So sánh vận tải đơn và vận tải đa phương thức

Mục lục bài viết

  • 1. Hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển
  • 2. Vận đơn hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển
  • 3. Hợp đồng vận tải đa phương thức
  • 4. Vận đơn vận tải đa phương thức
  • 5. Sự khác nhau giữa vận đơn và vận đơn vận tải đa phương thức

Tình huống: Kính thưa Luật sư, Vận đơn hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển và Vận đơn vận tải đa phương thức được quy định như thế nào? Giữa hai vận đơn này có sự nhau nhau như thế nào?

Trân trọng!

Trả lời:

1. Hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển

- Cơ sở pháp lý: Mục 1 Bộ luật hàng hải Việt Nam năm 2015

Theo Điều 145 của bộ luật quy định về: "Hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển" như sau:

"Hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển là thỏa thuận được giao kết giữa người vận chuyển và người thuê vận chuyển, theo đó người vận chuyển thu giá dịch vụ vận chuyển do người thuê vận chuyển trả và dùng tàu biển để vận chuyển hàng hóa từ cảng nhận hàng đến cảng trả hàng."

Theo đó:

Hàng hóa trong Hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển là máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu, nhiên liệu, hàng tiêu dùng và các động sản khác, kể cả động vật sống, container hoặc công cụ tương tự do người giao hàng cung cấp để đóng hàng được vận chuyển theo hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển;

Người vận chuyển là người tự mình hoặc ủy quyền cho người khác giao kết hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển với người thuê vận chuyển. Người vận chuyển thực tế là người được người vận chuyển ủy thác thực hiện toàn bộ hoặc một phần việc vận chuyển hàng hóa bằng đường biển;

Người thuê vận chuyển là người tự mình hoặc ủy quyền cho người khác giao kết hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển với người vận chuyển. Trường hợp hợp đồng vận chuyển theo chứng từ vận chuyển, người thuê vận chuyển được gọi là người giao hàng.

Theo Điều 146 Bộ luật quy định về các loại hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển bao gồm 2 loại:

"1. Hợp đồng vận chuyển theo chứng từ vận chuyển là hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển được giao kết với điều kiện người vận chuyển không phải dành cho người thuê vận chuyển nguyên tàu hoặc một phần tàu cụ thể mà chỉ căn cứ vào chủng loại, số lượng, kích thước hoặc trọng lượng của hàng hóa để vận chuyển. Hợp đồng vận chuyển theo chứng từ vận chuyển được giao kết theo hình thức do các bên thỏa thuận.

2. Hợp đồng vận chuyển theo chuyến là hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển được giao kết với điều kiện người vận chuyển dành cho người thuê vận chuyển nguyên tàu hoặc một phần tàu cụ thể để vận chuyển hàng hóa theo chuyến. Hợp đồng vận chuyển theo chuyến phải được giao kết bằng văn bản."

2. Vận đơn hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển

- Cơ sở pháp lý: điều 148 Bộ luật hàng hải Việt Nam năm 2015

Theo Điều 148 quy định về "Chứng từ vận chuyển" có quy định Vận đơn như sau:

"Vận đơn là chứng từ vận chuyển làm bằng chứng về việc người vận chuyển đã nhận hàng hóa với số lượng, chủng loại, tình trạng như được ghi trong vận đơn để vận chuyển đến nơi trả hàng; bằng chứng về sở hữu hàng hóa dùng để định đoạt, nhận hàng và là bằng chứng của hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển."

Theo đó, Chứng từ vận chuyển bao gồm vận đơn, vận đơn suốt đường biển, giấy gửi hàng đường biển và chứng từ vận chuyển khác. Mẫu vận đơn, vận đơn suốt đường biển do doanh nghiệp phát hành và phải được gửi, lưu tại cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành hàng hải.

Bên cạnh đó, có vận đơn suốt đường biển, vận đơn suốt đường bường biển được pháp luật quy định là vận đơn ghi rõ việc vận chuyển hàng hóa được ít nhất hai người vận chuyển bằng đường biển thực hiện.

Trân trọng!

3. Hợp đồng vận tải đa phương thức

- Cơ sở pháp lý: Mục 4 Bộ luật hàng hải Việt Nam năm 2015

Theo khoản 1 Điều 196 bộ luật quy định về: "Hợp đồng vận tải đa phương thức" như sau:

"Hợp đồng vận tải đa phương thức là hợp đồng được giao kết giữa người gửi hàng và người kinh doanh vận tải đa phương thức, theo đó người kinh doanh vận tải đa phương thức đảm nhiệm vận chuyển hàng hóa để thu giá dịch vụ vận chuyển cho toàn bộ quá trình vận chuyển, từ địa điểm nhận hàng đến địa điểm trả hàng cho người nhận hàng bằng ít nhất hai phương thức vận tải, trong đó phải có phương thức vận tải bằng đường biển."

Theo đó:

Người kinh doanh vận tải đa phương thức là người tự mình hoặc ủy quyền cho người khác giao kết hợp đồng vận tải đa phương thức với người gửi hàng.

Người gửi hàng là người tự mình hoặc ủy quyền cho người khác giao kết hợp đồng vận tải đa phương thức với người kinh doanh vận tải đa phương thức.

Chứng từ vận tải đa phương thức là bằng chứng của hợp đồng vận tải đa phương thức, xác nhận việc người kinh doanh vận tải đa phương thức nhận hàng để vận chuyển và cam kết trả hàng theo đúng thỏa thuận của hợp đồng.

Người kinh doanh vận tải đa phương thức phải có những trách nhiệm sau:

"1. Người kinh doanh vận tải đa phương thức phải chịu trách nhiệm đối với hàng hóa theo hợp đồng vận tải đa phương thức từ thời điểm nhận hàng cho đến khi trả hàng.

2. Người kinh doanh vận tải đa phương thức có thể ký các hợp đồng riêng với những người vận chuyển của từng phương thức vận tải, trong đó xác định trách nhiệm của từng bên tham gia đối với mỗi phương thức vận tải. Các hợp đồng riêng này không ảnh hưởng đến trách nhiệm của người kinh doanh vận tải đa phương thức đối với toàn bộ quá trình vận chuyển."

Trân trọng!

4. Vận đơn vận tải đa phương thức

Vận tải đa phương thức (Multimodal Transport Bill of Lading) hay vận đơn vận tải liên hợp (Combined Transport Bill of Lading hay Negotiable FIATA Multimodal Transport Bill of lading – FIATA B/L) là vận đơn được sử dụng trong trường hợp hàng hóa được vận chuyển từ nơi đi đến nơi đến bằng hai hay nhiều loại phương tiện vận tải khác nhau.

Sở dĩ nó được gọi là Negotiable FIATA Multimodal Transport Bill of lading – FIATA B/L là vì vận đơn vận tải đa phương thức có nhiều loại, do nhiều hãng vận chuyển (uy tín hoặc không uy tín) phát hành nhưng phổ biến nhất và được chấp nhận rộng rãi là vận đơn đa phương thức có mẫu do Liên đoàn quốc tế các hiệp hội giao nhận (Fédération Internationale des Associations de Transitaires et Assimilés - Intetnational Federation of Freight Forwarders Association – FIATA) phát hành.

Chính vì uy tín của tổ chức này, nên mẫu vận đơn đa phương thức FIATA này được Phòng Thương mại quốc tế (ICC) và các ngân hàng chấp nhận khi thanh toán bằng thư tín dụng (Letter of Credit). Và những nhà vận tải đa phương thức cấp được mẫu vận đơn này cũng thường là những NVOCC có tư cách thành viên uy tín FIATA. Một vài người kinh doanh cước vận tải freight forwarder cũng phát hành được B/L vận tải đa phương thức, nhưng người XK/NK nên cẩn thận xem những người này có phải là thành viên của FIATA hay không, phòng trường hợp vận đơn đa phương thức do họ cấp ra bị từ chối thanh toán bởi ngân hàng trong trường hợp thanh toán bằng L/C.

Mặc dù chủ yếu dùng trong vận tải đa phương thức nhưng vận đơn vận tải đa phương thức này cũng được soạn thảo để có thể dùng vận chuyển đơn phương thức, như vận tải đường biển (từ cảng biển đến cảng biển). Và thường lúc này nó xuất hiện dưới hình thức của một H/B, do FWD cấp cho shipper.

Trên vận đơn đường biển thường chỉ ghi cảng xếp hàng và cảng dỡ hàng thì trên vận đơn vận tải đa phương thức lại có ghi thêm mục Place of receipt: Nơi nhận hàng để chở (thường là địa chỉ kho người XK) và mục Place of delivery: Nơi giao hàng cuối cùng.

Nếu theo cách hiểu của những phần phân tích trên đây, vận đơn vận tải đa phương thức thường là do một người vận tải đa phương thức – NVOCC cấp.

Trân trọng!

5. Sự khác nhau giữa vận đơn và vận đơn vận tải đa phương thức

Theo khoản 1 Điều 196 của Bộ luật hàng hải Việt Nam năm 2015, Hợp đồng vận tải đa phương thức là hợp đồng được giao kết giữa người gửi hàng và người kinh doanh vận tải đa phương thức, theo đó người kinh doanh vận tải đa phương thức đảm nhiệm vận chuyển hàng hóa để thu giá dịch vụ vận chuyển cho toàn bộ quá trình vận chuyển, từ địa điểm nhận hàng đến địa điểm trả hàng cho người nhận hàng bằng ít nhất hai phương thức vận tải, trong đó phải có phương thức vận tải bằng đường biển (ở đây chỉ nói tới vận đơn cấp cho những lô hàng rời khối lượng lớn) là bằng chứng của hợp đồng vận chuyển hàng hóa từ cảng xếp hàng tới cảng đỡ hàng.

Như vậy, sự khác nhau cơ bản là phạm vi không gian trách nhiệm của người vận chuyển bằng đường biển hẹp hơn (từ khi móc cẩu cặp vào mã hàng ở cảng xếp hàng tới khi móc cẩu rời khỏi mã hàng ở cảng dỡ hàng: tackle to tackle) so với phạm vi không gian trách nhiệm của người kinh doanh vận tải đa phương thức. Khi ký phát vận đơn đường biển, thông thường, phía trên vận đơn, người vận chuyển chỉ ghi chữ "Bill of Lading" còn khi người kinh doanh vận tải đa phương thức phát hành vận đơn vận tải đa phương thức thì trên tiêu đề thường in dòng chữ: "Multimodal Transport Bill of Lading hoặc Combined Transport Bill of Lading".

Tuy nhiên, ngày nay, đại đa số hàng hóa được vận chuyển bằng container nên sự phân biệt như trên cũng chỉ có ý nghĩa tương đối. Ngoài ra, giữa hai loại vận đơn này còn có một sổ khác biệt đáng kể như sau:

Thứ nhất, người vận chuyển hàng hóa bằng đường biển thường là chủ tàu, hoặc người thuê tàu trần hoặc thuê tàu định hạn, trong khi đó người kinh doanh vận tải đa phương thức thực tế không phải là chủ phương tiện mà chỉ mua lại dịch vụ vận chuyển từng chặng sau đó bán lại dịch vụ vận tải đa phương thức toàn chặng cho chủ hàng bằng một hợp đồng duy nhất. Thông thường, người ta gọi họ là người vận chuyển không có tàu (Non Vessel Operating Common Carter: NVOCC).

Thứ hai, trên vận đơn đường biển thường chỉ ghi cảng xếp hàng và cảng dỡ hàng còn trên vận đơn vận tải đa phương thức đầu tiên phải ghi rõ địa điểm tiếp nhận hàng để vận chuyển (Place of receipt). Địa điểm này thường ở trên đất liền và không ít trường hợp nằm sâu trong nội địa cách xa cảng xếp hàng vài chục đến vài trăm cây số. Tiếp đó, vận đơn ghi rõ cảng xếp hàng, sau đó là cảng dỡ hàng và cuối cùng là địa điểm giao trả hàng (Place of delivery). Cũng như địa điểm tiếp nhận hàng, địa điểm giao trả hàng có thể cách khá xa cảng dỡ hàng. Với các hãng tàu vận chuyển container, các địa điểm tiếp nhận hàng để chở cũng như địa điểm giao trả hàng chính là các bãi chứa container của họ (Container Yard, viết tắt là CY), thường không cách xa cảng xếp dỡ hàng và cũng nằm trong khu vục cảng (Port Area), nên trong vân đơn vận tải đa phương thức do họ ký phát chỉ ghi là cảng xếp hàng.

Ví dụ: Ho Chi Minh City Port, mặc dầu container trước khi giao lên tàu thường được tiếp nhận tại bãi CY do họ chỉ định.

Thứ ba, vận đơn đường biển ở mặt trước thường in sẵn dòng chữ: “Shipped on board the above goods in apparent good order and conditions...: hàng đã được xếp lên tàu trong tình trạng và điều kiện bên ngoài có vẻ tốt...” và ngày cấp vận đơn cũng chính là ngày giao hàng theo hợp đồng mua bán. Ngược lại, với vận đơn vận tải đa phương thức thì mặt trước thường chỉ ghi dòng chữ: “Received for shipment” hoặc “Taken in charge”, nghĩa là mới nhận để chở chứ chưa xếp lên tàu, chưa giao hàng, do vậy muốn thỏa mãn yêu cầu hàng đã được giao như quy định trong hợp đồng mua bán thì sau khi xếp lên tàu người vận chuyển phải ghi thêm một dòng chữ là “Laden on board” hay “Shipped on board” ngày...

Thứ tư, trong vận đơn đường biển, người vận chuyển không chịu trách nhiệm về việc hàng đến cảng đích chậm trong khi đó, ở vận đơn vận tải đa phưong thức, thường quy định người kinh doanh vận tải đa phương thức sẽ bồi thường thiệt hại cho chủ hàng bằng gấp đôi số tiền cước của lô hàng bị chậm trễ nhưng trong bất cứ trường hợp nào cũng không được vượt quá tổng cộng trị giá hàng.

Thứ năm, trong vận đơn vân tải đa phương thúc, đối với chặng vận tải đường bộ, nếu có tổn thất thì trách nhiệm tối đa của người kinh doanh vận tải đa phương thức có thể lên tới 8.333 SDR/ Kg.

Thứ sáu, thời hiệu khởi kiện người vận chuyển đường biển thường là một năm kể từ ngày giao hàng hoặc từ ngày lẽ ra hàng phải dược giao, với người kinh doanh vận tải đa phương thức thời hiệu này chỉ còn 9 tháng. Sở dĩ như vậy vì phải dành cho họ 3 tháng để truy đòi lại người vận chuyển thực tế sau khỉ đã bồi thường cho chủ hàng vì trên thực tế, những người kinh doanh vận tải đa phương thức thường mua dịch vụ và giá cước từ những chủ phương tiện thực sự sau đó bán lại dịch vụ và giá cước cho chủ hàng và lợi nhận của họ chính là sự chênh lệch giữa giá mua và giá bán.

Trân trọng!