Ở Việt Nam tình trạng đô la hóa là gì

Đây được cho là một trong những công cụ nặng ký trong “cuộc chiến” của NHNN nhằm giảm và triệt tận gốc nạn đô la hóa ở Việt Nam.

Ở Việt Nam tình trạng đô la hóa là gì
Tỷ trọng tiền gửi bằng ngoại tệ đã có xu hướng tăng lên từ năm 2015. Ảnh: Đức Thanh

Hơn nửa thập kỷ trôi qua, chúng ta cùng nhìn lại xem tình trạng đô la hóa trong nền kinh tế có được cải thiện như kỳ vọng hay không.

Trước tiên, để đo lường tình trạng đô la hóa trong quá khứ và hiện tại, cần hiểu rõ khái niệm đô la hóa. Đây là thuật ngữ chỉ tình trạng USD hay ngoại tệ thay thế một phần hay toàn bộ bản tệ của một nền kinh tế. Lưu ý là loại ngoại tệ gây ra tình trạng đô la hóa không nhất thiết chỉ là USD như cái tên gọi của nó.

Đo lường chính xác mức độ đô la hóa - mức độ mà người dân sở tại nắm giữ trái phiếu nước ngoài, tiền gửi ngân hàng bằng ngoại tệ và tiền mặt ngoại tệ gồm tiền giấy và tiền xu là điều khó khăn. Thay vào đó, một phương pháp ước tính tình trạng đô la hóa do Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) đề xuất đã được sử dụng rộng rãi, đó là dùng tỷ lệ tiền gửi bằng ngoại tệ trong hệ thống ngân hàng nội địa.

NHNN công bố định kỳ trên website số liệu hàng tháng về tổng phương tiện thanh toán gồm các cấu phần là tiền gửi của các tổ chức kinh tế và tiền gửi tiết kiệm của dân cư bằng tiền đồng, mới nhất là đến tháng 2/2021. Đồng thời, NHNN cũng công bố tỷ lệ “tiền trong lưu thông” (tức là tiền mặt, nằm ngoài hệ thống ngân hàng) trong tổng phương tiện thanh toán hàng tháng. Ngoài ra, theo công thức tính tổng phương tiện thanh toán áp dụng ở Việt Nam:

Tổng phương tiện thanh toán = Tiền trong lưu thông + Tiền gửi tổ chức và dân cư bằng tiền đồng + Tiền gửi tổ chức và dân cư bằng ngoại tệ.

Do đó, tiền gửi bằng ngoại tệ của tổ chức và dân cư được tính bằng cách lấy tổng phương tiện thanh toán trừ đi tiền trong lưu thông và tiền gửi bằng VND của tổ chức và dân cư/cá nhân.

Ở Việt Nam tình trạng đô la hóa là gì

Dựa vào các dữ liệu đó, ta có bảng ở trên.

Theo đó, tỷ trọng tiền gửi bằng ngoại tệ đã có xu hướng tăng lên từ năm 2015, thời điểm ban hành Quyết định 2589 khống chế trần lãi vay USD là 0%. Tỷ trọng này đạt mức cao nhất là 6,2% vào cuối năm 2020 và duy trì sang đến tháng 2/2021. Nếu tính tỷ trọng tiền gửi bằng ngoại tệ trong tổng tiền gửi ngân hàng theo phương pháp xác định mức độ đô la hóa của IMF thì kết quả sẽ còn lớn hơn nữa, bởi tổng tiền gửi ngân hàng nhỏ hơn tổng phương tiện thanh toán.

Nói cách khác, tình trạng đô la hóa đã có xu hướng tăng trở lại kể cả sau khi lãi suất tiền gửi USD bị khống chế ở mức 0%.

Một số lý do cho tình trạng này có thể là:

Thứ nhất, tuy lãi suất tiền gửi USD là 0% trên danh nghĩa, nhưng thực tế người gửi vẫn có một số cách để làm cho lợi tức thực thu được từ khoản tiền gửi USD này lớn hơn 0%, làm cho việc nắm giữ USD vẫn có ý nghĩa, nhất là khi giá USD được kỳ vọng tăng.

Thứ hai, ngân hàng vẫn trả lãi dương cho các khoản tiền gửi bằng ngoại tệ khác ngoài USD, nên người gửi có thể chọn ngoại tệ khác để gửi tiết kiệm vào ngân hàng thay vì USD, làm cho con số thống kê về tiền gửi ngoại tệ không giảm đi như kỳ vọng.

Thứ ba, tâm lý phòng ngừa rủi ro vĩ mô thông qua nắm giữ ngoại tệ của người dân và doanh nghiệp vẫn còn đó, đặc biệt khi tổng phương tiện thanh toán (cung tiền) tăng mạnh như năm 2020 và đến đầu năm 2021, trong khi tăng trưởng GDP yếu hơn trước, tạo rủi ro lạm phát cao.

Ở Việt Nam tình trạng đô la hóa là gì
Trước thực trạng đô la hóa và tiền mặt đang tăng lên, NHNN cần xem xét sửa đổi và tốt nhất là xóa bỏ quy định trần lãi suất tiền gửi USD, bởi dù có trần 0% thì người dân và doanh nghiệp vẫn gửi USD và ngoại tệ khác.
Ở Việt Nam tình trạng đô la hóa là gì

Chuyển sang vấn đề thứ hai là kinh tế tiền mặt. Cũng bảng trên cho thấy, lượng tiền mặt nắm giữ trong dân và doanh nghiệp có xu hướng giảm nhẹ dần từ năm 2017 xuống 11,1% của tổng phương tiện thanh toán vào cuối năm 2020, nhưng lại đột ngột tăng mạnh lên vào các tháng đầu năm 2021. Như vậy, có thể  nói, người dân và/hoặc doanh nghiệp đột ngột trở nên ưa thích nắm giữ tiền mặt hơn là gửi vào ngân hàng.

Ứng với sự tăng lên của tiền mặt này là sự sụt giảm mạnh tiền gửi bằng VND của các tổ chức kinh tế và sự tăng mạnh của tiền gửi bằng VND của dân cư. Cụ thể, doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế đã rút vốn mạnh khỏi hệ thống ngân hàng tính đến cuối tháng 2/2021 so với cuối năm 2020 (giảm gần 430.000 tỷ đồng) để chuyển một phần thành tiền mặt tăng lên (tăng gần 150.000 tỷ đồng so với cuối tháng 12/2020) và một phần khác thành tiền gửi cá nhân/dân cư (tăng gần 390.000 tỷ đồng).

Trong khi khó có thể tìm được lý do chính xác cho việc rút vốn khỏi hệ thống ngân hàng của các tổ chức kinh tế, nhưng liệu điều này có liên quan đến cơn sốt chứng khoán và bất động sản hiện nay, đã xui khiến doanh nghiệp rút bớt vốn ra để kinh doanh chứng khoán và bất động sản để rồi doanh thu/lợi nhuận thì được phân bổ cho cá nhân (cổ đông, đối tác...) và giữ dưới dạng tiền mặt để tiếp tục quay vòng kinh doanh (mà không gửi vào ngân hàng, dù chỉ là tạm thời, với lý do như nói ở phần cuối bài)?

Trước thực trạng đô la hóa và tiền mặt đang tăng lên, NHNN cần xem xét sửa đổi và tốt nhất là xóa bỏ quy định trần lãi suất tiền gửi USD, bởi như đã nói, dù có trần 0% thì người dân và doanh nghiệp vẫn gửi USD và nhất là ngoại tệ khác. Hơn nữa, chỉ quy định trần tiền gửi USD 0% mà không quy định trần lãi suất cho các ngoại tệ khác thì không khác gì coi đô la hóa chỉ liên quan đến USD chứ không phải cả các ngoại tệ khác, như nói ở đầu bài. Giải pháp hiệu quả và căn cơ nhất vẫn phải là làm cho lòng tin vào tiền đồng liên tục cải thiện để người dân và doanh nghiệp không còn nhu cầu tích trữ ngoại tệ (gồm USD) và khi cần để thanh toán cho các nhu cầu chính đáng thì có thể dễ dàng mua từ ngân hàng.

Về hiện tượng tiền mặt trong lưu thông đang tăng lên, nếu điều này kéo dài trong các quý tới thì đây là một chỉ báo không mấy tốt lành, nhất là khi xét đến sự phổ cập ngày càng rộng rãi của các phương tiện thanh toán phi tiền mặt. Nghịch lý này có khả năng liên quan đến chuyện trốn thuế và/hoặc lo ngại về tính riêng tư và bảo mật sẽ không được đảm bảo bởi quy định mới đây của Bộ Tài chính buộc các ngân hàng phải chia sẻ dữ liệu về tài khoản và các giao dịch của người gửi tiền. Vì quy định này đã bị phản đối rộng rãi, nên có lẽ Bộ Tài chính cũng cần tiếp thu để sửa đổi cho phù hợp với thông lệ quốc tế.

Ở Việt Nam tình trạng đô la hóa là gì

Khái niệm về đô la hóa

Đô la hóa trong tiếng anh là Dollarization hoặc Currency Substitution, đây là một thuật ngữ chỉ hiện tượng một ngoại tệ được sử dụng bổ sung hoặc thay thế hoàn toàn nội tệ giữ vai trò là đồng tiền pháp định.

Tại sao lại áp dụng đô la hóa? 

Việc áp dụng đô la hóa vốn là để nhận được những lợi ích của sự ổn định cao của giá trị đồng ngoại tệ so với sự bất ổn của tiền nội tệ của một quốc gia. Việc đô la hóa có nhược điểm là quốc gia bị đô la hóa mất đi khả năng điều chỉnh chính sách tiền tệ bằng cách thay đổi lượng cung tiền của nước mình.

Phân loại đô la hóa

Thông thường với việc phân loại đô la hóa, các nhà phân tích thường sử dụng 3 tiêu chí sau đây: 

Về tính hợp pháp 

Với tiêu chí này hiện tượng đô la hóa được phân thành 3 loại cơ bản như sau: 

  • Đô la hóa không chính thức: Là tình trạng ngoại tệ được người cư trú của một quốc gia sử dụng như một phương tiện trao đổi, một đơn vị giá trị hoặc một phương tiện tích lũy giá trị trong nền kinh tế, nhưng không được pháp luật của quốc gia đó cho phép hoặc thừa nhận.
  • Đô la hóa bán chính thức: Đô la hóa loại này còn được gọi là đô la hóa từng phần, là tình trạng ngoại tệ được sử dụng làm đơn vị kế toán, phương tiện trao đổi, kho chứa giá trị và phương tiện thanh toán trong khi đồng nội tệ của quốc gia đó vẫn tồn tại và lưu hành. Với kiểu đô la hóa này, ngoại tệ được sử dụng như một đồng tiền hợp pháp thứ hai ở nền kinh tế.
  • Đô la hóa chính thức: Còn được gọi là đô la hóa hoàn toàn, là việc người cư trú sử dụng ngoại tệ để thực hiện các chức năng tiền tệ và được phép hoặc công nhận theo luật của quốc gia đó, tức là hiện tượng đô la hóa chính thức gắn liền với thị trường ngoại hối chính thức, nơi các giao dịch, mua bán tiền tệ cho mục đích thanh toán và kinh doanh tiền tệ giống như ngân hàng thương mại được pháp luật cho phép.

Về quy mô sử dụng đồng ngoại tệ trong nền kinh tế

Tiêu chí này phân loại đô la hóa thành 2 loại:

  • Đô la hóa toàn phần (full dollarization): Một trường hợp ngoại tệ được sử dụng hợp pháp duy nhất trong toàn nền kinh tế (hoặc nội tệ chỉ chiếm một tỷ lệ không đáng kể) và được pháp luật cho phép. Đô la hóa toàn phần luôn là đồng đô la chính thức.
  • Đô la hóa một phần (partial dollarization): Việc sử dụng ngoại tệ trong một lĩnh vực cụ thể của nền kinh tế. Đô la hóa từng phần có thể là đô la hóa chính thức hoặc không chính thức. Đô la hóa một phần thường phản ánh mong muốn của người dân. Mọi người muốn đa dạng hóa tài sản của mình để đảm bảo tài sản của họ không bị mất giá do khấu hao của đồng nội tệ trong bối cảnh nền kinh tế không ổn định và lạm phát cao.

Tiêu chí dựa vào chức năng tiền tệ

  • Đô la hóa thay thế tài sản (asset substitution): Việc người dân sử dụng ngoại tệ chứ không phải nội tệ trong chức năng lưu trữ giá trị thể hiện ở việc các tập đoàn và cá nhân nắm giữ ngoại tệ tiền mặt và duy trì tài khoản ngoại tệ trong hệ thống ngân hàng.
  • Đô la hóa thay thế thanh toán (currency substitution): Là việc người cư trú sử dụng ngoại tệ thay cho nội tệ trong phương tiện thanh toán và đơn vị tính toán. 

Nguyên nhân của hiện tượng đô la hóa

Đô la hóa thường xảy ra ở các nước đang phát triển với chính quyền trung ương yếu kém hoặc môi trường kinh tế không ổn định. Ví dụ, những người ở một quốc gia đang trải qua lạm phát tăng vọt có thể chọn một loại tiền tệ ổn định như đô la Mỹ cho các giao dịch hàng ngày, vì lạm phát làm cho đồng nội tệ của họ mất sức mua. Các quốc gia có đô la hóa không phải lúc nào cũng sử dụng tiền tệ. Đô la Mỹ như một ngoại tệ thay thế. Đồng euro cũng được sử dụng làm nội tệ bởi các quốc gia bên ngoài Liên minh Châu Âu.

Hiện tượng đô la hóa có thể xảy ra hoàn toàn hoặc đô la hóa một phần. Đô la hóa hoàn toàn diễn ra sau một cuộc khủng hoảng kinh tế lớn như trong các trường hợp ở Ecuador, El Salvador và Zimbabwe. 

Trường hợp đô la hóa một phần thì một bộ phận tài sản của đất nước có thể được giữ bằng ngoại tệ. Nó cũng có thể chuyển hóa dần dần sang đô la hóa toàn bộ.

Ảnh hưởng của đô la hóa đối với nền kinh tế

Đô la hóa là tình trạng ngoại tệ thay thế nội tệ bằng cách thực hiện các chức năng của tiền như vật lưu trữ giá trị, phương tiện thanh toán và đơn vị tính toán. Ở Việt Nam, tình trạng đô la hóa với thói quen cất giữ tài sản vẫn rất phổ biến bằng ngoại tệ, thương lượng, mua bán cũng như niêm yết giá bằng ngoại tệ.

Hiện tượng đô la hóa làm mất chủ quyền tiền tệ, dẫn đến thị trường ngoại hối kém phát triển, do quan hệ thanh toán nợ bằng ngoại tệ chi phối quan hệ mua bán ngoại tệ. Đô la hóa tác động tiêu cực đến sản xuất quốc dân, nhà nước không chỉ thất thu thuế mà còn mất nguồn thu từ phát hành đồng nội tệ. Về mặt điều hành tiền tệ, hiện tượng đô la hóa gây ảnh hưởng nhất định đến hiệu quả thực thi chính sách tiền tệ và chính sách tỷ giá. Mức cung tiền trở nên khó dự báo hơn và mức cầu nội tệ trong nước không ổn định ảnh hưởng đến việc hoạch định chính sách tiền tệ.

Theo lời của chuyên gia, thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Giàu cho biết: “Trong những thời điểm cung cầu ngoại tệ trên thị trường mất cân bằng như một vài thời điểm trong thời gian vừa qua, tình trạng đô la hóa cũng gây thêm khó khăn cho việc ổn định trở lại thị trường ngoại tệ do đô la hóa làm giảm nhu cầu phát triển các công cụ phòng ngừa rủi ro trên thị trường ngoại hối, mà các doanh nghiệp cũng đối mặt với nguy cơ thiệt hại lớn do không có công cụ phòng ngừa rủi ro khi đồng đô la Mỹ biến động bất thường. Ngoài ra, việc niêm yết giá bằng ngoại tệ cũng khiến cho người dân bị thiệt khi thanh toán tiền mua hàng hóa do các cửa hàng áp dụng tỷ giá không thống nhất.

Như vậy, nhìn chung thì hiện tượng đô la hóa đã có những tác động tiêu cực đối với nền kinh tế. Đô la hóa bóp méo cung cầu ngoại tệ, khiến cho tỷ giá không phản ánh chính xác cung cầu ngoại tệ và hoạt động đầu cơ ngoại tệ hết sức rủi ro”.

Thực trạng đô la hóa tại Việt Nam

Ở Việt Nam tình trạng đô la hóa là gì

Thực trạng về vấn đề đô la hóa tại Việt Nam

Đối với nền kinh tế Việt Nam, việc sử dụng rộng rãi đồng Đô la trong giao dịch, buôn bán được chú ý từ những năm 1988 khi các ngân hàng được phép nhận tiền gửi bằng đồng Đô la. Vào năm 1991, tỷ lệ tiền gửi ngoại tệ trên tổng phương tiện thanh toán (FCD/M2) lên đến 41,2%, việc thanh toán bằng ngoại tệ hợp pháp và bất hợp pháp tương đối nhiều, định giá bằng ngoại tệ và vàng (kể cả đối với các giao dịch nhỏ) trong dân cư khá phổ biến. 

Nguyên nhân nằm ở ảnh hưởng của lạm phát phi mã trong giai đoạn trước (đến năm 1991 lạm phát vẫn là 67,5%). Ngoài ra, mọi người thích sử dụng ngoại tệ hơn vì chúng mang lại lợi ích thực sự cho việc lưu trữ, vận chuyển và thanh toán. Do mệnh giá VND quá nhỏ nên hệ thống thanh toán chưa phát triển. Tỷ giá hối đoái hầu như không biến động cho đến giai đoạn 1993-1996, khi lạm phát chỉ ở mức 10%. Nắm giữ VNĐ hóa ra có lợi hơn, do đó mức độ đô la hóa giảm mạnh, tỷ lệ FCD/M2 là 22,9% vào năm 1997. Đồng thời, chính phủ cũng bắt đầu hạn chế và loại bỏ các khoản thanh toán bằng ngoại tệ, các điểm bán thu ngoại tệ, họ tăng cường các bàn thu đổi ngoại tệ. Tuy nhiên, do thói quen và hoạt động kinh tế ngầm và những bất tiện của việc sử dụng VND chưa được giải quyết một cách căn bản, nên thị trường ngoại hối tự do, tỷ giá hối đoái và thanh toán phổ biến vẫn nằm ngoài tầm kiểm soát (Thủ tướng Chính phủ, 2007). Sau đó là cuộc khủng hoảng tài chính châu Á khiến đồng  Việt Nam mất giá và Việt Nam lại tiếp tục chịu sức ép của tình trạng Đô la hóa.

Từ năm 2011 đến 2019, tỷ lệ đô la gửi ngân hàng có xu hướng giảm đáng kể, từ 19,5% năm 2011 xuống 8,09% năm 2019. Đây là một xu hướng tích cực cho thấy tình trạng đô la hóa tài sản và nợ phải trả trong hệ thống ngân hàng thương mại đang được kiềm chế một cách hiệu quả. Người dân có niềm tin hơn vào đồng tiền quốc gia. Theo phân loại của IMF, Việt Nam thuộc cùng hiện tượng đô la hóa phi chính thức như: Nga, một số nước Đông Âu khác và phần lớn châu Mỹ Latinh, nhưng ở Việt Nam ngoài đô la hóa tài sản, ngoài ra còn có đô la hóa các phương tiện thanh toán và đô la hóa niêm yết trên các sàn giao dịch chứng khoán, chưa kể đến một loạt các kho dự trữ ngoại tệ. Do đó, theo các chuyên gia, tình trạng đô la hóa ở Việt Nam đang diễn ra khá nghiêm trọng, hiện nay các kênh ngoại hối chuyển về Việt Nam bao gồm: 

Thứ nhất, nguồn kiều hối về Việt Nam không ngừng tăng lên cả về tuyệt đối và tương so với GDP. Trong giai đoạn 2011-2019, tỷ lệ kiều hối gửi về GDP hàng năm là 6,3% – 6,8% GDP, cao hơn so với các nước phát triển khác (bình quân 1% – 2% GDP). Khối lượng chuyển nhượng cũng không ngừng tăng lên qua các năm. Năm 2011, Việt Nam nhận được lượng kiều hối trị giá 8,6 tỷ USD, con số này đã tăng lên 16 tỷ USD vào năm 2018 (tương đương với lượng FDI và gấp 9,7 lần khối lượng ODA cùng năm) và đạt 17 tỷ USD năm 2019.

Khoản kiều hối sau khi qua được hệ thống ngân hàng, nếu không được khuyến khích đổi ra nội tệ sẽ được lan truyền trong dân cư dưới dạng ngoại tệ và làm tăng khả năng đô la hóa nền kinh tế. 

Thứ 2, lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam ngày càng tăng, khách du lịch đến Việt Nam cùng với đó hoạt động đổi tiền tại các quầy đổi tiền, nhưng thông thường, chi tiêu đến đâu họ đổi tiền đến đó và khi việc đổi tiền không mấy thuận lợi do địa bàn, đường sá, họ thỏa thuận với người bán để thanh toán bằng Đô la.

Thứ ba, tiền lương và thu nhập của người Việt Nam làm việc trong các dự án liên doanh, dự án 100% vốn nước ngoài, dự án quốc tế, cơ quan nước ngoài tại Việt Nam … được trả bằng ngoại tệ.

Thứ tư, số lượng người nước ngoài đến Việt Nam làm việc, sinh sống, kinh doanh, học tập… ngày càng tăng, chi tiêu bằng ngoại tệ tiền mặt rất lớn, đặc biệt là tiền thuê nhà của các hộ gia đình Việt Nam thanh toán miền nam và các dịch vụ khác. 

Thứ năm, các quỹ viện trợ không hoàn lại, các quỹ từ các tổ chức tài chính vi mô, các tổ chức từ thiện quốc tế, các tổ chức phi chính phủ nước ngoài…Bên cạnh đó là nguồn vốn tài trợ của các tổ chức tài chính – tiền tệ quốc tế, chính phủ các nước.

Thứ sáu, ngoại tệ đến từ hoạt động buôn lậu và một số nguồn ngoại tệ đến từ các hoạt động kinh tế lén lút khác. Đây là kênh ngoại hối mà nhà nước không kiểm soát được có thể dẫn đến thao túng nền kinh tế, chưa kể nền kinh tế nước ta là nền kinh tế tiền tệ, các tổ chức bất hợp pháp nước ngoài có thể bơm Đô la vào nền kinh tế Việt Nam để rửa tiền. 

Thứ bảy, Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam tiếp tục tăng trưởng khá và cũng mang lại một lượng lớn ngoại hối vào nền kinh tế, theo thống kê của Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, lũy kế đến cuối tháng 12/2020. Đến năm 2020, cả nước có 33.070 dự án FDI còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký 384 tỷ USD. Vốn thực hiện ước đạt 231.860 triệu USD, chiếm 60,4% vốn đăng ký còn hiệu lực. Đặc biệt, bất chấp bối cảnh khủng hoảng do đại dịch Covid-19 tác động mạnh đến chuỗi cung ứng toàn cầu, tính đến cuối năm 2020, tổng vốn đăng ký cấp mới, điều chỉnh và góp vốn mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam vẫn đạt con số 28,53 tỷ USD.

Ngoài ra, Việt Nam còn thu được một lượng ngoại tệ từ hoạt động xuất khẩu. Nhận thức được tầm quan trọng của việc hạn chế tình trạng đô la hóa trong nền kinh tế, chính phủ Việt Nam đã có quyết định phê duyệt đề án nâng cao tính chuyển đổi của đồng tiền Việt Nam, khắc phục tình trạng đô la hóa trong nền kinh tế. 

Nhằm thực hiện Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, Thống đốc NHNN đã tổ chức Hội nghị bàn các biện pháp triển khai, thành lập Ban chỉ đạo ngành Ngân hàng phối hợp với các Bộ: Tài chính, Kế hoạch và Đầu tư, Công an, Công thương, Thông tin và Truyền thông lên kế hoạch tổng thể triển khai Đề án.

Cũng theo ý kiến của Thống đốc NHNN Nguyễn Văn Giàu: “Để hạn chế tình trạng đô la hoá người dân và doanh nghiệp không nên nắm giữ ngoại tệ nếu không có nhu cầu. Đồng thời để bảo vệ lợi ích của mình, người dân cũng như các doanh nghiệp nên cân nhắc, đề phòng những rủi ro do biến động tỷ giá, cũng như tránh chạy theo tâm lý đám đông đầu cơ ngoại tệ”.

Giải pháp khắc phục đô la hóa 

Để khắc phục tình trạng đô la hóa, sẽ có nhiều giải pháp, trong đó đối với các cơ quan quản lý nhà nước cần tập trung giải quyết một số vấn đề sau:

Trước hết, cần  đánh giá tình hình thực hiện các quy định của Luật Quản lý ngoại hối ở Việt Nam trong thời gian qua và có những điều chỉnh, bổ sung nhằm đáp ứng mục tiêu hạn chế tình trạng có thể lợi dụng dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi ngoại tệ, tăng nhiều hơn mức dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi (một số nước đã tăng dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi ngoại tệ lên 30-50% để giảm tỷ lệ nắm giữ ngoại tệ) hoặc lãi suất tối đa đối với tiền gửi ngoại tệ.

Tiếp đến là tăng cường sự phối hợp giữa các bộ, ngành trong việc giám sát việc thực hiện các quy định về quản lý ngoại hối trên phạm vi cả nước, thuộc mọi thành phần kinh tế, phải đảm bảo xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm, cần có chế tài xử phạt nặng đối với các trường hợp vi phạm pháp luật về quản lý ngoại hối.

Cùng với đó đi đôi với việc giám sát và xử lý nghiêm việc thực hiện các quy định về quản lý ngoại hối, đảm bảo tại Việt Nam các giao dịch được thực hiện bằng tiền Việt Nam, các ngân hàng thương mại, tổ chức kinh tế cần tăng phí đổi tiền lên cao để người dân hạn chế nắm giữ ngoại tệ, chuyển sang nắm giữ VND.

Giải đáp các thắc mắc liên quan đến đô la hóa

Chống đô la hóa là gì?

Chống đô la hóa là việc đưa ra các chính sách nhằm tác động đến hiện tượng đô la hóa khi một ngoại tệ được sử dụng bổ sung hoặc thay thế hoàn toàn nội tệ tại một quốc gia.

Nền kinh tế bị đô la hóa là gì?

Nền kinh tế đô la hóa là nền kinh tế trong đó người dân của một quốc gia chọn sử dụng đồng tiền ổn định hơn cho các giao dịch hàng ngày thay vì sử dụng đồng nội tệ. Đô la hóa là tình trạng không thể tránh khỏi trong nền kinh tế của một quốc gia. Việc xóa bỏ hay không xóa bỏ tình trạng đô la hóa là quyết định của một quốc gia. Tuy nhiên để phát triển nền kinh tế hiệu quả, việc duy trì đô la hóa ở một mức độ phù hợp và ổn định để thúc đẩy phát triển kinh tế là điều cần thiết. 

Như vậy trên đây là những thông tin và kiến thức xoay quanh vấn đề đô la hóa, cùng với đó là thực trạng đối với nền kinh tế của Việt Nam. Hy vọng bài viết có thể cung cấp đủ các thông tin về tài chính mà bạn cần.