhân cách bị hạn chế. Con người hướng vào suy tư đạo đức nhiều hơn lả thực hiện hành vi đạo đức thực tế, lo giữ cho nhân cách trong sạch, lương tâm thanh thản bằng cách hạn chế những hoạt động thực tiễn, đặc biệt là hoạt động kinh tế. Chính điều đó làm cho nhân cách nói chung, nhân cách đạo đức nói riêng không phát triển toàn diện được.

Ngày nay, cơ chế thị trường làm biến đổi tính chất của việc giải quyết quan hệ lợi ích giữa cá nhân và lợi ích xã hội. Thực hiện cơ chế thỉ trường nghĩa là thừa nhận tính hợp lý của việc theo đuổi lợi ích cá nhân. Một trong những đặc trưng tiêu biểu cho cho chế thị trường là ởchỗ, mục tiêu của việc tham gia hoạt động thị trườnglà nhằm thoả mãn tối đa lợi ích cá nhân. Tính hợp lý và hợp pháp của lợi ích cá nhân kích thích tính tích cực hoạt động của nhân cách Việc tham gia tích cực vào các hoạt động kinh tế, xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường sẽ làm cho những năng lực nhân cách phát triển. Đến lượt mình sự phát triển nhân cách độc lập chính là điều kiện cho sự phát triển những năng lực đạo đức của con người. Chính tại đây có thể nói đến tự do đạo đức với tính cách là dấu hiệu của sự phát triển nhân cách đạo đức một cách đầy đủ.

Tuy nhiên, cơ chế thị trường với sự khuyến khích lợi ích cá nhân, tự nó đã bao chứa khả năng và trên thực tế đã dẫn đến sự phát triển méo mó nhân cách. Trong điều kiện của kinh tế thị trường tự do, nghịch lý của sự phát triển nhân cách thể hiện rõ rệt nhất. Đó là sự lệch pha, sự phát triển thiên lệch giữa một bên là trí tuệ, sự khôn ngoan, những năng lực thực tiễn với bên kia là sự xuống cấp của ý thức công dân, trách nhiệm và tình cảm đạo đức. Bởivậy, để khắc phục nghịchlý củasự phát triển nhân cách, tạo điều kiện cho nhân cách đạo đức phát triển, việchoàn thiện cơ chế thị trườngcó điều tiếttheo định hướng XHCN là tất yếu và cấp thiết.

Thực chết của cơ chế thị trường có điều tiết là ở chỗ, Nhà nước quản lý và điều tiết thị trường bằng pháp luật, chính sách, kế hoạch và các đòn bẩy kinh tế nhằm kíchthích tính năng động của con người trong hoạt động làm giàu cho bản thân và xã hội, đồng thời khắc phục tối đa những bất bình đẳng trong kinh tế. Sự khắc phục tối đa những bất bình đẳng trong kinh tế nhờ sự điều tiết theo định hướng xã hội chủ nghĩa sẽ là cơ sở cho sự phát triển cùng chiều giữa đạo đức và kinh tế. Với sự điều tiết theo định hướng xã hội chủ nghĩa, lợi ích cá nhân không đối lập một cách tách rời mà gắn liền với lợi ích xã hội. Khi đó, con người gắn bó hơn với người khác. Tình cảm đạo đức, ý thức công dân, nghĩa vụ đạo đức, lương tâm... do vậy mà phát triển cùng với sự hoàn thiện của cơ chế thị trường.

Sự phát triển nhân cách đạo đức, xét đến cùng, phải được thể hiện trong những hành vi đạo đức thực tế. Hành vi đạo đức là hành vi được thực hiện bởisự điều tiết củathức đạo đức mà trong đó các chuẩn mực đạo đức giữ vai trò trung tâm. Với.tính cách là quá trình cải biến xã hội sâu sắc, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đòi hỏi và tất yếu sẽ sản sinh ra một hệ chuẩn mực đạo đức mới thích ứng với cơ chế thị trường và những điều kiện của xã hội hiện đại. Hệ chuẩn mực này sẽ là cơ sở định hướng cho hoạt động đạo đức của nhân cách. Đồng thời, nó cũng là tiêu chuẩn để đánh giá giá trị hành vi đạo đức. Việc tiếp nhận, nội tâm hoá các chuẩn mực đạo đức mới, hiện đại, biến nó thành sức mạnh đạo đức bên trong của con người chính là chỉ báo về sự phát triển đạo đức của nhân cách.

Hiện nay, sự quá độ về đạo đức đang gây ra những khó khăn cho việc xây dựng và phát triển nhân cách. Những chuẩn mực cũ đã lỗi thời nhưng trong nhiều trường hợp vẫn được ngộ nhận như là giá trị. Những chuẩn mực mới đang hình thành chưa đủ sức xác lập tính phổ biến trong hiệu lực định hướng nhân cách. Bên cạnh đó, yêu cầu hội nhập kinh tế, giao lưu văn hoá dẫn đến việc du nhập những giá trị, những chuẩn mực đạo đức ngoại lai. Trong những chuẩn mực này, có cái là cần thiết đối với sự nghiệp hiện đại hoá đất nước, có cái lại thể hiện như là phản giá trị cần đề kháng. Sự đan xen giữa giá trị và phản giá trị trong những chuẩn mực đạo đức hiện nay làm cho nhân cách khó khăn trong việc xác định phương hướng, lựa chọn và thực hiện hành vi đạo đức. Vì vậy, để chủđộng xây dựngnhân cáchđạo đức trong điều kiện hiện nay, cần xác lậpmột hệ chuẩn mực đạo đức mới, hiện đại phùhợp với những yêu cầu củaxã hội hiện đại.

Việc xác lập hệ chuẩn mực đạo đức mới cần phải tuân thủ nguyên tắc về tính kế thừa lịch sử. Nói khác đi, hệ chuẩn mực mới phải là sự tiếp tục và vượt qua truyền thống. Hơn lúc nào hết, ngày nay, cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn, nhân loại đang chứng kiến vai trò của các giá trị truyền thống đối với sự phát triển, hiện đại hoá xã hội. Trong nhưng khuyến nghị của UNESCO đối với các chính phủ những năm gần đây về vai trò của văn hoá trong phát triển đã bao hàm một sự nhìn nhận vai trò của truyền thống. Tuy vậy, sự hiện diện và vai trò của truyền thống trong hiện tại không có nghĩa là có thể giữ nguyên các chuẩn mực truyền thống trong việc xây dựng hệ chuẩn mực đạo đức mới.Trong việc xây dựng hệ chuẩn mực đạo đức mới, việc khắc phục những chuẩn mực lỗi thời là điều hiển nhiên, nhưng ngay cả với những chuẩn mực-được coi là giá trị, nghĩa là còn có vai trò đối với xã hội hiện đại cũng không thể được duy trì một cách nguyên xi. Thực ra, những giá trị truyền thống chỉ có ý nghĩa trong chừng mực chúng được đổi mới, được nâng cấp và gia nhập như là những yếu tố hữu cơ của hệ giá trị hiện đại. Vì vậy xử lý một cách biện chứng quan hệ giữa truyền thống và hiện đại là yêu cầu của việc xây dựng hệ chuẩn mực đạo đức mới.

Trong bối cảnh của sự hội nhập quốc tế mang tính toàn cầu, hệ chuẩn mực đạo đức của mỗi quốc gia không thể không mang tính quốc tế. Bởi vậy, tiếp nhận những giá trị, những chuẩn mực đạo đức tiến bộ và hiện đại của nhân loại, làm phong phú hệ chuẩn mực đạo đức dân tộc là cần thiết. Tuy nhiên, việc tiếp nhận những chuẩn mực đạo đức ngoại lai cũng không thể tuỳ tiện được. Sự đụng độ giá trị có thể làm huỷ hoại những chuẩn mực dân tộc, truyền thông. Giải quyết một cách biện chứng quan hệ giữa cái phổ biến và cái đặc thù trong trường hợp này là dân tộc hoá những giá trị, những chuẩn mực đạo đức ngoại nhập để chúng có thể gia nhập vào hệ chuẩn mực đạo đức hiện đại của dân tộc như là những yếu tố hữu cơ.

Bên cạnh việc xây dựng hệ chuẩn mực đạo đức xã hội, cần xây dựng những bộ luật đạo đức nghề nghiệp. Nhân cách phát triển trong những lĩnh vực hoạt động cụ thể khác biệt nhau. Tính đặc thù của nghề nghiệp và các lĩnh vực hoạt động cụ thể đòi hỏi phải có những chuẩn mực đạo đức cụ thể định hướng cho hoạt động nhân cách. Những chuẩn mực này chính là sự cụ thể hoá những chuẩn mực đạo đức xã hội trong các lĩnh vực cụ thể. Chúng trực tiếp thể hiện vai trò đối với sự phát triển nhân cách đạo đức.

Nhân cách khi hình thành một cách tự phát thì bao giờ cũng thiếu hoàn thiện. Vì vậy, giáo dục và giáo dụcđạo đức là một trong nhữngphương thức, giải pháp quantrọng nhất, trực tiếp quyếtđịnh sự hình thành, phát triển nhân cáchđạo đức.

Giáo dục nói chung có vai trò to lớn đối chu vớisự phát triển phương diện đạo đức của nhân cách. Giáo dục, thực chất là quá trình chuyển văn hoá xã hội thành văn hoá cá nhân, biến những năng lực nhân tính đã được đối tượng hoá như là tài sản của xã hội thành sức mạnh bên trong mỗi con người cụ thể. Giáo dục toàn diện và có hệ thống sẽ làm phát triển hài hoà các phương diện lý chí, tình cảm cũng như các năng lực thực tiễn của con người. Sự phát triển toàn diện đó sẽ là cơ sở cho sự phát triển đạo đức của nhân cách.

Giáo dục đạo đức trực tiếp biến các nguyên tắc, các chuẩn mực đạo đức xã hội thành niềm tin, nhu cầu và động cơ bên trong mỗi con người, nghĩa là thành sức mạnh đạo đức của nhân cách. Trong điều kiện hiện nay, khi cơ chế thị trường chưa hoàn thiện, khi các giá trị và phản giá trị đạo đức còn đan xen lẫn nhau thì giáo dục đạo đức càng trở nên cấp thiết. Giáo dục đạo đức sẽ góp phần tích cực vào việc khắc phục tình trạng tự phát trong lĩnh vực đạo đức. Cũng như giáo dục nói chung, giáo dục đạo đứcđòi hỏi được tiến hành một cách đồng bộ, có hệ thống với những hình thức thích hợp cho các đối tượng, các lứa tuổi, các lĩnh vực hoạt động khác nhau của con người.Ngoài những yêu cầu chung như của những loại hình giáo dục khác, giáo dục đạo đức chỉthực sự có hiệu quả khinó bao chứa trongmình sự thống nhất của haiphương diện: Phương diện truyền đạt vàphươngđiện nêu gương.

Phương diện truyền đạt phải cung cấp cho đối tượng giáo dục những hiểu biết cần thiết về đạo đức, các nguyên tắc, các chuẩn mực đạo đức xã hội, các chuẩn mực đạo đức trong các lĩnh vực hoạt động cụ thể của đối tượng giáo dục. Một sự hiểu biết đầy đủ và cần thiết như vậy sẽ tạo ra cơ sở lý tính cho hoạt động đạo đức như là kết quả và chỉ báo cuối cùng đánh dấu sự phát triển nhân cách đạo đức.

Phương diện nêu gương phải tác động vào ý thức con người bằng chính những tấm gương người tốt, việc tốt. Những tấm gương này chính là hiện thân của các giá trị, các chuẩn mực đạo đức. Nhờ thế chúng có sức mạnh to lớn trong việc biến các kiến thức mà con người thu nhận được qua truyền đạt thành sức mạnh đạo đức bên trong nhân cách. Trong điều kiện hiện nay, khi những biểu hiện tiêu cực trong đời sống xã hội đang là một vấn đề nhức nhối trên bình điện đạo đức, thì hiệu quả của giáo dục đạo đức bằng nêu gương thật là có ý nghĩa. Tạo ra thật nhiều những tấm gương đạo đức tức là những tấm gương biết giải quyết một cách hài hoà quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã nội trên tinh thần ưu tiên lợi ích xã hội, tạo ra một phong trào noi gương đạo đức chính là tạo ra hiệu quả cho giáo dục đạo đức.

Sự thống nhất và tác động qua lại của các giải pháp trong và ngoài đạo đức sẽ từng bước hình thành nên những nhân cách đạo đức đáp ứng các yêu cầu của sự nghiệp hiện đại hoá xã hội theo định hướng XHCN.

Nguồn:Tạp chí Triết học

FacebookTwitterLinkedInPinterestCập nhật lúc:10:38 SA @ 06/02/2009

I. Các thuộc tính tâm lý của nhân cách và đặc điểm các thuộc tính tâm lý nhân cách của bản thân:

Nhân cách chỉ bao hàm phần xã hội, tâm lý của cá nhân mà thôi. Đó là con người với tư cách là chủ thể của hoạt động, chủ thể của quan hệ người – người. Theo A. G. Covaliov: “Nhân cách là một cá nhân có ý thức, chiếm vị trí nhất định trong xã hội và đang thực hiện một vai trò xã hội nhất định”; Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: Nhân cách gồm 2 mặt đức và tài. Hay theo Phạm Minh Hạc, Trần Trọng Thủy, nhân cách là toàn bộ những đặc điểm, phẩm chất tâm lý của cá nhân quy định giá trị xã hội và hành vi xã hội của họ.

Nhân cách của một con người có những đặc điểm như: tính thống nhất, tính ổn định, tính tích cực và tính giao lưu. Người có nhân cách luôn làm chủ được suy nghĩ và hành động để không ảnh hưởng đến người xung quanh, sẵn sàng hy sinh lợi ích cá nhân, biết lắng nghe và luôn lắng nghe để hoàn thiện bản thân mình…Nhân cách con người còn được biểu hiện qua rất nhiều hình thái: Ứng xử, lời ăn tiếng nói…“Lời nói không mất tiền mua…”.Bên cạnh đó, nhân cách còn được đánh giá qua tư tưởng, thái độ, hành động. Có nhân cách thì tư tưởng cởi mở, trong sáng, thái độ hòa hiếu, hành động dứt khoát, quyết liệt … và ngược lại.

Các thuộc tính tâm lý của nhân cách là xu hướng, tính cách, năng lực và khí chất. Cũng giống như một vecto lực có phương, chiều, cường độ và tính chất của nó thì xu hướng nói lên phương hướng phát triển nhân cách, năng lực nói lên cường độ của nhân cách, khí chất và tính cách lại thể hiện tính chất, phong cách của nhân cách bản thân.

1. Xu hướng và phương hướng rèn luyện.

Xu hướng là ý định hướng tới những mục tiêu có nhiều ý nghĩa đối với đời sống cá nhân, là hướng hoạt động chủ yếu nhằm vươn tới mục tiêu đó trong thời gian tương đối dài. Xu hướng có những mặt biểu hiện như nhu cầu, hứng thú, thế giới quan và lý tưởng.

1.1. Nhu cầu:

Nhu cầu là sự đòi hỏi tất yếu mà cá nhân nhận thấy cần được thỏa mãn để tồn tại và phát triển trong những điều kiện xã hội, lịch sử nhất định. Đối với bản thân em hiện nay, nhu cầu của em đó là thi kết thúc học phần các môn học trong học kỳ này với số điểm cao. Để thỏa mãn được nhu cầu của bản thân, em đã và đang cố gắng học tập, đọc nhiều tài liệu và làm bài tập để chuẩn bị tốt cho kỳ thi sắp tới. Bên cạnh đó, nội dung của nhu cầu do điều kiện và phương thức thỏa mãn nó quy định. Điều kiện sống của cá nhân quy định nội dung, đối tượng của nhu cầu. Điều kiện sống vật chất và tinh thần của em đầy đủ, nên em sẽ hướng tới những nhu cầu phong phú, phản ánh những điều kiện sống của em. Ngoài ra, nhu cầu có tính chu kỳ và cường độ tăng dần: Chu kỳ của nhu cầu bắt đầu từ trạng thái thiếu hụt làm nảy sinh nhu cầu, nhu cầu gặp đúng đối tượng nảy sinh động cơ thúc đẩy chủ thể tác động vào đối tượng để thỏa mãn nhu cầu. Sau khi thỏa mãn được nhu cầu thì chu kỳ của một loại nhu cầu kết thúc nhưng lại nảy sinh những nhu cầu khác với cường độ cao hơn chu kỳ trước đó.

Căn cứ vào hình thức tồn tại đối tượng của nhu cầu, người ta chia nhu cầu thành nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần. Nhu cầu vật chấtlà những đòi hỏi kháchquan phải được thoả mãn về các phương tiện sinh hoạt vật chất của con người, như nhu cầu ăn, mặc, ở, phương tiện đi lại, công cụ lao động. Từ khi còn bé, nhu cầu vật chất của em được thỏa mãn thông qua tác động với người khác và chủ yếu là những người có ý nghĩa với em. Như được bố mẹ cho ăn, tắm rửa, bế bồng, ôm ấp. Khi đó, nhu cầu vật chất được thoả mãn như thế nào, ảnh hưởng mạnh mẽ đến tương lai sau này. Đối với bản thân em, nhu cầu được đáp ứng nhất quán với sự tôn trọng, từ đó em đã phát triển ý thức tôn trọng bản thân, tôn trọng người khác và môi trường sống xung quanh em. Thứ hai, nhu cầu tinh thần như: nhu cầu nhận thức, vui chơi giải trí,… Đây là nhu cầu có liên quan tới sự tồn tại xã hội của con người, nhu cầu chỉ ở con người mới có. Cũng như đối với nhu cầu vật chất đã nêu trên, khi ngay từ bé em đã đươc thỏa mãn những nhu cầu tình thần, được bố mẹ yêu thương, được vui chơi giải trí và giao tiếp với mọi người xung quanh từ đó em đã phát triển cảm giác mình thật sự có giá trị, có phẩm giá, tự tôn đi đến yêu thương người khác. Đó là cơ sở đầu tiên để hình thành xu hướng cá nhân em và là một trong những động lực cửa sự phát triển nhân cách. Hai loại nhu cầu trên có mối quan hệ với nhau. Nhu cầu vật chất là cơ sở để hình thành nhu cầu tinh thần. Thỏa mãn nhu cầu vật chất tạo điều kiện để nhu cầu tinh thần nảy nở và phát triển. Thỏa mãn nhu cầu vật chất trong chừng mực nhất định cũng là thỏa mãn nhu cầu tinh thần. Nhu cầu tinh thần khi đã hình thành sẽ có tác dụng chỉ đạo nhu cầu vật chất.

1.2. Hứng thú:

Hứng thú là thái độ riêng có tính chất đặc thù của cá nhân đối với đối tượng nào đó vừa có ý nghĩa trong đời sống vừa có khả năng mang lại cho cá nhân sự khoái cảm. Trở lại với liên hệ về bản thân em ở trên, việc em muốn đạt được kết quả cao trong kỳ thi cuối học phần sắp tới, em có nhu cầu muốn thỏa mãn điều đó, khi cá nhân em có sự hứng thú và hiểu rõ ý nghĩa của nó đối với đời sống cá nhân. Sự hứng thú thể hiện trước hết ở sự tập trung chú ý cao độ, sự say mê học tập và trau dồi kiến thức. Bên cạnh đó, sự hứng thú là động cơ thúc đẩy em tham gia tích cực vào công việc học tập ấy, khi đó sẽ hoạt động một cách thoải mái, tích cực, tự giác, sáng tạo và có hiệu quả cao. Hứng thú làm tăng sức làm việc cho cá nhân, làm cho cá nhân dẻo dai hơn, ít mệt mỏi hơn.

1.3. Thế giới quan cá nhân:

Thế giới quan cá nhân là hệ thống những quan điểm, quan niệm của cá nhân, thể hiện trong việc xem xét, đánh giá và giải quyết các vấn đề trong tự nhiên, xã hội và bản thân. Thế giới quan cá nhân có những phẩm chất cơ bản như tính khoa học, tính hệ thống và nhất quán, tính khái quát và tính cụ thể, tính hiệu lực. Thế giới quan đóng vai trò nhân tố sống động của ý thức cá nhân, giữ vai trò chỉ dẫn cách thức tư duy và hành động của cá nhân. Đối với bản thân em, thế giới quan đóng vai trò chủ đạo, quyết định việc lựa chọn xu hướng cá nhân. Khi em đang học lớp 12, xu hướng của em là muốn được học đại học chuyên ngành Luật. Và thế giới quan cá nhân như một chiếc la bàn định hướng cuộc sống, và là “cương lĩnh bên trong”, giúp em xác định mục tiêu kế hoạch phấn đấu đó là phải thi đỗ vào một trong các trường đại học có chuyên ngành Luật. Thế giới quan là động lực mạnh mẽ thúc đẩy em học tập, trau dồi kiến thức, luyện thật nhiều đề thi để có kết quả thi Đại học như mục tiêu của bản thân. Bên cạnh đó, em kết hợp với niềm tin, để tạo cho em nghị lực, ý chí để hành động phù hợp với quan điểm đã chấp nhận.

1.4. Lý tưởng:

Lý tưởng là mục tiêu mà cá nhân cho là cao đẹp, mẫu mực hoàn chỉnh nhất của cuộc sống, có tác dụng lôi cuốn mạnh mẽ toàn bộ cuộc sống và hoạt động của cá nhân trong một thời gian tương đối dài để đạt tới mục tiêu đó. Lý tưởng vừa có tính hiện thực vừa có tính lãnh mạn; bên cạnh đó, lý tưởng còn có tính xã hội và giai cấp. Với câu chuyện thi vào đại học năm lớp 12 của em, em nhận thấy rằng. Tuổi trẻ là khoảng thời gian đẹp đẽ và ý nghĩa để bản thân em cũng như tất cả mọi người có cơ hội được học tập, được lập nghiệp. Vì thế vào đại học là ước mơ cao đẹp và chính đáng của đa số các bạn. Theo như em được biết, từ trước tới nay đã có nhiều thiên tài trên thế giới trưởng thành từ môi trường Đại học như nhà sinh vật học Darwin, nhà hóa học Marie Curie, Mendeleev, nhà bác học Anh-xtanh… Vì vậy, trước khi bước vào ngưỡng cửa cuộc đời, khi ấy em muốn chọn cho mình con đường Đại học và quyết tâm theo đuổi ước mơ ấy đến cùng, dù cánh cửa các trường Đại học có hẹp, dù mất nhiều thời gian, công sức và tiền bạc.Mười hai năm đèn sách, vượt qua bao vất vả gian nan, trên vai mang nặng công cha, nghĩa mẹ, ơn thầy, trước ngưỡng cửa cuộc đời ai cũng mong ước mình sẽ có một tương lai rạng rỡ. Tương lai ấy là gì? Đó là cuộc sống ổn định, có việc làm phù hợp với sở thích, khả năng và ngành nghề mà mình đã được đào tạo, có thu nhập cao, có điều kiện phát huy năng lực sáng tạo và cống hiến cho xã hội. Đối với em, tương lai ấy tạo ra cho bản thân cơ hội thăng tiến trong sự nghiệp, có thể phấn đấu trở thành một người Luật sư – người bảo vệ công lý cho tất cả mọi người, hay một Pháp chế doanh nghiệp…Khi ấy em mang trong mình lý tưởng mong muốn được vào Đại học, mong muốn sẽ được tiếp cận và tiếp thu những tri thức cơ bản về ngành nghề mà ta theo học từ các thầy cô, các giáo sư có trình độ học vấn và chuyên môn giỏi.

* Phương hướng rèn luyện:

Để phát triển nhân cách và có xu hướng hướng tới những mục tiêu cao đẹp của bản thân, em cần xây dựng cho mình những hứng thú tích cực, đặc biệt là hứng thú với hoạt động học tập, nghiên cứu, rèn luyện trong nhà trường. Đồng thời phát triển nhiều hứng thú trên các lĩnh vực khác làm cho đời sống tâm lý thêm phần phong phú. Bên cạnh đó, cần tạo cho mình một lý tưởng cao đẹp như một ngôi sao dẫn đường chỉ hướng cho cuộc sống và thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động của cá nhân, điều khiển bản thân đến con đường thành công. Ngoài ra, em sẽ xây dựng lên một niềm tin đúng đắn về chân lý khách quan giúp tạo cho em một động lực, ý chí để hành động phù hợp với quan điểm đã chấp nhận.

2. Tính cách, đặc điểm của tính cách và phương hướng rèn luyện tính cách của bản thân:

Tính cách cá nhân bao gồm nhiều nét tính cách. Nét tính cách là một thuộc tính tâm lý nói lên thái độ đặc trưng của cá nhân đối với từng mặt, từng khía cạnh, từng lĩnh vực của hiện thực, được biểu hiện bằng các hành vi xử sự tương ứng quen thuộc của cá nhân. Mỗi nét tính cách là một thuộc tính tâm lý cá nhân. Tổng hợp nhiều nét tính cách tạo thành tính cách cá nhân. Giữa các cá nhân có sự khác nhau về tính cách chủ yếu là do sự khác biệt về các tính chất như tính ổn định và bền vững, tính phức tạp và thống nhất, tính xã hôi – lịch sử quy định.

Nói về tính cách của bản thân, em nhận thấy mình là người có tính cách mạnh mẽ. Đôi lúc em muốn tự lực để chứng minh sức mạnh của bản thân và kháng cực các điểm yếu, cố gắng để chi phối mọi thứ xung quanh. Em thích giải quyết vấn đề, kiểm soát được mọi tình huống xảy ra và đưa ra các giải pháp một cách kịp thời. Tính cách của em được hình thành và phát triển trong quá trình sống và hoạt động của cá nhân, chịu sự tác động của điều kiện xã hội – lịch sử và hoàn cảnh sống riêng của bản thân.

* Phương hướng rèn luyện:

Vì vậy, là một sinh viên Đại học để rèn luyện những nét tính cách tích cực cho bản thân em cần rèn luyện những hành vi thói quen phù hợp với chuẩn mực xã hội. Bên cạnh đó, em cần rèn luyện tính kiên trì, có thái độ trân trọng đối với công việc, không dễ dàng chấp nhận thất bại để giải quyết vấn đề, không dễ ngã lòng trước khó khăn. Tiếp đó, cần học tính độc lập và chấp nhận rủi ro, khi đối diện với thực tế, dù vui hay buồn vẫn tỏ ra bình tĩnh, dám chấp nhận trách nhiệm về các vấn đề để hoàn thành công việc, không hảo huyền, không nôn nóng, biết tính toán các nguy cơ. Để hình thành nét tính cách, tính cách tốt đáp ứng các yêu cầu của xã hội không phải dễ dàng, trong thời gian ngắn, vì vậy em sẽ cố gắng tự rèn luyện bản thân để phát triển bản thân trở nên tốt đẹp hơn.

3. Năng lực và phương hướng rèn luyện năng lực.

Năng lực là tổ hợp các thuộc tính tâm lý cá nhân, đáp ứng những yêu cầu đặc trưng của một loại hoạt động nhất định nhằm bảo đảm cho hoạt động đó đạt kết quả cao. Theo mức độ chuyên biệt của năng lực chia thành: năng lực chung và năng lực riêng. Năng lực chungcòn được gọi là năng lực trí tuệ: là năng lực nắm và vận dụng tri thức cơ bản của khoa học tự nhiên, khoa học xã hội làm cơ sở cho mọi hoạt động trong xã hội. Năng lực riêngcòn gọi là năng lực chuyên môn: là năng lực đặc trưng riêng trong những lĩnh vực hoạt động nhất định.

Đối với bản thân em, sau khi đi thực tập ở văn phòng luật trên lĩnh vực luật, em nhận thấy mình có năng lực giao tiếp, thuyết trình, lập luận và đưa ra quan điểm của mình trước những Luật sư có kinh nghiệm và trước mọi người trong văn phòng. Vì khi đi thực tập, em đã được đi cùng các anh chị luật sư lên tòa án và gặp các đương sự trong nhiều vụ việc dân sự nên trong quá trình đó, năng lực riêng của em đã được hình thành và phát triển. Khi hình thành nên năng lực giao tiếp, thuyết trình giúp em tự tin hơn trong quá trình giao tiếp, xử lý các công việc được giao một cách thuận lợi hơn.

* Phương hướng rèn luyện:

Để nâng cao năng lực của bản thân theo em trước hết cần rèn luyện sự tập trung vì Tập trung là một trong những yếu tố giúp con người nâng cao năng lực cho bản thân. Theo Bill Gates và Warren Buffett cho biết “tập trung là bí quyết giúp bạn thành công trong bất cứ một lĩnh vực nào khi làm việc”. Những người có năng lực cao nhất là những người vô cùng tập trung. Họ luôn tập trung thời gian và tâm trí vào những công việc quan trọng nhất đồng thời loại bỏ những công việc không cần thiết, không quan trọng.

Bên cạnh đó, cần phát triển khả năng tiên liệu “Nếu … thì”. Trong cuốn sách “Pre-Suasion: A Revolutionary Way to Influence and Persuade”, tác giả có đề cập tới một phương pháp giúp nâng cao năng lực làm việc của bản thân đó là phương pháp “Nếu… thì…”. Phương pháp này giúp bạn chinh phục mục tiêu, nâng cao năng lực nhanh gấp 3 lần so với những người chỉ làm việc theo bản năng.

Ngoài ra, em sẽ tập thói quen lên kế hoạch cho ngày hôm sau, vì phương pháp này sẽ giúp con người phát triển nhanh hơn trên lộ trình phát triển năng lực của bản thân. Có một doanh nhân nổi tiếng từng nhận định “Khi bạn dành 1 phút để lập kế hoạch sẽ tiết kiệm 10 phút thực thi”. Điều này có nghĩa là khi chúng ta lên kế hoạch, liệt kê tất cả các công việc cần làm vào ngày hôm sau, đưa vào khung thời gian cụ thể sẽ giúp chúng ta gia tăng hiệu quả làm việc.

Một người có năng lực là người làm chủ được chính bản thân mình. Vì vậy, chúng ta cần làm chủ tư duy, làm chủ suy nghĩ để cho trí óc chúng ta ngày càng trưởng thành, tích cực hơn. Suy nghĩ thoáng hơn, nhìn nhận lại vấn đề và sử dụng ngôn từ đúng đắn. Đó là làm chủ tư duy. Sự chủ động đối với thành công giống như que diêm đang cháy đối với ngọn nến. Robert Downey Jr. đã bước ra thế giới, từ bỏ con đường nghiện ngập và giờ đã trở thành một ngôi sao lớn trên dàn điện ảnh Hollywood. Đó là một người biết làm chủ bản thân, tự cứu mình ra khỏi phần đen tối trong xã hội này.

4. Khí chất, những ưu – nhược điểm của bản thân và rèn luyện khí chất của bản thân.

Khí chất là thuộc tính tâm lý biểu hiện về cường độ, tốc độ và nhịp độ của các hoạt động tâm lý. Theo “Thuyết thần kinh” do nhà sinh lý học Nga I.P.Paplôp đề ra, cơ sở sinh lý của khí chất là do kiểu hoạt động thần kinh cấp cao quy định.

Theo như em nhận thấy, bản thân em thuộc người có khí chất nóng nảy. Khi tham gia hoạt động nhóm em luôn nhiệt tình, hăng hái, năng động và sẽ cố gằng hoàn thành tốt phần công việc của mình. Khi đã tiếp nhận một nhiệm vụ nào đó, bản thân em sẽ có thái độ nghiêm túc, say mê công việc, và đôi lúc còn có thể dùng nhiệt tình của mình để lôi cuốn người khác. Mỗi cá nhân là một thực thể riêng biệt, độc đáo, và mỗi người có một khí chất riêng.Với khí chất nóng nảy của bản thân, em nhận thấy mình có nhiều ưu điểm như khi đứng trước những lựa chọn, thường sẽ quyết định nhanh chóng, quyết đoán, dám nghĩ dám làm. Đối với những người bạn mới, những người chưa từng quen biết, khi tiếp xúc với họ em thường là người sẽ làm quen trước, cởi mở hơn và giao tiếp một cách thẳng thắn, bộc trực.

Có một sự thật mà ai cũng phải thừa nhận rằng, con người ai cũng có khuyết điểm, chẳng có ai là tốt đẹp về mọi mặt, được cái này thì mất cái kia, đó là quy luật của cuộc sống không ai có thể phủ nhận. Và một người có khí chất nóng nảy cũng như vậy, ngoài những ưu điểm như trên, vì nhận thức nhanh, phản ứng mau lẹ nên bản thân em thường nhận thức không sâu, đặc biệt là khó kiềm chế bản thân, dễ bị kích động dẫn đến những hành động bột phát. Điều này khiến em dễ làm mất lòng người khác, khi rơi vào hoàn cảnh khó khăn sẽ thường không tự chủ được bản thân. Nhưng khi mọi chuyện đã qua đi, em thường không để bụng, và không bao giờ thù dai. Sau những sự việc đã xảy ra trong cuộc sống, em nhận thấy bản thân mình thiếu kiên trì, bền bỉ, khi gặp những khó khăn trở ngại thường dễ nản trí và cảm thấy bi quan, thất vọng. Về vấn đề tình cảm tuy là người yêu ghét rõ ràng nhưng lại sống thiên về tình cảm nhiều hơn lý trí, và đôi khi dễ bị tình cảm lất át lý trí bản thân.

* Phương hướng rèn luyện:

Trong cuộc sống, con người luôn sống trong những câu hỏi về giá trị của chính mình, khí chất của bản thân mình. Hàng loạt những câu hỏi luôn được đặt ra như: Mình đang đứng ở vị trí nào? Mình là người như thế nào trong mắt mọi người? Hay phải làm sao để nhận được sự tôn trọng của những người xung quanh? Chúng ta cứ sống và tìm kiếm câu trả lời cho những câu hỏi đó. Hiểu và tìm kiếm khí chất bản thân là nhu cầu chính đáng của con người bởi vì “Biết mình biết ta trăm trận trăm thắng”. Vì vậy, để khắc phục những nhược điểm của khí chất nóng nảy, mỗi khi cảm thấy mình sắp nổi nóng, em sẽ hít thở thật sâu, tự trấn an hoặc dừng ngay những suy nghĩ tồi tệ. Bên cạnh đó, em sẽ chia sẻ với những người thân thiết, giãi bày những vẫn đề của bản thân và nỗ lực thay đổi cách ứng xử của chính mình. Ngoài ra, ngay từ bây giờ bản thân em phải học cách lắng nghe, nhìn nhận sự việc từ nhiều góc độ, đặt mình trong hoàn cảnh của người khác để có những đánh giá khách quan hơn.

Video liên quan

Chủ đề