Sự giống nhau giữa triết học và triết lý

Sao giờ lắm sách cổ học như kinh dịch, nho lão, tôn tử, đạo lão... thế nhỉ? Liệu hoài cổ quá có hay lắm không? Luận sâu sắc về lời Hegel - Mác dạy có khi còn ít hơn cả luận Kinh Dịch, Mạnh Tử, Tôn Tử ấy...

Bài này mong các bạn chia sẻ vài điểm khác biệt về triếthọc, triết lý Đông - Tây, từ đó quyết định xem cân đối kiến thức sao cho hợp lý, hiệu quả cho cuộc sống.

- Thứ nhất, ta sẽ phân biệt đâu là Đông, đâu là Tây.

- Thứ hai, ta so sánh bối cảnh xã hội ra đời, pt triết học phương Đông, phương Tây

- Thứ ba, ta so sánh đối tượng nghiên cứu của triết học Đông, Tây

- Thứ tư, ta so sánh phương pháp nhận thứ của 2 nền triết học đó

- Thứ năm, những nhận xét về vận dụng hai dòng kiến thức đó sao cho hợp lý

Phương Đông
để chỉ các nước châu Á các nên văn minh trên ba lưu vực sông lớn: sông Nin, sông Hằng, sông Hoàng Hà, chủ yếu là Ai Cập, ả rập, ấn độ và Trung Hoa. Hầu hết các nền tôn giáo lớn của thế giới đều xuất hiện ở đây.

Phương Tây
Phương Tây chủ yếu là các nước Tây âu như Anh, Pháp, Đức, Ý, Áo, Tây Ban Nha... Ngày nay chúng ta gộp cả Mỹ vào.

Đặc điểm hai loại hình cơ sở xã hội Đông - Tây là tĩnh, ổn định đối nghịch với động, biến động nhanh. Triết học lỏng lẻo, mềm dẻo của Đông đối lại là triết học chặt chẽ, thống nhất thành hệ thống của Tây. Triết học phương Tây đi từ gốc lên ngọn (từ thế giới quan, vũ trụ quan, bản thể luận... từ đó xây dựng nhân sinh quan con người;) trong khi triết học phương Đông đi từ ngọn xuống gốc (từ nhân sinh quan, vấn đề cách sống, lối sống sau đó mới là vũ trụ quan, bản thể luận...). Đó là 2 nét chính của hai nền triết học Đông - Tây.

Nếu như ở phương Tây, triết học được xây dựng bởi chủ yếu là các nhà khoa học, gắn liền với các thành tựu khoa học, đặc biệt là khoa học tự nhiên thì ở phương Đông, triết học gắn với những hiền triết - nhà tôn giáo, nhà giáo dục đạo đức, chính trị-xã hội.

Vậy nên đặc điểm chủ đạo là các nhà Triết học phương Tây thiên về giải thích thế giới theo nhiều cách còn mục đích chính của phương Đông là cải tạo thế giới gồm có: ổn định xã hội, giải thoát cho con người và làm sao cho con người hoà đồng với thiên nhiên.

Nguồn gốc là do ở phương Đông, thượng tầng kiến trúc ra đời trước và thúc đẩy dự phát triển của hạ tầng cơ sở, còn ở phương Tây hạ tầng cơ sở quyết định đến thượng tầng kiến trúc.

Về đối tượng nghiên cứu của triết học Đông, Tây
Đối tượng của triết học phương Tây rất rộng gồm toàn bộ tự nhiên, xã hội, tư duy mà gốc là tự nhiên. Nó ngả theo hướng lấy ngoại (ngoài con người) để giải thích trong (con người), nói chung xu hướng nổi trội là duy vật.

Trong khi đó phương Đông lấy xã hội, cá nhân làm gốc là tâm điểm để nhìn xung quanh. Do đó đối tượng của triết học phương Đông chủ yếu là xã hội, chính trị, đạo đức, tâm linh và do vậy xu hướng là hướng nội, lấy trong để giải thích ngoài. Đa số trường phái thiên về duy tâm.

Về phương pháp nhận thức của 2 nền triết học đó

Triết học phương Tây ngả về tư duy duy lý, phân tích mổ xẻ còn phương Đông thì ngả về dùng trực giác.

Cái mạnh của phương Tây là cho khoa học, kỹ thuật và về sau là công nghệ phát triển... và nhận thức luôn hướng đến nhận thức cái chân lý vô hạn cùng. Phương Tây đi gần mãi đến chân lý qua hàng loạt những trừu tượng, khái niệm, quy luật... của toàm thể vũ trụ, liên tiếp đi từ cấp độ bản chất thấp đến mức độ bản chất cao hơn... cũng do vậy họ có xu hướng cô lập hoá , cách ly hoá, làm mất đi tính tổng thể.

Triết học phương Đông ngược lại thường dùng trực giác, tức là đi thẳng đến sự hiểu biết, vào cái sâu thẳm bản chất của sự vật, hiện tượng. Trực giác giữ được cái tổng thể mà tư duy phân tích, mổ xẻ đạt đến. Nhưng nó có tiềm tàng nhược điểm là không phổ biến rộng được. Trực giác mỗi người mỗi khác. Và không phải lúc nào trực giác cũng đúng. Thực ra 2 biện pháp kết hợp lẫn nhau, nhưng ở đây nói về thiên hướng.

Triết học phương Tây có xu hướng tách chủ thể với khách thể để nhận thức cho khách quan còn triết học phương Đông lại cho rằng người nhận thức và đối tượng nhận thức cùng hoà hợp vào nhau (đặt cùng trong 1 hệ quy chiếu.) thì nhận thức sẽ dễ dàng.

Phương tiện nhận thức của triết học phương Tây là khái niệm, mệnh đề, biểu thức lôgíc để đối tượng mô tả rõ ràng, thống nhất hơn thì trong triết học phương Đông lại là ẩn dụ, liên tưởng, hình ảnh, ngụ ngôn... để không bị lưới giả về nghĩa do khái niệm che phủ. Nhưng điểm yếu của triết học phương Đông chính là sự đa nghĩa, nhập nhằng khác biệt khi qua các phân tích khác nhau.

Triết học phương Đông biến đổi tuần tự thay đổi dần về lượng, dù thay đổi bao nhiêu vẫn giữa lấy phần gốc phần lõi làm nền, không rời xa gốc đã có.

Triết học phương Tây thay đổi theo hướng nhảy vọt về chất, nên càng tiến hoá càng phong phú hơn, xa rời gốc ban đầu. Thậm chí có xu hướng cái sau phủ định hoàn toàn cái ở giai đoạn trước.

Trong phép biện chứng giải thích quy luật của sự vận động - phát triển cũng có nét khác biệt. Phương Đông nghiêng về thống nhất hay vận động vòng tròn, tuần hoàn. Phương tây nghiêng về sự đấu tranh và vận động, phát triển theo hướng đi lên.

Một nét nữa của triết học Tây - Đông là theo thống kê thì triết học phương Tây thiện về hướng ngoại, chủ động, tư duy lý luận, đấu tranh sống còn, hiếu chiến, cạnh tranh, bành trướng, cá thể, phân tích, tri thức suy luận, khoa học, tư duy cơ giới, chú ý nhiều đến thực thể...

Khuynh hướng nổi trội của phương Đông lại là hướng nội, bị động, trực giác huyền bí, hoà hợp, quân bình chủ nghĩa, thống nhất, hợp tác, giữ gìn, tập thể, tổng hợp, minh triết, tôn giáo, tâm lý, tâm linh, tư duy hữu cơ, chú ý nhiều tới quan hệ...

Đông (Á)

Tây (Âu)

Tinh thần - Đời người - Tĩnh lặng cảm nhận các mối quan hệVật chất - Máy móc - Mạnh mẽ, quyết liệt, Sức động, quan tâm thực thể độc lập
Thiên về tôn giáo, mỹ thuật, nghệ thuậtThiên về khoa học công nghệ
Sử dụng tình cảm, quan tâm đạo đức -- Con người, đạo họcSử dụng trí tuệ, tư tưởng, quan tâm sự vật/hiện tượng -- Vũ trụ, học thuyết
Dùng trực giác, tổng thể vẫn loanh quanh những lối cũ, bề ngòaiDùng lý trí, mất dần tổng thể, ngày càng phong phú, cụ thể
Quan tâm phần ngọn: nhân sinh quan, cách sống, lối sốngQuan tâm phần gốc: thế giới quan, bản thể luận, nhận thức luận
Ảnh hưởng tới: kinh nghiệm/hoàn thiện cá nhân, ổn định xã hộiẢnh hưởng tới: giải thích/lý luận về thế giới, thực hành kỹ nghệ, tự do cá nhân, cách mạng xã hội

Cập nhật lúc:12:22 SA @ 03/10/2008

Văn hóa, triết lý và triết học

Lương Việt HảiPhó giáo sư, Tiến sĩ khoa học, Phó viện trưởng Viện Triết học, Viện khoa học xã hội Việt Nam

11:28 SA @ Thứ Năm - 11 Tháng Mười Hai, 2008

Bài viết góp phần luận giải mối quan hệ giữa văn hóa, triết lý và triết học. Văn hóa là nguồn nuôi dưỡng các triết lý, các tư tưởng và hệ thống triết học, là điều kiện tất yếu cho sự tồn tại và phát triển các hệ thống triết học. Các triết lý, các hệ thống triết học lại là những bộ phận cốt lõi nhất trong nền văn hóa của một dân tộc. Xét trên nhiều khía cạnh, triết lý luôn ở tầm thấp hơn so với các hệ thống triết học, song nó chính là chất liệu của các hệ thống triết học bác học. Theo tác giả, văn hóa, các triết lý và các hệ thống triết học chính là ba tầng bậc khác nhau của văn hóa theo nghĩa rộng.

Văn hóa theo gốc tiếng Latinh (cultura) có nghĩa là canh tác, nuôi dưỡng, giáo dục, phát triển, tôn trọng. Trong lịch sử, ban đầu người ta thường đồng nhất văn hóa với tất cả những gì do con người tạo ra. Văn hóa là hệ thống các nguyên tắc, cách thức, chương trình, phương thức hoạt động sống thuộc tầng trên sinh học của con người. Hệ thống ấy được hình thành và phát triển qua quá trình lịch sử và giúp cho việc duy trì và cải biến đời sống xã hội. Các chương trình, phương thức hoạt động ấy được hợp thành bởi các tri thức, chuẩn mực, thói quen, lý tưởng, cách hành động, tư tưởng, học thuyết, lòng tin, mục trêu, định hướng giá trị... Những cái đó lại rất đa dạng, được tích luỹ lâu đời, tạo thành kinh nghiệm xã hội - một yếu tố cấu thành văn hóa, được di truyền từ thế hệ này đến thế hệ khác.

Văn hóa gắn liền với phương thức hoạt động sống của con người, nhờ đó mà phân biệt được sự tồn tại của con vật với cuộc sống của con người. Có nhiều nhánh quan điểm khác nhau về văn hóa, song nó luôn được xem như quá trình phát triển lý trí và các hình thức sống cố lý trí của con người, trái ngược với tính chất hoang dại và man rợ ở thời kỳ trền sử. Văn hóa là đời sống trnh thần của con người được duy trì và phát triển trong trến trình lịch sử, là sự trến hóa của ý thức đạo đức, luân lý, tôn giáo triết học, khoa học, pháp luật và ý thức chính trị, thúc đẩy sự trến bộ của nhân loại. Mặt khác, người ta cũng xem văn hóa như những điểm đặc thù của một xã hội. Văn hóa là hệ thống các giá trị và tư tưởng quy định kiểu tổ chức xã hội ở những thời kỳ lịch sử khác nhau. Các hệ thống đó là khác nhau và tương đối độc lập với nhau, trong chúng bao gồm toàn bộ tài sản văn hóa vật chất, tập quán chủng tộc, các dạng ngôn ngữ và các hệ thống biểu trưng khác.

Văn hóa chỉ là tính tích cực của con người trong hành vi, hoạt động và giao trếp nhằm tạo ra một thế giới mới - thế giới nhân tạo khác với giới tự nhiên. Văn hóa như là phương thức thực hiện và điều chỉnh các hoạt động của con người, là phương diện đặc biệt của đời sống xã hội. Nó tạo ra và truyền tải từ thế hệ này đến thế hệ khác các nguyên tắc, cách thức, các chương trình trên sinh học về hành vi, hoạt động và giao tiếp của con người. Như vậy, văn hóa không đồng nhất với xã hội mà chỉ là một phương diện đặc biệt của xã hội, hiện diện trong tất cả các trạng thái xã hội khác nhau và cũng không có một hiện tượng xã hội nào không chịu ảnh hưởng hoặc không mang dấu ấn của văn hóa.

Văn hóa còn được xem là hệ thống mã code thông tin, mã hóa các kinh nghiệm xã hội của con người. Kinh nghiệm ấy thể hiện như những chương trình trên sinh học về hành vi, hoạt động và giao trếp. Nếu trong các hệ sinh học bao giờ cũng có những kết cấu thông tin đặc biệt đề quản lý và điều chỉnh hệ thống sinh học ấy (AND, ARN), được gọi là gen, thì trong các hệ thống xã hội gen di truyền ấy là văn hóa. Các dạng hành vi, hoạt động, giao tiếp được điều chỉnh bằng các "chương trình, mã văn hoá" nhằm tái sản xuất và phát triển các yếu tố, các trểu hệ thống xã hội và các quan hệ của chúng, các thiết chế xã hội, các loại nhân cách đặc trưng cho xã hội đó. Điều đó tương tự như mã di truyền sinh học điều khiển trao đổi chất để tạo nên các tế bào và các bộ phận của cơ thể sinh vật.

Mã di truyền xã hội có chức năng chuyển tải từ người này qua người khác, từ thế hệ này qua thế hệ khác toàn bộ các kinh nghiệm xã hội. Để có thể truyền tải, bảo tồn được thì khối các kinh nghiệm đó phải được thể hiện dưới dạng các loại ký hiệu khác nhau, như âm thanh, chữ viết, tiếng nói, điệu bộ, hình ảnh… Hệ thống các ký hiệu như vậy phải rất đa dạng, phong phú mới có thể ghi nhận được khối các kinh nghiệm xã hội vốn thường xuyên được đổi mới, bổ sung và phát triển. Hệ thống ký hiệu ấy cũng là một trong những yếu tố cấu thành của văn hóa.

Trong giới tự nhiên thứ hai, các sản phẩm do con người tạo nên cũng là những ký hiệu dưới các dạng thức và ý nghĩa khác nhau. Các vật thể văn hóa vật chất đóng vai trò kép trong đời sống con người: một mặt, chúng phục vụ trực tiếp mục trêu thực tiễn, cụ thể cho các nhu cầu hàng ngày của con người, như ăn, mặc, ở, đi lại... Mặt khác, chúng lại là phương tiện bảo tồn, chuyển giao các chương trình (programs), ý nghĩa, nội dung, phương thức điều chỉnh hoạt động, hành vi, giao tiếp. Dưới góc độ ấy, giới tự nhiên thứ hai mang ý nghĩa và nội dung văn hóa sâu sắc.

Các thành tố văn hóa trong hệ thống chỉnh thể bao hàm và gắn kết lẫn nhau tạo nên những cái chung, những triết lýmang tính thế giới quan, trong đó tích trữ những kinh nghiệm xã hội đã tích lũy được. Chúng không phải là những phạm trù triết học dù chúng phản ánh hiện thực, thể hiện thành những quy tắc, chuẩn mực của hoạt động, thành những triết lý, thành các cái chung văn hóa. Các triết lý có thể hoạt động và phát triển cả ở bên ngoài các hệ thống triết học, nhưng chúng lại vốn có trong các nền văn hóa mà ở đó, chưa có những hình thức phát triển của các hệ thống triết học.

Các triết lý xuất hiện, phát triển và hoạt động trong đời sống xã hội và cá nhân, mỗi yếu tố đều hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp, liên hệ với nhau. Trong các triết lý đã có thể hiện những quan niệm khác nhau về các yếu tố cơ bản và các mặt của hoạt động sống của con người: vị trí con người, các quan hệ xã hội, đời sống tinh thần và các giá trị của cuộc sống con người. Những quan niệm ấy ẩn chứa bên trong các nội dung, chương trình phương thức hoạt động chung của xã hội và được cụ thể hóa bằng những quan niệm cụ thể hơn, định hướng cho hoạt động của các cá nhân và cộng đồng.

Trong các triết lý mang tính thế giới quan có thể có những phương án sống và hoạt động riêng, đặc trưng cho những kiểu văn hóa khác nhau và ăn sâu trong ý thức con người. Đồng thời chúng cũng gắn liền với những nội dung, phương thức, chương trình hành động của quá khứ lẫn tương lai, thể hiện những đặc điểm của phương thức giao tiếp và hoạt động của con người, của việc bảo tồn, chuyển tải kinh nghiệm xã hội và thang bậc giá trị. Chúng mang đặc trưng dân tộc và chủng tộc trong mỗi nền văn hóa, xác định đặc điểm của các nền văn hóa khác nhau, ý nghĩa của những triết lý trong văn hóa sẽ được các cá nhân thận thức và chúng sẽ xác định tầm quan niệm về thế giới, hành động và cách xử thế của các cá nhân. Ý nghĩa của những triết lý ở tầm nhóm và cá nhân sẽ được hiệu chỉnh cho phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của họ.

Hoạt động của các chương trình sinh học (bản năng ăn uống, tự bảo vệ, tính dục .v.v.. ) ở con người trải qua quá trình xã hội hóa, giáo dục, được thực hiện dưới hình thức triết lý văn hóa xác định. Rất nhiều những biểu hiện có thể có của các chương trình sinh học bị cấm do văn hóa. Văn hóa “cấm kỵ” nhiều tham vọng, ước muốn thể hiện tự do các bản năng động vật thông qua việc giáo dục, rèn luyện con người ngay từ thời thơ ấu; văn hóa bao hàm cả cái vô thức xã hội, được di truyền giữa các thế hệ, giữa người này với người kia. ở góc độ này, văn hóa cũng như các triết lý nói chung mang ý nghĩa và giá trị xã hội rất to lớn (1)

Tuy nhiên, mỗi dân tộc đều có nền văn hóa của riêng mình. Trong văn hóa dân tộc có những định đề, nguyên tắc, cách hành xử được thể hiện theo cách riêng. Điều đó có nghĩa là dân tộc nào cũng có những triết lý điều chỉnh cuộc sống và hoạt động của mình. Dân tộc nào cũng có nền văn hóa của mình, có những tư tưởng triết học và đặc biệt, có rất nhiều những triết lý phong phú, đa dạng. Nhưng không phải dân tộc nào cũng có các hệ thống triết học bác học, hàn lâm riêng. Các hệ thống triết học bác học, hàn lâm được các nhà tư tưởng tổng kết từ sự phát triển của khoa học, thực tiễn và lịch sử xã hội, hay nói cách khác, là sự phát triển của văn hóa dân tộc, trong đó có cả các hệ thống triết học bác học đã được xây dựng trước đó.

Sự giống nhau giữa triết học và triết lý
Trên thực tế, không có sự tách rời giữa văn hóa dân tộc và toàn bộ các triết lý của dân tộc tồn tại trong nền văn hóa đó. Các hệ thống triết học bác học cũng vậy, nhưng điểm khác với hệ thống triết lý là chúng thuộc một tầng bậc cao hơn về mức độ khái quát; về lập luận lôgíc và về tính hệ thống.

Các triết lý đơn lẻ thường không dựa trên lập luận lôgíc, mức độ khái quát thấp; do đó, tính hệ thống của chúng không cao như trong các hệ thống triết học bác học. Là kết quả của sự tổng kết, khái quát thành tựu phát triển của khoa học, của đời sống xã hội, của kinh nghiệm lịch sử và cá nhân, nói cách khác, là sự khái quát, tổng kết các bước phát triển của văn hoá; do đó, tính khái quát của các hệ thống triết học bác học cao hơn các triết lý và văn hóa nói chung. Các triết lý thường phản ánh các kinh nghiệm, sự việc, hành động đơn lẻ, tản mạn, rời rạc, không thể hiện được những quy luật chung hoặc bản chất sâu xa của hiện tượng, quá trình: Bởi vậy, nó không thể mang tính hệ thống, tính lập luận. Nhưng nó lại là chất liệu quan trọng cho các hệ thống triết học bác học, là khâu trung gian không thể thiếu giữa các yếu tố, bộ phận, tầng bậc khác của văn hóa với các hệ thống triết học của dân tộc đó. Cả hai dạng đặc biệt này (triết học và triết lý) trong văn hóa dân tộc bổ sung lẫn nhau tạo thành thế giới quan, nhân sinh quan chung của dân tộc đó, có tác dụng định hướng cho con người trong giao tiếp và hoạt động thực tiễn.

Cùng với sự phát triển của văn hóa và đời sống dân tộc, các triết lý cũng như triết học biến đổi không ngừng. Có những triết lý sẽ mất tác dụng và bị quên lãng, có những triết lý mới nảy sinh phản ánh những hiện tượng, sự vật, quá trình mới, cũng như có hệ thống triết học sẽ đi dần vào quên lãng. Những hệ thống triết học mới đáp ứng tốt hơn những đòi hỏi của đời sống xã hội sẽ ra đời và phát triển. Những người của thời đại nguyên thuỷ hoặc thời đại nô lệ có những triết lý mà ngày nay con người hiện đại không có. Ngược lại, những người hiện đại đang có những triết lý mà người cổ đại không thể có. Chắc chắn là người nguyên thuỷ không nói “quý như vàng”, một triết lý mà người hiện đại vẫn thường dùng. Tình hình cũng tương tự như vậy trong các hệ thống triết học bác học. Những hệ thống triết học mới của thời đại sau bao giờ cũng kế thừa các triết lý, tư tưởng, lập luận, thành tựu của các hệ thống triết học trước đó, cải biến chúng cho phù hợp với hệ thống triết học mới, thu nhận các triết lý mới và những yếu tố mới khác của nền văn hoá.

Triết học mới ra đời lại bổ sung, khắc phục những thiếu sót nhất định của văn hóa dân tộc thúc đẩy nó phát triển lên một trình độ cao hơn. Triết học vừa thể hiện sự phản tư của văn hóa dân tộc, vừa là một mặt cơ bản, một khu vực trọng yếu của văn hóa dân tộc. Triết học chính là văn hóa dân tộc ở tầm lý luận cao nhất, là sự khái quát các thành tựu của văn hóa trong các lĩnh vực khác nhau từ khoa học đến thực tiễn, từ trí thức đến kinh nghiệm sống, từ quá khứ lịch sử đến hiện tại và tương lai. Chính vì vậy triết học có tác dụng định hướng thế giới quan cho sự phát triển trếp theo của văn hóa dân tộc, chỉ đạo hành vi, hoạt động và giao tiếp của con người trong sáng tạo văn hóa mới, trong tiếp nhận và hưởng thụ các thành tựu văn hóa nói chung.

Triết học muốn đạt đến đỉnh cao lý luận thì phải tổng kết và khái quát được sự phát triển của toàn bộ các lĩnh vực văn hóa. Điều đó đòi hỏi các nhà triết học phải có nhãn quan văn hóa rộng lớn, sự hiểu biết rộng và sâu sắc các lĩnh vực khác nhau của đời sống văn hóa dân tộc. Triết học càng đứng ở đỉnh cao lý luận, phạm vi và mức độ khái quát, tổng kết càng sâu sắc sẽ càng có tác động định hướng lớn cho nhiều lĩnh vực khác nhau của văn hóa. Sự tác động định hướng này có thể thông qua con đường trực tiếp bằng cách tiếp nhận các tri thức lý luận triết học, có thể bằng con đường gián tiếp, thông qua việc tiếp nhận các triết lý nằm trong chính hệ thống triết học hoặc được triết học cải biến, chỉnh sửa, chính xác hóa trong quá trình phát sinh và tồn tại. Mỗi con người sống, hoạt động và giao tiếp luôn được chỉ đạo bởi một số lý luận triết học và triết lý xác định.

Trong ý thức và cuộc sống của mỗi người, dù tự giác hoặc không tự giác thì họ vẫn bị các triết lý và triết học chi phối. Toàn bộ văn hóa, trong đó cốt lõi là các triết lý và triết học tạo thành khung mẫu, chuẩn mực, giá trị, thước đo, định hướng của các hành vi, hoạt động và giao tiếp của con người. Trong quan hệ với văn hóa, toàn bộ các triết lý và triết học lại tạo thành một hệ thống khung mẫu, chuẩn mực, giá trị, thước đo, định hướng, cơ sở, nền tảng cho sự sáng tạo, tiếp nhận và hưởng thụ văn hóa của con người. Mặt khác, đời sống văn hóa, trong quá trình phát triển lại góp phần làm bộc lộ những hạn chế, thiếu sót, sai lầm của các triết lý và hệ thống triết học; từ đó, hoàn thiện, sửa chữa hoặc loại bỏ chúng ra khỏi ý thức và cuộc sống của con người.

Tuy nhiên, trong quá trình tồn tại và phát triển, các triết lý và hệ thống triết học khi tạo thành khung mẫu, chuẩn mực, giá trị, thước đo, định hướng cho văn hóa thì chúng lại có thể trói buộc, kìm hãm sự phát triển của văn hóa, đặc biệt là kìm hãm tư duy và năng lực sáng tạo văn hóa của con người. Các triết lý, hệ thống triết học đã lạc hậu, lỗi thời, hoặc có sai lầm thường bắt đầu có tác dụng ngược bằng việc thể hiện những mâu thuẫn của chúng với các triết lý, hệ thống triết học và với văn hóa nói chung, thậm chí giữa chúng với văn hóa sẽ bắt đầu một thời kỳ xung đột. Trong quá trình xung đột văn hóa dần dần thể hiện nhu cầu đổi mới, thay thế các triết lý và triết học cũ bằng các triết lý và triết học mới. Đồng thời văn hóa sẽ tạo ra, bồi đắp và tích tụ dần các chất liệu cho sự ra đời các triết lý mới hoặc hệ thống triết học mới.

Sự xung đột giữa triết học và văn hóa dần tạo nên những tiền đề văn hóa cho việc giải quyết cuộc xung đột ấy và sau đó là các phương tiện giúp cho việc giải quyết xung đột .Văn hóa sẽ tiến triển từng bước, giải quyết dần các vấn đề đơn lẻ, nhỏ bé và tiến tới những vấn đề lớn hơn, tạo ra những chất liệu văn hóa mới, đáp ứng những đòi hỏi mới của sự phát triển, bổ sung vào kho tàng văn hóa dân tộc những kiến thức mới, những triết lý mới, những giá trị văn hóa mới. Trên cơ sở tích tụ đó, văn hóa đẩy triết học làm nên những đột phá mới, tạo ra các hệ thống triết học mới hơn, phù hợp hơn với sự phát triển. Văn hóa tham gia sàng lọc, gạt bỏ, bảo tồn, phát huy và chuyển tải các giá trị của triết học cũ vào triết học mới.

Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, đồng thời cũng là nền tảng tinh thần của triết học. Văn hóa, theo nghĩa rộng, là nền tảng của sự sinh tồn của loài người, đồng thời cũng là nền tảng quyết định sự ra đời, tồn tại, phát triển và diệt vong của các hệ thống triết học. Văn hóa dù theo nghĩa rộng hay nghĩa hẹp đều là động lực của sự phát triển xã hội, trong đó có sự phát triển của triết học. Các dân tộc có thể vay mượn các hệ thống triết học nhưng không thể vay mượn các triết lý và càng không thể vay mượn nền văn hóa nói chung. Việc du nhập, vay mượn, cải biên, tiếp nhận các hệ thống triết học từ bên ngoài cũng bị quy định bởi văn hóa dân tộc nói chung và tổng thể các triết lý nói riêng.

Không hoàn toàn đồng nhất, nhưng cũng có thể hình dung rằng triết học là ánh hào quang rực rỡ của quả cầu lửa văn hóa. Quả cầu ấy càng lớn, càng sáng thì ánh hào quang càng rực rỡ, càng tỏa xa. Văn hóa, các triết lý và các hệ thống triết học là ba tầng bậc khác nhau của văn hóa, đó chính là "ba trong một" - một nền văn hóa theo nghĩa rộng.


(l) Xem: Lương Việt Hải. Lý luận và thực tiễn hiện đại hóa xã hội ở các nước Đông và Đông Nam Á, Mátxcơva, 998; L.I.Ionin. Xã hội học văn hóa, Mátxcơva. 996; V.X.Stepin. Thời đại của những biến đổi và kịch bản của tương lai. Mátxcơva,. 996; Văn hóa// Bách khoa triết học mới, Mátxcơva, 200; A. ra.Phlier. Di truyền văn hóa, Mátxcơva, 995, G.F.Mclean. Tự do, truyền thông văn hóa và trên bộ, CRVP, 2000; Lương Đình Hải. Toàn cầu hóa và văn hóa dân tộc, Istanbul, 2003;...

Nguồn:Tạp chí Triết học

LinkedInPinterestCập nhật lúc:12:55 CH @ 11/12/2008