AỜI MỞ ĐẦU ...............................................................................................................
AỜI MỞ ĐẦU ...............................................................................................................Tây Bắc- vùng đất nổi tiếng với những vực cao thung sâu “ngàn thước lên cao ngàn thước xuống”, dẫn đường cho những bước chân chinh phục tự nhiên tự ngàn xưa xa xôi của người Thái, người Mường... Mưu sinh từ lâu đời trên những triền núi cao, bên những dòng suối mát lành, những con sông Đà, sông Mã hùng vĩ, đồng bào vùng cao Tây Bắc đã hình thành cho mình một vốn văn hóa bản địa vô cùng đặc sắc. Đằng sau những gì tráng lệ của rừng già bản mạc ấy là cả một vùng văn hóa xứ sở, đã nuôi dưỡng tâm hồn con người nơi đây, là trái tim của địa đầu tổ quốc. Những điệu múa xòe hoa Thái trứ danh nơi những bản làng xinh đẹp của vùng núi biếc thuần khiết , chợ tình Khâu Vai vẫn còn vang khúc Tiễn dặn người yêu “em không bắt quả pao rơi rồi” trong tiếng nhạc với các loại nhạc cụ bộ hơi (khèn, sáo...)những món mèn mén, thắng cố, nức lòng du khách phương xa, cùng nền văn hóa nông nghiệp đặc trưng với ruộng bậc thang tầng tầng ẩn trong sương mây... Tất cả hòa quyện tạo tác một không gian văn hóa đặc sắc và độc đáo, thu hút tới say lòng..ông gian văn hóa Tây Bắc. Show
BỘI DUNG ....................................................................................................................Iìm hiểu chung về vùng Tây Bắc ..............................................................................1. Khái niệm vùng văn hóa .......................................................................................
II.Đặc điểm vùng văn hóa Tây Bắc .............................................................................. Vùng văn hóa Việt Bắc. Vùng văn hóa đồng bằng Bắc Bộ. Vùng văn hóa Trường Sơn- Tây Nguyên. Vùng văn hóa Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung. Vùng văn hóa Nam Bộ. 2.Đặc điểm chung của vùng văn hóa Tây Bắc .........................................................
khu vực có địa hình thấp, ven các con sông thì mật độ cao hơn những nơi có địa hình cao, ít sông suối Dân tộc Đây là địa bàn cư trú của các dân tộc ít người thuộc nhóm ngôn ngữ Tày – Thái ( Ngữ hệ Thái -Kadai) : Tày, Thái, Nùng, Sán Chay, Lự, Bố Y,.... Ngữ hệ Hmong-Dao: Hmong Dao, Pà Thẻn và nhóm ngôn ngữ Tạng- Miến thuộc ngữ hệ Hán Tạng: Hà Nhì, Phù Lá, Si La, Lô Lô, Cống,.... Các dân tộc phân bố xen kẽ với nhau. Trong các dân tộc thì người Thái chiếm đa số. Các dân tộc có công lao lớn trong công cuộc bảo vệ Tổ Quốc. ii) Phát triển kinh tế Trình độ phát triển kinh tế không đồng đều giữa các dân tộc nhưng nhìn chung các đồng bào dân tộc ít người trình độ phát triển kinh tế vẫn chưa cao do những nguyên nhân về lịch sử, điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội. Nông nghiệp là ngành nghề chủ yếu của các dân tộc ở đây. Nổi bật trong phát triển nông nghiệp là việc làm ruộng bậc thang, trồng các loại cây ăn quả như mận, đào,... Ở vùng núi Hoàng Liên Sơn các dân tộc đã có kinh nghiệm trong việc trồng các loại cây dược liệu quý như tam thất, đương quy, đỗ trọng, hồi, thảo quả,... Chăn nuôi gia súc nổi bật với việc nuôi trâu và bò nhất là trâu. Trâu khỏe hơn, ưa ẩm , chịu rét giỏi hơn bò dễ thích nghi với điều kiện nuôi thả trong rừng nên được đồng bào nuôi nhiều. II.Đặc điểm vùng văn hóa Tây Bắc 1. Văn hóa vật chất a. Văn hóa nông nghiệp Với địa hình chủ yếu là đồi núi, bị chia cắt mạnh, khí hậu khắc nghiệt và thường xuyên xảy ra thiên tai của vùng Tây Bắc, nông nghiệp vì vậy không phải là thế mạnh. Tuy nhiên, nó lại góp phần quan trọng trong việc hình thành những nét văn hóa truyền thống của vùng này. Văn hóa nông nghiệp của dân tộc Thái nổi tiếng với hệ thống tưới tiêu, được gói gọn trong 4 từ: " Mương - Phai - Lái –Lịn", lợi dụng độ dốc của dòng chảy, người ta lấy đá ngăn suối làm nước dâng cao, đó là cái "phai". Phía trên "phai" xẻ một đường chảy lên dẫn vào cánh đồng, đó là "mương". Từ "mương" xẻ những rãnh chảy vào ruộng, đó là "lái". Còn "lịn" là cách lấy nước từ nguồn trên núi cao, dẫn về ruộng, về nhà, bằng các cây tre đục rừng đục mấu, nối tiếp nhau, có khi dài hàng cây số. Do chủ động tưới tiêu nên người Thái nuôi cá ngay trong mực nước của ruộng lúa. Cá nuôi trong ruộng vừa ăn sâu bọ cỏ dại, vừa sục bùn cho tốt lúa. Cho nên, món dâng cúng trong lễ cơm mới bao giờ cũng có xôi và cá nướng. Những dòng suối đóng vai trò quan trọng trong tâm linh con người. Suối là nơi trú ngụ của thần nước, thưởng ở những đoạn nước cuốn thành vực, hằng năm vào mùa xuân người ta là lễ cúng ngay bên bờ vựa đó. Cùng với suối, rừng và nương rẫy cũng là một bộ phận không thể thiếu trong cuộc sống của dân cư Tây Bắc. Có nương thì mới có lúa, có rau quả như bầu bí, rau cải, đậu, đu đủ. Còn rừng là nơi con người hái rau rừng, lấy thuốc chữa bệnh, thuốc nhuộm, săn bắt thú rừng và khi thất bát mùa màng thì chính rừng, với củ mài, bột báng đã cứu họ khỏi chết đói. Bản làng có một thái độ rất kính trọng với rừng, họ có hàng chục điều quy định về việc khai thác rừng, săn bắn thú, đặc biệt là những quyết định về bảo vệ rừng đầu nguồn. Ruộng bậc thang cũng là một yếu tố làm nên vẻ đẹp của vùng Tây Bắc. Điều này đã được hàng triệu lượt du khách tới thăm Tây Bắc những năm qua công nhận và đã được giới thiệu, quảng bá khá đậm nét trên hệ thống Internet và báo chí toàn cầu. Tạp chí Mỹ Travel & Leisure đã so sánh những thửa ruộng tại Sa Pa như là “Những bậc thang dẫn lên trời” ( Ladder to the sky).
dùng đồ trang sức làm cho bộ trang phục của mình thêm sang trọng: Vòng cổ, nhẫn, túi ăn trầu, các đồ trang sức bằng bạc hình bán cầu, hình sao 8 cánh. Dân tộc H’Mông: Trang phục nam: Nam thường mặc áo cánh ngắn ngang hoặc dưới thắt lưng, thân hẹp, ống tay hơi rộng. Áo nam có hai loại: năm thân và bốn thân. Loại bốn thân xẻ ngực, hai túi trên, hai túi dưới. Loại năm thân xẻ nách phải dài quá mông. Loại bốn thân thường không trang trí; loại năm thân được trang trí những đường vằn ngang trên ống tay. Quần nam giới là loại chân què ống rất rộng. Đầu thường chít khăn, có nhóm đội mũ xung quanh có đính những hình tròn bạc chạm khắc hoa văn, có khi mang vòng bạc cổ, có khi không mang. Trang phục nữ: Người H’Mông có nhiều nhóm khác nhau, trang phục nữ các nhóm cũng có sự khác biệt. Tuy nhiên nhìn chung có thể thấy phụ nữ Hmông thường mặc áo bốn thân, xẻ ngực không cài nút, gấu áo không khâu hoặc cho vào trong váy. Ống tay áo thường trang trí hoa văn những đường vằn ngang từ nách đến cửa tay. Phía sau gáy thường được đính miệng và trang trí hoa văn dày đặc bằng chỉ ngũ sắc. Váy là loại váy kín, nhiều nếp gấp, rộng, khi xòe ra có hình tròn, đi kèm với chiếc thắt lưng vải được thêu trang trí ở đoạn giữa và có đeo tạp dề. Phụ nữ thường để tóc dài quấn quanh đầu, có một số nhóm đội khăn quấn thành khối cao trên đầu. Đồ trang sức bao gồm khuyên tai, vòng cổ, vòng tay, vòng chân, nhẫn.
để trưng bày và giới thiệu. Loại nhà nửa sàn nửa đất là loại kiến trúc nhà cửa của riêng người Dao, gắn liền với cuộc sống du canh du cư trước đây. Về cấu trúc, nhà của người Dao được làm bằng gỗ, tre, nứa rất chắc chắn, đơn giản nhưng được kết hợp khéo léo toát lên sự kín đáo, tế nhị của người Á Đông. Kiểu nhà truyền thống của người Dao quần trắng là nhà sàn, thường được làm ba gian, cách chắp nối các cấu kiện bằng nguyên liệu rời. Kiểu nhà này chỉ có một cầu thang lên xuống, cầu thang có số bậc lẻ; trong nhà thường có hai bếp. Nhà người Dao đỏ làm nửa sàn nửa đất ở lưng chừng đồi. Nhà sàn H’ Mông: Người H'Mông chỉ ở nhà trệt, làm bằng gỗ pơ mu. Bộ khung bằng gỗ, kết cấu đơn giản, chủ yếu là ba cột có một xà ngang kép hoặc hai xà ngang, một trên một dưới.. Công việc làm nhà là của đàn ông. Dân bản thường giúp nhau dựng nhà. Họ chỉ dùng búa và dao. Hầu hết các bộ phận được liên kết với nhau bằng dây buộc Nhà gồm ba gian: gian chính giữa giáp vách hậu bao giờ cũng là nơi đặt bàn thờ tổ tiên. Gian này còn là nơi dành cho ăn uống hằng ngày. Một gian đầu hồi dành cho sinh hoạt của các thành viên nam và khách nam. Ở đây thường có bếp phụ. Còn gian đầu hồi bên kia dành cho sinh hoạt của nữ, đồng thời cũng là nơi đặt bếp chính. Bếp của người Mèo thuộc loại bếp kín - bếp lò - một sản phẩm của phương Bắc. Chuồng gia súc đặt trước mặt nhà. Ở vùng cao núi đá, mỗi nhà còn có một khuôn viên riêng cách nhau bằng bức tường xếp đá cao khoảng gần 2 mét. e. Đi lại, vận chuyển Vì địa hình chủ yếu là đồi núi cao hiểm trở, lại hay có thiên tai như xói mòn, sạt lở đất nên giao thông ở vùng Tây Bắc không mấy phát triển. Và mỗi khu vực khác nhau thì giao thông đi lại cũng có sự khác nhau. Nhưng nhìn chung người dân các dân tộc đều sử dụng xe bò, xe ngựa để chở hàng; tàu thuyền, máng để di chuyển trên sông suối, đường bộ thì dùng đi bộ, đi ngựa... Dân tộc Thái Người Thái vận chuyển hàng hóa bằng gánh là phổ biến, ngoài ra gùi theo kiểu chằng dây đeo vắt qua trán, dùng ngựa cưỡi, thồ nay. Ở dọc các con sông lớn họ rất nổi tiếng trong việc xuôi ngược bằng thuyền đuôi én. Dân tộc Dao Người Dao thường dùng địu, quẩy tấu (một loại sọt) hay lù cở (giống gùi) có hai quai đeo phía sau để lên rừng hái, quả hoặc thu thập nông sản. Ở những vùng thấp hơn, người Dao thường dùng đôi dậu để gánh lúa, ngô và những vật dụng khác. Một số tộc người Dao sinh sống ven các con suối, con sông đẽo thân gỗ tạo ra thuyền độc mộc - loại thuyền này đã xuất hiện trong bài thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng và sử dụng thuyền để vận chuyển hàng hóa, lưu thông bằng thuyền trên sông suối lớn. Dân tộc H’Mông Địa bàn đặc thù sinh sống của người Mông ở vùng núi cao, cheo leo, đi lại khó khăn hiểm trở nên ngựa thồ là phương tiện chuyên chở đắc lực và duy nhất. Ngựa chở lúa ngô khoai từ rẫy về nhà, lại chở ngô rượu ra chợ bán. Ngựa chở người say mềm xõng xoài sau mỗi phiên chợ về nhà. Ngựa chở cả gia đình bố mẹ, con cái đi chơi xuân, đi chợ tết. Cuộc sống bây giờ đã hiện đại với đủ các phương tiện máy móc, nhưng hầu như hộ người Cúng xong tam tạy, một mâm cỗ được chủ nhà dọn ra ngoài sàn để ông mo mời thổ công, thổ địa, ma rừng, ma núi, thần sông suối và cầu khấn phù hộ cho gia chủ được khoẻ mạnh, làm ăn phát đạt. Ông mo cúng xong, gia chủ đặt mâm cơm mời anh em họ hàng, làng xóm đến chung vui, cùng nâng chén rượu chúc tụng gia chủ năm mới dồi dào sức khoẻ, gia đình hạnh phúc, mùa màng bội thu.
Cứ vào dịp đầu tháng Giêng, người Tày, Nùng lại mở hội xuống đồng để tổng kết một năm lao động, sản xuất và chuẩn bị cho công việc gieo trồng mùa vụ mới. Đồng bào chọn ra một đám ruộng to nhất. Từ sáng sớm, trong làng đã vang lên hồi chiêng trống rộn rã của lễ rước Thổ Công và Thần Nông tiến ra khu ruộng. Mỗi gia đình trong làng chuẩn bị một mâm cỗ có gà luộc, thịt lợn luộc, xôi các màu... để đưa ra ruộng nơi tổ chức lễ hội cúng tế. Thầy cúng đọc lên bài cúng mời Thần Nông, Thổ Công, Thần các con suối, Thần các ngọn núi về dự lễ cúng; cầu mong cho lúa tốt như cỏ lau, cỏ lác, hạt to như quả đao không có sâu cắn phá; cá nằm chật suối, chật ao; trâu lợn đầy đàn; gà vịt đầy sân; người người khỏe mạnh, nhà nhà đông con, làng bản thêm nhiều trẻ nhỏ, không người ốm đau... Nghi lễ cúng tế kết thúc, dân làng chuyển sang phần hội vui chơi các trò chơi truyền thống, mỗi trò chơi đều mang ý nghĩa cầu mùa, cầu sức khoẻ. C. KẾT LUẬN ................................................................................................................Vùng Tây Bắc xa xôi, rộng mở và hùng vĩ ấy còn chứa đựng biết bao điều kỳ diệu về văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần. Khi nói đến văn hóa bản địa vùng Tây Bắc, chúng ta cần nhận diện nó từ nhiều phương diện, khía cạnh và giá trị như phía trên đã đề cập: văn hóa nông nghiệp, ẩm thực ,trang phục, kiến trúc, nghệ thuật, phong tục tập quán, tôn giáo tín ngưỡng... Nền văn hóa ấy đã hình thành và không ngừng phát triển qua hàng ngàn năm, trải qua nhiều biến cố nhưng nó vẫn luôn được giữ vững và trau dồi. Mỗi bản làng, mỗi vùng đất là mỗi đặc trưng văn hóa mà dù có đi nhiều, cảm nhận nhiều cũng khó lòng kể hết. Sự hòa điệu nét văn hóa của hơn 20 dân tộc anh em trên mảnh đất tươi đẹp đã hội tụ thành một vườn hoa đa sắc màu của văn hóa dân gian. Bằng những nét rất riêng ấy, Tây Bắc đã góp phần làm nên sự đa dạng và phong phú của văn hóa Việt Nam. Điều quan trọng là làm sao để cho sức sống mãnh liệt, bền bỉ của văn hóa nơi đây như một dòng suối có mạch ngầm từ kho trầm tích văn hóa xứ sở cứ chảy mãi tới muôn đời. |