Mục lục
Nguyên nhânSửa đổiTrong các nguyên nhân gây ra nạn sa mạc hóa, phần lớn là do tác động của con người từ khoảng 10.000 năm nay (Thế Holocen). Việc lạm dụng đất đai trong các ngành chăn nuôi gia súc (nhất là mục súc), canh tác ruộng đất, phá rừng, đốt đồng, trữ nước, khai giếng, tăng độ mặn của đất và biến đổi khí hậu toàn cầu đã góp sức làm sa mạc hóa nhiều vùng trên trái đất. Show Đất sa mạc thường có biên giới rõ rệt với miền kế cận nhưng cũng có khi vùng sa mạc tiếp giáp một vùng chuyển tiếp rồi mới đến vùng đất ẩm nên miền ven sa mạc khó ấn định hơn. Vùng chuyển tiếp ở ven sa mạc này thường có hệ sinh thái mong manh. Đây cũng là nơi có nhiều tiểu khí hậu. Thí dụ như: cồn cát cao có thể che khuất gió cho một thửa đất trũng, và từ đó tạo điều kiện cho cây cỏ mọc xen vào. Đến khi có mưa thì vùng có thảo mộc sẽ có nhiệt độ mát hơn. Hệ sinh thái ở vùng ven rất dễ bị dao động bởi sinh hoạt con người như trong trường hợp chăn nuôi. Móng guốc của loài mục súc thường nện chặt các tầng đất, làm giảm lượng nước thấm xuống các mạch nước ngầm. Những lớp đất trên thì chóng khô, dễ bị gió mưa xói mòn. Con người còn gây nên nạn đốn cây lấy củi cùng động tác của các loài gia súc gặm cỏ làm hư lớp rễ thảo mộc vốn quyện lớp đất xuống. Đất vì đó dễ tơi lên, chóng bị khô và biến thành bụi. Hiện tượng này diễn ra ở những vùng ven sa mạc khi con người chuyển từ lối sống du mục sang lối sống ngụ canh. Các cồn cát sa mạc cũng có thể di chuyển góp phần vào hiện tượng sa mạc hóa. Gió là động lực chính đẩy các cồn cát. Những hạt cát có thể lăn trên mặt đất hoặc tung lên trên không rồi rơi xuống. Chính động tác tung lên sẽ làm dao động thêm, khuếch đại lượng cát bị xô đẩy. Kết quả là lũ cát khi cả một cồn cát trườn vào. Khi có gió mạnh làm bão cát thì lũ cát có thể làm cồn cát tiến lên hàng chục mét tương tự như hiện tượng tuyết truồi (avalanche). Lũ cát còn có thể xảy ra khi cát dồn lên đến đỉnh cồn sẽ trượt xuồng triền dốc bên kia, làm cồn cát tiến lên. Hạn hán có khi bị ngộ nhận là nguyên do của tiến trình sa mạc hóa. Hạn hán phải nói là góp phần trong tiến trình đó nhưng nguyên do chính là do áp lực sinh hoạt con người trên môi trường thiên nhiên. Theo địa chất học thì trước thời kỳ văn minh nhân loại, không có bằng chứng khoa học nào để nói rằng diện tích sa mạc đang lan rộng thêm. Chỉ sau khi con người thay đổi môi trường sống ta mới thấy hiện tượng sa mạc hóa. Hạn hán là biến chuyển thường xuyên xảy ra ở những vùng khô cằn nhưng khi đã có mưa thì môi sinh bình phục nhanh chóng. Chính là nạn lạm dụng đất đai làm suy thoái chất đất như trong trường hợp chăn nuôi mục súc quá tải và nạn nhân mãn đã tăng cường tốc độ sa mạc hóa ở vùng ven sa mạc. Dân du mục khi muốn thoát vùng sa mạc khô cằn thường đưa đàn mục súc đến vùng ven để sinh sống nhưng chính động tác đó đã làm sa mạc thêm rộng lớn và họ đã vô tình mang cái khô cằn của sa mạc theo với họ. Vùng khô cằn cũng có thể canh tác được nhưng khi áp lực của con người làm hư hại lượng thảo mộc thiên nhiên thì đất khô dễ bị gió biến thành bụi. Thiếu bóng rợp, nước trong lòng đất mau bốc hơi, lưu lại chất muối làm tăng độ mặn của đất. Quá trình này làm đất thêm cằn cỗi, cây cỏ không mọc được và tốc độ suy thoái càng nhanh khi khí hậu trong vùng bị biến đổi với lượng mưa càng ít đi. Các nguyên nhân hình thành hoang mạc?Các nguyên nhân hình thành hoang mạc: Do ảnh hưởng của dòng biển lạnh Các dòng biển lạnh ngoài khơi sẽ ngăn hơi nước từ ngoài biển vào, khiến cho khí hậu khô và khó mưa. Do nằm dọc theo hai đường chí tuyến Bắc – Nam Ở hai khu vực đường chí tuyến Bắc – Nam, nhiệt độ trung bình năm cao, khí hậu thường xuyên khô hạn. Do nằm sâu trong các lục địa (lục địa Á – Âu) Càng vào sâu trong lục địa, lượng mưa càng giảm dần. Hoang mạc cũng vì thế xuất hiện nhiều hơn so với các vùng ven biển. Do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu (hiện tượng sa mạc hóa) Biến đổi khí hậu làm cho nhiệt độ Trái Đất tăng cao, khí hậu cũng trở nên thất thường. Ở những khu vực ít mưa, hiện tượng sa mạc hóa diễn ra ngày một nhiều hơn. Do tác động của con người Các hoạt động của con người gây ảnh hưởng không nhỏ tới môi trường sa mạc. Phá rừng, khai thác rừng bừa bãi là một trong những nguyên nhân gián tiếp hình thành nên hoang mạc. Chống sa mạc hóa tại Châu Phi
04/10/2019 - 10:59 AM
Cỡ chữ
Là châu lục nằm trên đường xích đạo cắt ngang, phần lớn diện tích là các sa mạc, đất đai khô cằn, châu Phi đang phải hứng chịu những hậu quả nặng nề do sa mạc hóa gây ra. Nhận thức được vấn đề sa mạc hóa không chỉ là thách thức lớn về môi trường mà còn là một trong những trở ngại chính trong việc đảm bảo các nhu cầu tối thiểu của con người, các quốc gia trên lãnh thổ châu Phi đang cùng bắt tay hành động để ngăn chặn sa mạc hóa. Tình trạng sa mạc hóa ở Châu Phi
Sa mạc hóa là hiện tượng suy thoái đất đai ở những vùng khô hạn, bán khô hạn; gây ra bởi sinh hoạt con người và biến đổi khí hậu. Công ước Chống sa mạc hóa của Liên hợp quốc (UNCCD) năm 1992 đã cảnh báo nguy cơ thoái hóa đất gây ra sa mạc hóa sẽ khiến nền kinh tế thế giới thiệt hại 23.000 tỷ USD vào năm 2050 nếu như tình trạng lạm dụng đất vẫn tiếp diễn như hiện nay. Thiệt hại này sẽ giảm mạnh nếu cộng đồng thế giới ngay lập tức có biện pháp khẩn cấp để chặn đứng khuynh hướng suy thoái của đất trồng. Đồng thời, các chuyên gia cũng cảnh báo, khoảng 1,5 tỷ người, chủ yếu ở những nước nghèo nhất sẽ là nạn nhân của hiện tượng đất nông nghiệp bị thoái hóa và điều này sẽ làm nghiêm trọng hơn nữa tình trạng nghèo đói, đặc biệt là ở Sahel (khu vực ranh giới nằm giữa sa mạc Sarara ở phía Bắc và khu vực màu mỡ ở phía Nam của châu Phi) và Nam Á - những nơi sa mạc hóa đang có những tác động nặng nề nhất.
T.H (Tổng hợp)
Về trang trước
Gửi email
In trang
Biến đổi khí hậu và tác động của biến đổi khí hậu(ĐCSVN) - Biến đổi khí hậu mà biểu hiện chính là sự nóng lên toàn cầu và mực nước biển dâng đã tạo nên các hiện tượng thời tiết cực đoan hiện nay. Đây là một trong những thách thức lớn nhất đối với nhân loại trong thế kỷ XXI vì biến đổi khí hậu đang ảnh hưởng trực tiếp đến hệ sinh thái, tài nguyên môi trường và cuộc sống của con người
Thế nào là biến đổi khí hậu Biến đổi khí hậu là thuật ngữ được dùng để chỉ sự thay đổi của khí hậu do tác động chủ yếu của con người làm thay đổi các thành phần của khí quyển trái đất. Sự thay đổi này kết hợp với các yếu tố biến động tự nhiên của tự nhiên dẫn tới các biến đổi của khí hậu qua các thời kỳ. Nói một cách dễ hiểu, biến đổi khí hậu chính là sự thay đổi của hệ thống khí hậu từ sinh quyển, khí quyển, thủy quyền tới thạch quyển trong hiện tại và tương lai. Nguyên nhân của biến đổi khí hậu Tình trạng biến đổi khí hậu toàn cầu xuất phát từ 2 nhóm là nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan. Theo nghiên cứu của các nhà khoa học, những tác động của con người vào môi trường tự nhiên chính là nguyên do gây nên biến đổi khí hậu. Theo đó, việc gia tăng khí CO2 do hoạt động sản xuất công nghiệp, phá rừng, sử dụng nguồn nước cũng như các loại khí độc hại khác là nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên. Bên cạnh đó, các yếu tố khách quan trong đó có sự thay đổi trong chính nội tại của tự nhiên bao gồm sự thay đổi trong hoạt động mặt trời, của quỹ đạo trái đất, sự dịch chuyển của các châu lục… cũng tác động không nhỏ gây nên tình trạng này. Một số tác động của biến đổi khí hậu Mực nước biển đang dâng lên Nhiệt độ ngày càng cao trên trái đất khiến mực nước biển đang dần dâng lên. Nhiệt độ tăng làm các sông băng, biển băng hay lục địa băng trên trái đất tan chảy và làm tăng lượng nước đổ vào các biển và đại dương. Các núi băng và sông băng đang co lại. Những lãnh nguyên bao la từng được bao phủ bởi một lớp băng vĩnh cữu rất dày giờ đây được cây cối bao phủ. Lấy một ví dụ, các núi băng ở dãy Hy Mã Lạp Sơn cung cấp nước ngọt cho sông Hằng – nguồn nước uống và canh tác của khoảng 500 triệu người – đang co lại khoảng 37m mỗi năm. Các bờ biển đang biến mất. Bãi biển ở Miami nằm trong số rất nhiều những khu vực khác trên thế giới đang bị đe dọa bởinước biển dângngày càng cao. Các nhà khoa học đã tiến hành quan sát, đo đạc và nhận thấy rằng băng ở đảo băng Greenland đã mất đi một số lượng lớn, gây ảnh hưởng trực tiếp đến các đảo quốc hay các quốc gia nằm ven biển. Theo ước tính, nếu băng tiếp tục tan thì nước biển sẽ dâng thêm ít nhất 6m nữa vào năm 2100. Với mức này, phần lớn các đảo của Indonesia, và nhiều thành phố ven biển khác sẽ hoàn toàn biến mất. Các hệ sinh thái bị phá hủy Những thay đổi trong điều kiện khí hậu và lượng khí carbon dioxide tăng nhanh chóng đã ảnh hưởng nghiêm trọng tới hệ sinh thái, nguồn cung cấp nước ngọt, không khí, nhiên liệu, năng lượng sạch, thực phẩm và sức khỏe. Dưới tác động của nhiệt độ, không khí và băng tan, số lượng các rạn san hô ngày càng có xu hướng giảm. Điều đó cho thấy, cả hệ sinh thái trên cạn và dưới nước đều đang phải hứng chịu những tác động từ lũ lụt, hạn hán, cháy rừng, cũng như hiện tượng axit hóa đại dương. Mất đa dạng sinh học Nhiệt độ trái đất hiện nay đang làm cho các loài sinh vật biến mất hoặc có nguy cơ tuyệt chủng. Khoảng 50% các loài động thực vật sẽ đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng vào năm 2050 nếu nhiệt độ trái đất tăng thêm từ 1,1 đến 6,4 độ C nữa. Sự mất mát này là do mất môi trường sống vì đất bị hoang hóa, do nạn phá rừng và do nước biển ấm lên. Các nhà sinh vật học nhận thấy đã có một số loài động vật di cư đến vùng cực để tìm môi trường sống có nhiệt độ phù hợp. Ví dụ như là loài cáo đỏ, trước đây chúng thường sống ở Bắc Mỹ thì nay đã chuyển lên vùng Bắc cực. Con người cũng không nằm ngoài tầm ảnh hưởng. Tình trạng đất hoang hóa và mực nước biển đang dâng lên cũng đe dọa đến nơi cư trú của chúng ta. Và khi cây cỏ và động vật bị mất đi cũng đồng nghĩa với việc nguồn lương thực, nhiên liệu và thu nhập của chúng ta cũng mất đi. Chiến tranh và xung đột Lương thực và nước ngọt ngày càng khan hiếm, đất đai dần biến mất nhưng dân số cứ tiếp tục tăng; đây là những yếu tố gây xung đột và chiến tranh giữa các nước và vùng lãnh thổ. Do nhiệt độ trái đấtnóng lên và biến đổi khí hậu theo chiều hướng xấu đã dần làm cạn kiệt các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Một cuộc xung đột điển hình do biến đổi khí hậu là ở Darfur. Xung đột ở đây nổ ra trong thời gian một đợt hạn hán kéo dài, suốt 20 năm vùng này chỉ có một lượng mưa nhỏ giọt và thậm chí nhiều năm không có mưa, làm nhiệt độ vì thế càng tăng cao. Theo phân tích của các chuyên gia, các quốc gia thường xuyên bị khan hiếm nước và mùa màng thất bát thường rất bất ổn về an ninh. Xung đột ở Darfur (Sudan) xảy ra một phần là do các căng thẳng của biến đổi khí hậu. Dịch bệnh Nhiệt độ ngày càng tăng kết hợp với lũ lụt và hạn hán đang trở thành mối đe dọa với sức khỏe dân số toàn cầu. Bởi đây là môi trường sống lý tưởng cho các loài muỗi, những loài ký sinh, chuột và nhiều sinh vật mang bệnh khác phát triển mạnh. Tổ chức WHO đưa ra báo cáo rằng các dịch bệnh nguy hiểm đang lan tràn ở nhiều nơi trên thế giới hơn bao giờ hết. Những vùng trước kia có khí hậu lạnh giờ đây cũng xuất hiện các loại bệnh nhiệt đới. Hàng năm có khoảng 150 ngàn người chết do các bệnh có liên quan đến biến đổi khí hậu, từ bệnh tim do nhiệt độ tăng quá cao, đến các vấn đề hô hấp và tiêu chảy.
Hạn hán Trong khi một số nơi trên thế giới chìm ngập trong lũ lụt triền miên thì một số nơi khác lại hứng chịu những đợt hạn hán khốc liệt kéo dài. Hạn hán làm cạn kiệt nguồn nước sinh hoạt và tưới tiêu, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền nông nghiệp của nhiều nước. Hậu quả là sản lượng và nguồn cung cấp lương thực bị đe dọa, một lượng lớn dân số trêntrái đấtđang và sẽ chịu cảnh đói khát. Hiện tại, các vùng như Ấn Độ, Pakistan, và Châu Phi đang hứng chịu những đợt hạn hán, lượng mưa ở các khu vực này ngày càng thấp, và tình trạng này còn tiếp tục kéo dài trong vài thập kỷ tới. Theo ước tính, đến năm 2020, sẽ có khoảng 75 triệu đến 250 triệu người dân châu Phi thiếu nguồn nước sinh hoạt và canh tác, dẫn đến sản lượng nông nghiệp của lục địa này sẽ giảm khoảng 50%. Các đợt nắng nóng khủng khiếp đang diễn ra thường xuyên hơn gấp khoảng 4 lần so với trước đây, và dự đoán trong vòng 40 năm tới, mức độ thường xuyên của chúng sẽ gấp 100 lần so với hiện nay. Hậu quả của các đợt nóng này là nguy cơ cháy rừng, các bệnh tật do nhiệt độ cao gây ra, và tất nhiên là đóng góp vào việc làm tăng nhiệt độ trung bình của trái đất. Bão lụt Số liệu thống kê cho thấy, chỉ trong vòng 30 năm gần đây, những cơn bão mạnh cấp 4 và cấp 5 đã tăng lên gấp đôi. Những vùng nước ấm đã làm tăng sức mạnh cho các cơn bão. Chính mức nhiệt cao trên đại dương và trong khí quyển, đẩy tốc độ cơn bão đạt mức kinh hoàng. Nhiệt độ nước ở các biển và đại dương ấm lên là nhân tố tiếp thêm sức mạnh cho các cơn bão. Nhữngcơn bão khốc liệt đang ngày một nhiều hơn. Trong vòng chỉ 30 năm qua, số lượng những cơn giông bão cấp độ mạnh đã tăng gần gấp đôi. Thiệt hạiđến kinh tế Các thiệt hại về kinh tế dobiến đổi khí hậu gâyra cũng ngày càng tăng theo nhiệt độ trái đất. Các cơn bão lớn làm mùa màng thất bát, tiêu phí nhiều tỉ đô la; ngoài ra, để khống chế dịch bệnh phát tán sau mỗi cơn bão lũ cũng cần một số tiền khổng lồ. Khí hậu càng khắc nghiệt càng làm thâm hụt các nền kinh tế. Các tổn thất về kinh tế ảnh hưởng đến mọi mặt của đời sống. Người dân phải chịu cảnh giá cả thực phẩm và nhiên liệu leo thang; các chính phủ phải đối mặt với việc lợi nhuận từ các ngành du lịch và công nghiệp giảm sút đáng kể, nhu cầu thực phẩm và nước sạch của người dân sau mỗi đợt bão lũ rất cấp thiết, chi phí khổng lồ để dọn dẹp đống đổ nát sau bão lũ, và các căng thẳng về đường biên giới./. VH (Tổng hợp)
HỎI ĐÁP VỀ DỊA LÍ TỰ NHIÊN VIỆT NAMNgày đăng:10/12/2017 - 22:22 HỎI ĐÁP VỀ ĐỊA LÍ TỰ NHIÊN VIỆT NAM Câu 1: Vị trí địa lí nước ta “nằm hoàn toàn trong vòng đai nhiệt đới của nửa cầu Bắc, thiên về phía chí tuyến hơn là phía xích đạo”, lại ở bờ đông bán đảo Đông Dương. Điều đó có ý ngiã như thế nào đối với sự hình thành các đặc điểm địa lí tự nhiên độc đóa của nước ta? ĐÁP: Phần đất liền nước ta có toạ độ địa lí từ 8030’B đến 23022’B và từ 1020Đ đến 1090Đ. Do vị trí như vậy nên nước ta có những đặc điểm sau: - Nước ta nằm hoàn toàn trong vòng đai nhiệt đới của nửa cầu Bắc, ở phía Đông Nam của châu Á, trong vùng gió mùa nhiệt đới điển hình, nên có khí hậu nóng, ẩm. Một năm có hai mùa rõ rệt: mùa mưa và mùa khô. - Nước ta không bị hoang mạc và bán hoang mạc như một số nước có cùng vĩ độ ở Tây Nam Á và châu Phi. - Nhờ nhiệt độ cao, độ ẩm lớn, lượng mưa dồi dào nên thực vật phát triển xanh tốt quanh năm. Đặc biệt vị trí đó lại là nơi hội tụ của các hệ thực vật Ấn – Miến từ tây sang và Mã Lai – Inđônexia từ phía nam tới. - Bờ biển nước ta dài, có nhiều vũng, vịnh. Ngoài biển lại có nhiều đảo và quần đảo. Thềm lục địa chứa nhiều tài nguyên (khoáng sản, hải sản) có giá trị. Ảnh hưởng của biển vào sâu trong đất liền. Tuy nhiên, hàng năm cũng có nhiều cơn bão gây tác hại cho sản xuất và sinh hoạt. Câu 2: “Diện tích phần đất liền nước ta thuộc loại trung bình so với nhiều nước khác trên thế giới, nhưng lãnh thổ toàn vẹn của nước ta thì rất rộng lớn”. Nói như vậy có gì mâu thuẩn không? Tại sao? ĐÁP: Nói như vậy không mâu thuẫn, bởi vì lãnh thổ toàn vẹn của nước ta bao goầm cả phần đất liền, các đảo, quần đảo và vùng biển thuộc chủ quyền nước ta. Diện tích phần đất liền nước ta khoảng 330.363 km2. Nếu so với nhiều nước khác trên thế giới thì không lớn quá, nhưng cũng không nhỏ quá. Ngoài phần đất liền, nước ta còn có một vùng biển rộng gấp nhiều lần so với phần đất liền, với hang nghìn hòn đảo lớn nhỏ, nằm rải rác hoặc hợp thành những quần đảo trong Biển đông, như Hoàng Sa, Trường Sa v.v…Như vậy cả phần đất liền lẫn vùng biển và các đảo, quần đảo của nước ta hợp lại thì lãnh thổ toàn vẹn của nước CHXHCN Việt Nam không nhỏ. Câu 3: Nước ta có bao nhiêu tỉnh và thành phố. Miền Bắc, miền Trung và miền Nam có những tỉnh và thành phố nào? ĐÁP: Theo tài liệu chính thức năm 2009, nước ta có 58 tỉnh và 5 thành phố trực thuộc Trung ương. - Miền Bắc có 23 tỉnh gồm: Hà Giang, Tuyên Quang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái, Sơn La, Điện Biên, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Bắc Giang, Hoà Bình, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Phú Thọ, Hà Nam, Quảng Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình và 2 thành phố trực thuộc trung ương là Hà Nội và Hải Phòng. Ngoài ra, có 19 thành phố thuộc tỉnh là: Việt trì (thuộc Phú Thọ) và Hạ Long (thuộc Quảng Ninh)… - Miền Trung có 18 tỉnh gồm: Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà, Ninh Thuận, Bình Thuận, Gia Lai, Kon Tum, Đắk Lắk, Đắk Nông và Lâm Đồng. Có 1 thành phố trực thuộc trung ương là Đà Nẵng, có 18 thành phố thuộc tỉnh là: Thanh Hoá (thuộc Thanh Hoá), Vinh (thuộc Nghệ An), Huế (thuộc Thừa Thiên - Huế), Quy Nhơn (thuộc Bình Định), Nha Trang (thuộc Khánh Hoà) và Đà Lạt (thuộc Lâm Đồng)… - Miền Nam có 15 tỉnh gồm: Bình Dương, Bình Phước, Tây Ninh, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu, Long An, Đồng Tháp, An Giang, Tiền Giang, Hậu Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh, Sóc Trăng, Kiên Giang, Bạc Liêu và Cà Mau. Có 2 thành phố trực thuộc Trung ương là: Thành phố Hồ Chí Minh và Cần Thơ. Ngoài ra, còn có 11 thành phố thuộc tỉnh là: Vũng Tàu (thuộc Bà Rịa – Vũng Tàu), Biên Hoà (thuộc Đồng Nai), Mĩ Tho (thuộc Tiền Giang)… Câu 4: Các đảo và quần đảo Côn Đảo, Phú Quốc, Hoàng Sa, Trường Sa thuộc các tỉnh nào? ĐÁP: Côn đảo là một huyện thuộc tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Phú Quốc là một huyện thuộc tỉnh Kiên Giang. Hoàng Sa là một huyện thuộc tỉnh Quảng Nam- Đà Nẵng, còn Trường Sa là một huyện thuộc tỉnh Khánh Hoà. Câu 5: Ở nước ta, tỉnh nào có diện tích lớn nhất, nhỏ nhất? ĐÁP: Theo số liệu, cho đến năm 2009: 1. Tỉnh có diện tích lớn nhất là Nghệ An (16490.7 km2). Tỉnh có diện tích nhỏ nhất là Bắc Ninh (822.7 km2). 2. Những tỉnh và thành phố có số dân đông nhất là: Thành phố Hồ Chí Minh (7396.5 nghìn người), Hà Nội (6561.9 nghìn người), Thanh Hoá (3406.8 nghìn người), Nghệ An (2917.4 nghìn người), Đồng Nai (2596.4 nghìn người), An Giang (2149.5 nghìn người). Những tỉnh và thành phố có mật độ dân số lớn nhất là: Thành phố Hồ Chí Minh (3530 người/km2), Thành phố Hà Nội (1962 người/km2), Hưng Yên (1226 người/km2), Hải Phòng (1221 người/km2). Câu 6: Tại sao nói Biển Đông nước ta là một biển lớn và nửa kín? ĐÁP: Biển Đông bao bọc nước ta ở phần phía đông và phía nam, chủ yếu là phía đông nên có tên gọi là Biển Đông (Việt Nam). Đây là một biển lớn, đứng hàng thứ 2 về diện tích trong số các biển ven Thái Bình Dương. Biển rộng trung bình trên 1000 km, dài khoảng trên 3000 km, diện tích khoảng 3.447.000 km2. Đặc điểm nổi bật của Biển Đông là tính chất biển nửa kín của nó, được bao bọc 4 phía bởi lục địa châu Á, các quần đảo Philipin, Malaixia và Inđônêxia, chỉ thông ra Thái Bình Dương và các biển lân cận bằng những eo biển hẹp. Ý nghĩa của tính chất biển nửa kín ở chỗ nó làm ảnh hưởng đến đặc điểm của các dòng biển, của thuỷ triều và cả của giới sinh vật (các đàn cá,…) Câu 7: Những đặc điểm cơ bản nào chứng tỏ nước ta có khí hậu nhiệt đới gió mùa ẩm? ĐÁP: Nằm gọn trong vùng nội chí tuyến nửa cầu Bắc từ 8030’B đến 23022’B, đồng thời lại nằm gọn trong vùng hoạt động của gió mùa Đông Nam Á, nước ta có khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa, với đặc điểm nổi bật là nóng ẩm và mưa nhiều theo mùa. - Nhiệt độ trung bình cả năm trong toàn quốc trên 230C, mỗi năm có ít nhất 1200 giờ nắng, cán cân bức xạ quanh năm dương. Tổng lượng nhiệt hoạt động xê dịch từ 8000 đến 10.0000C. - Lượng mưa trung bình hang năm bằng 1700 – 1800mm, có nơi vượt quá 3000mm (tuy nhiên cũng có nơi chỉ có trên 500mm). Lượng bốc hơi: 700 – 800mm. Nước ta nói chung thừa ẩm. - Trong một năm có 2 mùa rõ rệt: mùa khô bắt đầu từ tháng 10 đến tháng 4 trùng hợp với mùa gió Đông Bắc thịnh hành và mùa mưa kéo dài từ tháng 5 đến tháng 11 trùng hợp với mùa có gió mùa từ các biển ấm thổi vào theo hướng đông nam và tây nam. Câu 8: Trong lịch sử phát triển lãnh thổ Việt Nam có nói đến các mảnh nền cổ. Vậy nền cổ là gì? Và ở nước ta có những mảng nền cổ nào? ĐÁP: Nền là một yếu tố cấu trúc cơ bản của vỏ Trái Đất. Nền cổ là một bộ phận của lục địa trước kia được hình thành cách đây hang triệu năm. Các loại đá cấu tạo nên nền cổ đã bị biến chất rất mạnh, trở nên rắn chắc và không bị tác động uốn nếp lại vào những thời kì tạo núi sau này. Các hoạt động địa chất mạnh cũng chỉ có thể làm cho các nền cổ bị nứt vỡ thành từng mảng, có bộ phận được nâng cao, có bộ phận bị sụt xuống. Các bộ phận được nâng cao thường trở thành các cao nguyên rộng lớn, còn các bộ phận sụt lún thường bị các lớp trầm tích dày phủ lên, có khi dày tới 5000 – 8000m. Các lớp trầm tích này có thể bị uốn nếp trong các chu kì tạo núi trẻ hơn hoặc bị các khối mắc ma xâm nhập hoặc phún xuất tạo tạo núi lửa. Trên lãnh thổ Namcó các mảng nền cổ (còn gọi là các địa khối) tương đối lớn là: mảng nền cổ Vòm Sông Chảy ở phía Bắc và mảng nền cổ Kontum ở phíaNamNgoài ra, còn có những mảng nền cổ nhỏ hơn lộ ra như các khối Phanxipăng, Sông Mã, Puhuat, Rào Cỏ. Mảng nền cổ Kontum là bộ phận phía đông của nền cổ Inđôxini bao gồm cả vùng Hạ Lào, miền Đông Thái Lan và lãnh thổ Campuchia. Câu 9: Trong lịch sử phát triển lãnh thổ, các núi non ở nước ta đã được hình thành trong những thời kì nào? ĐÁP: Trong lịch sử phát triển của lớp vỏ Trái Đất nói chung, và của cả châu Á, các nhà địa chất học đã xác định được các thời kì xảy ra các vận động tạo núi lớn sau đây: - Thời kì trước Đại Cổ Sinh cách đây hàng nghìn triệu năm đã có một vài lần xảy ra các vận động tạo núi. - Trong Đại Cổ Sinh, cách đây từ 285 triệu năm đến 570 triệu năm đã có 2 thời kì vận động tạo núi lớn: a) Vận động tạo núi Calêđôni cách đây trên 400 triệu năm. b) Vận động tạo núi Hecxini cách đây khoảng 300 triệu năm. - Trong Đại Trung Sinh cũng có 2 thời kì vận động tạo núi lớn: a) Vận động tạo núi Inđôxini cách đây khoảng trên 200 triệu năm. b) Vận động tạo núi Kimêri cách đây khoảng trên 150 triệu năm. - Trong Đại Tân Sinh, vào kỉ Đệ Tam, cách đây từ 25 đến 67 triệu năm, có thời kì vận động tạo núi hết sức mãnh liệt. Đó là vận động tạo núi Himalaya – Anpi. Các thời kì tạo núi lớn đó đều có ít nhiều ảnh hưởng đến sự hình thành địa hình trên lãnh thổ nước ta. Trước hết, cách đây hang nghìn triệu năm, chắc chắn là trên lãnh thổ nước ta đã có nhiều núi xuất hiện. Những núi đó dần dần đã bị phá huỷ, trở thành các nền cổ mà một vài bộ phận còn sót lại cho đến ngày nay. Trong vận động tạo núi Calêđôni ở đầu Đại Cổ Sinh, ở miền Bắc các khối nền cổ Vòm Sông Chảy, Phanxipăng và Sông Mã đã được nâng cao và mở rộng them. Ở phía Nam nền cổ Inđôxini cũng bị nứt vỡ mạnh và nhiều bộ phận đã bị sụt lún xuống sâu. Vận động tạo núi Hecxini xảy ra tương đối yếu ở miền Bắc, chắc chăn đã hình thành nên nhiều dãy núi uốn nếp đá vôi, nhưng các dãy núi này về sau lại bị các vận động tạo núi trong Đại Trung Sinh phát triển tiếp hoặc cải tạo lại. Ở miền Nam vận động tạo núi Hecxini lại khá mạnh, phần lớn các núi non ở phía bắc Đà Nẵng và ở Nam Trung Bộ đều xuất hiện trong thời kì này. Ngoài ra, suốt từ Trường Sơn Bắc trở xuống phía nam đều có hiện tượng xâm nhập hoặc phún xuất măcma. Trong các vận động tạo núi Trung Sinh, ở miền Bắc hình thành các dãy núi đá vôi dọc song Đà, chạy dài suốt từ Sơn La đến Ninh Bình và các dãy núi cánh cung ở Đông Bắc đều chụm về Tam Đảo. Nhiều hiện tượng xâm nhập và phún xuất măcma cũng đã xảy ra. Trong Đại Trung Sinh, hầu hết lãnh thổ Việt Namđã có chế độ lục địa. Cũng từ đây, tác động bào mòn địa hình của các ngoại lực đã kéo dài khoảng 50 triệu năm, làm cho bề mặt lãnh thổ nước ta bị san bằng và núi non thấp đi rõ rệt. Trong Đại Tân Sinh, do ảnh hưởng của vận động tạo núi Himalaya xảy ra với nhiều đợt cách nhau, nên địa hình nước ta được trẻ hoá lại. Ở phía bắc, lãnh thổ nước ta đã được cấu tạo vững chắc rtừ cuối Đại Trung Sinh và gắn liền vào khối Hoa Nam, nên ảnh hưởng của vận động tạo núi Himalaya chỉ gây nên các nếp uốn ngầm, nâng cao ở nơi này, làm sụt lún, đứt gãy ở những nơi khác. Do vận động diễn ra thành nhiều đợt có thời gian, cách nhau khá xa, nên địa hình cũng được nâng lên thành nhiều bậc có độ cao khác nhau. Một ảnh hưởng quan trong nữa của vận động Himalaya là hoạt động mạnh mẽ của macma đã tạo nên những khu vực ba dan rải rác (như ở Điện Biên, Thanh Hoá, Phủ Quỳ, Vĩnh Linh…). Đặc biệt, hiện tượng phún xuất xảy ra rất mạnh ở phía nam, đá ba dan trào ra đã phủ những diện tích rộng trnê các cao nguyên nam Trung Bộ và miền Đông Nam Bộ. Câu 9: Địa máng là gì? Hoạt động của địa máng như thế nào? ĐÁP: Cũng giống như nền, địa máng là một yếu tố cấu trúc của vỏ Trái Đất. Đó là những bộ phận trũng của vỏ Trái Đất bị nước biển phủ ngập. Trải qua một thời gian rất dài, trong địa máng có trầm tích lắng đọng (chiều dày có thể tới 10 – 15 km). Tiếp sau thời kì lắng đọng trầm tích là thời kì hoạt động của địa máng. Các lớp trầm tích được uốn nếp và nâng lên trong các vận động tạo núi. Ở vị trí địa máng bị nước biển phủ ngập trước kia, nay có các dãy núi nổi lên. Độ cao của núi tuỳ thuộc vào cường độ nâng lên mạnh hay yếu. Như vậy có thể coi địa máng là nơi sinh ra các dãy núi uốn nếp, còn vật liệu trầm tích trong địa máng là nguyên liệu hình thành các loại đá cấu tạo nên các dãy núi. Trong quá trình phát triển lâu dài của một lãnh thổ (qua các thời đại địa chất), sự kế tiếp của các giai đoạn: lúc là địa máng, lúc trở thành nền, rồi lại địa máng…thường xảy ra. Đó là các giai đoạn có chế độ: biển, rồi lục địa, rồi lại biển,…những thời kì biển xuất hiện thường được gọi là thời kì biển tiến, còn các thời kì lục địa xuất hiện là thời kì biển thoái. Ở nước ta, các địa máng cũng đã được hình thành và tồn tại trước khi có các vận động tạo núi xảy ra. Câu 10: Hiện tượng núi non, sông ngòi của nước ta trẻ lại được biểu hiện như thế nào? ĐÁP: Hiện tượng núi non, song ngòi của nước ta được trẻ lại biểu hiện ở chỗ: hình dạng của núi trở nên sắc sảo, độ cao tăng them, các song ngòi có độ dốc lớn hơn, nước chảy xiết hơn… Câu 11: Tại sao các dãy núi ở nước ta lại có hướng Tây Bắc – Đông Nam và hướng vòng cung? ĐÁP: Các dãy núi của nước ta ở miền Tây Bắc và Bắc Trung Bộ có hướng Tây Bắc – Đông Nam rõ rệt là vì các dãy núi này đã được hình thành trong đầu mút của địa máng cổ kéo dài từ phía Himalaya tới theo hướng Tây Bắc – Đông Nam . Các núi có hướng vòng cung chủ yếu là được hình thành ở rìa phía đông của các mảng nền cổ, cho nên hình dạng của các mảng nền này cũng có tác dụng định hướng cho các nếp uốn hình thành nên chúng. Câu 12: Trong việc tạo nên địa hình, nội lực và ngoại lực mâu thuẩn nhưng thống nhất với nhau. Hiểu điều đó như thế nào cho đúng bản chất? ĐÁP: Nội lực là những lực có nguồn gốc từ sâu trong lòng Trái Đất, có vai trò chủ yếu là kiến tạo các đơn vị cấu trúc ở trên bề mặt Trái Đất như nền, các mạch nùi uốn nếp, đoạn tầng, núi lửa v.v… Ngoài lực là những lực tác động trên bề mặt Trái Đất, còn gọi là lực xâm thực hay tác nhân xâm thực, ví dụ sức gió, sức nước, nhiệt Mặt Trời, sóng biển v.v…Về bản chất, đây là hai lực trái ngược nhau và mâu thuẫn với nhau, vì một bên thì “xây”, còn một bên thì “phá”, nhưng chúng kết hợp với nhau một cách chặt chẽ trong việc tạo nên các dạng địa hình hiện nay trên bề mặt Trái Đất. Nội lực vừa tạo nên các đơn vị cấu trúc thì đồng thời ngoại lực đã làm thay đổi hình dạng. Ví dụ khối núi Ba Vì, nguyên là những lớp đá trầm tích được uốn lên thành một nếp, rồi các tác nhân xâm thực xói mòn những nơi mềm làm cho những nơi rắn nhô lên thành ba ngọn, hay “va vì” núi. Những địa hình ta trông thấy trên mặt các lục địa đều hình thành như thế, do tác động của hai lực: nội lực “xây dựng” và ngoại lực “xâm thực”. Đó cũng chính là quy luật chung của sự hình thành địa hình. Câu 13: Hình thái các đồng bằng Bắc Bộ, Nam Bộ và đồng bằng duyên hải miền Trung có liên quan tới lịch sử phát triển của chúng như thế nào? ĐÁP: 1. Đồng bằng Bắc Bộ là đồng bằng châu thổ, rộng 16000km2, được bồi đắp bởi phù sa của các hệ thống sông Thái Bình và sông Hồng. Là một châu thổ nên đồng bằng này có hình một tam giác đỉnh ở Việt Trì và thấp dần từ tây bắc xuống đông nam, với độ cao giảm dần từ 10 – 15m xuống đến độ cao sát mặt biển. Điểm nổi bật của đồng bằng này là có các ô trũng, được ngăn cách bởi hệ thống đê nhân tạo làm cho quá trình bồi đắp chưa hoàn thành, nhiều nơi còn rất trũng. Ra đến biển là dãy đất cồn tạo nên do tác động của sóng gió. Cồn cát tập trung nhiều nhất ở quãng giữa sông Trà Lí và sông Hồng. Do bị giới hạn bởi hệ thống đê, nên phù sa sông Hồng được mang ra cửa sông là cho diện tích đồng bằng càng mở rộng về phía biển, tốc độ khoảng 80m/năm. 2. Đồng bằng Nam Bộ là danh từ gọi chung 2 khu vực Đông Nam Bộ và châu thổ Cửu Long mà ranh giới chạy ngang qua thành phố Hồ Chí Minh. - Khu vực Đông Nam Bộ xưa là một đồng bằng do phù sa sông bồi đắp lên trên đá gốc sa diệp thạch Trung sinh đại của sụt võng Nam Bộ. Trong kỉ Đệ tứ, khu vực phía đông của đồng bằng lại bị lôi cuốn vào vận động nâng lên của khu vực núi cực Nam Trung Bộ lên tới độ cao 100m (độ cao của các quả đồi thấp ven suốt dải đồng bằng duyên hải Việt Nam), trong khi đó phần còn lại bị sụt sâu xuống hình thành một vịnh biển, trong đó nổi lên một số đảo nhỏ. Đồng thời các hoạt động phun trào ba dan xảy ra, dung nham ba dan phủ lên trên lớp phù sa cổ. Châu thổ sông Cửu Long có một lịch sử rất trẻ. Cách đây 4500 năm biển vẫn lấn vào tận Đồng Tháp Mười và châu thổ sông Cửu Long vẫn bị ngập nước tới 4m. Khoảng 2000 năm sau, mặc dù khối lượng phù sa khổng lồ của sông Cửu Long bồi đắp rất nhanh, nhưng độ cao trung bình của châu thổ vẫn chỉ khoảng 2m trên mực nước biển. Trong khi đó cửa triều ở vùng cửa sông dâng cao tới 3 – 4m. Vì thế mà đỉnh của châu thổ tính theo phạm vi ảnh hưởng của thuỷ triều lên đến tận PhnômPênh, cách biển 300km. Hiện nay, châu thổ sông Cửu Long vẫn tiếp tục mở rộng, nhưng do ảnh hưởng của hải lưu mà quá trình đó chỉ phát triển mạnh về phía tây nam (mũi Cà Mau) nhânh tới 60 – 80m/năm. Do lịch sử phát triển của châu thổ như vậy mà đất mặn, đất phèn, đất lầy chiếm một tỉ lệ diện tích đáng kể. Nước mặn có thể xâm nhập tới 1/3 diện tích châu rhổ. Châu thổ sông Cửu Long hiện nay là một đồng bằng lớn, diện tích tới 40000km2, thấp và rất bằng phẳng, độ dốc bình quân 1m/km. Sông không có đê nên hàng năm vào mùa lũ, nước sông vẫn tràn bờ và làm ngập đến trên 1 triệu ha đất đai. Địa hình châu thổ cao thấp không đều. Cao là các gờ đất ven sông do phù sa bồi, có nhiều ở phía An Giang. Hai nơi trũng úng là Đồng Tháp Mười và Hà Tiên. 3. Đồng bằng duyên hải miền Trung là dải đồng bằng ven biển bị chia cắt thành từng khúc bởi các nhánh núi ăn lan ra sát biển, tạo thành các đồng bằng nhỏ hẹp. Từ bắc vào nam có các đồng bằng Nghệ An (1750km2), Hà Tĩnh (1660km2), Quảng Bình (640km2), Quảng Trị (610km2), Thừa Thiên (900km2), Quảng Nam (1450km2), Quảng Ngãi (1200km2), Bình Định (1700km2), Phú Yên (820km2), Khánh Hoà (400km2), Phan Rang (220km2) Và Phan Thiết (310km2). Đặc điểm chung của các đồng bằng này là có độ dốc nghiêng từ tây sang đông. Đồng bằng rất hẹp ngang, đất phần lớn xấu. Đây là loại đồng bằng mài mòn – bồi tụ. Lịch sử phát triển của chúng có liên quan mật thiết với sự bào mòn chân núi do biển, sau đó được các vật liệu của sông và biển bồi tụ thành. Câu 14: Địa hình Kacxtơ ở Việt Nam có nhiều nét độc đáo khác với nhiều nơi trên thế giới. Vậy những nét độc đáo đó là gì? Ở nước ta có những kiểu và miền Kacxtơ nào đáng chú ý? ĐÁP: Từ “ Kacxtơ” vốn là một danh từ riêng, chỉ tên của một cao nguyên đá vôi ở dãy núi Anpơ Đinaric (Nam Tư cũ). Trong các từ điển hiện nay Kaxctơ được định nghĩa là quá trính tác động về mặt hóa học và một phần về mặt cơ học của nước ngầm vào các loại đá dễ hòa tan như đá vôi Diện tịch Kaxctơ ở nước ta rộng 50.000 km2, chiếm 1/6 diện tích đất nước. Các miền Kaxctơ nước ta nằm trong phạm vi Kaxctơ nhiệt đới Đông Nam Á là nơi diện tích Kaxctơ rộng lớn nhất thế giới. Do điều kiện nhiệt đới ẩm, nên các quá trình phong hóa vật lý, hóa học, sinh học diễn ra mạnh mẽ, tạo nên nhiều dạng Kaxctơ biểu hiện tính chất độc đáo của địa hình nước ta là địa hình Kaxctơ già. Có 2 dạng cơ bản: 1. Dạng do quá trình gặm mòn là chủ yếu tạo nên: các hố hút nước, giếng Kaxctơ, lũng Kaxctơ. 2. Dạng do hoạt động băng tụ chủ yếu tạo nên: các thạch nhũ trong hang động (vú đá, măng đá, rèm đá, cột đá…). Ở nước ta, nếu phân theo hướng hình thái phát sinh thì có 4 kiểu Kaxctơ chủ yếu: + Kaxctơ trụi : Kaxctơ lộ trực tiếp ra bề mặt đất. + Kaxctơ phủ : Kaxctơ trên bề mặt có phủ một lớp vật liều không hòa tan. + Kaxctơ bị chôn vùi : quá trình Kaxctơ đã ngừng hoạt động, trên bề mặt đá Kaxctơ vẫn còn tồn tại các dạng địa hình Kaxctơ cổ sót lại. + Kaxctơ cổ: Kaxctơ được hình thành trong điều kiện địa lí khác với điều kiện địa lý hiện nay và chưa bị phá hủy do các quá trình ngoại lực. Các miền Kaxctơ ở nước ta gồm có: miền Kaxctơ ở vùng trũng đông bắc (ở đây có các vùng Kaxctơ Hạ Long đẹp và nổi tiếng và Kaxctơ Bắc Sơn có nhiều hang động lớn vào bậc nhất nước ta), miền Kaxctơ khối nâng Việt Bắc (có hồ Ba Bể), miền Kaxctơ ở vùng trũng sông Đà (vùng Kaxctơ Nho Quan ở Ninh Bình được coi như là một vịnh Hạ Long trên cạn); miền Kaxctơ từ khối nâng sông Mã đến vùng trũng Cửu Long (có động Phong Nha – một hang Kaxctơ trẻ - một kì quan ở Quảng Bình). Câu 15: Sách giáo khoa Địa lí 8 có nói: Vị trí nước ta đã làm cho khí hậu có những nét độc đáo. Vậy giải thích như thế nào? Đáp: Vị trí nước ta có những đặc điểm sau đây nên đãi làm cho khí hậu có những nét độc đáo: - Nước ta nằm hoàn toàn trong vòng đai nhiệt đới. - Nước ta nằm ở trung tâm khu vực gió mùa Đông Nam Á. - Nước ta có lãnh thổ hẹp từ tây sang động và bài tới 15o vĩ độ từ bắc xuống nam. - Nước ta nằm trên một bán đảo, tận cùng của lục địa Âu – Á rộng nhất thế giới. - Nuớc ta giáp Thái Bình Dương ở phía đông và phía nam, chịu ảnh hưởng thường xuyên của các trận bão nhiệt đới, sinh ra trong Thái Bình Dương. Câu 15: Tại sao nằm trong vòng đai nhiệt đới mà khác với nhiều lãnh thổ khác, nước ta có một mùa đông giá rét. Điều đó có gì trái với quy luật không? ĐÁP: Nằm trong vòng đại nhiệt đới của nửa cầu Bắc, nước ta quanh năm nhận dược một lượng nhiệt dồi dào, nhiệt độ trung bình năm trên 23oC.Thế nhưng, nước ta lại nằm gọn trong khu vực gió mùa châu Á, quanh năm chịu tác động của khối khí chuyển động theo mùa. Về mùa đông, từ áp cao Xibia rộng lớn, gió thổi xuống theo hướng đông bắc – tây nam mang theo không khí lạnh đến nước ta, gây ra một mùa đông rét. Ở Hà Nội có 3 tháng nhiệt độ trung bình xuống dưới 18oC. Chính vị trí địa lí góp phần làm cho khí hậu nước ta có đặc tính nói trên. Điều đó không có gì trái với quy luật. Câu 16: Trong sách giáo khoa Địa lí có nêu: “Tổng số nhiệt độ trên 100C trong năm lên tới 80000C”. Điều đó có ý nghĩa gì? Tại sao lại trên 100C? ĐÁP: Khi nói đặc điểm khí hậu của một quốc gia, người ta thường nói tổng số nhiệt độ trên 10oC là vì: về mặt nông nghiệp, mỗi loại cây trồng trong quá trình sinh trưởng đòi hỏi phải được cung cấp một lượng nhiệt nhất định. Nếu không đạt được lượng nhiệt đó thì hoặc là cây không sống được, hoặc là năng suất sẽ giảm. Lượng nhiệt đó được tính bằng tổng số nhiệt trên 10oC. Nhiệt độ 10oC là nhiệt độ tối thiểu để cây trồng có thể sống được. Tổng số nhiệt độ trên 10oC trong năm càng lớn thì điều đó càng chứng tỏ khả năng thuận lợi cho sự phát triển và cho năng suất cao của các loại cây trồng, không phải một vụ mà nhiều vụ trong năm. Câu 17: Tính chất phức tạp của khí hậu Việt Nam được thể hiện như thế nào? ĐÁP: Tính chất phức tạp bắt nguồn từ những biến động trái quy luật của khí hậu. Đó là sự phân hóa của khí hậu theo mùa khác nhau giữa các vùng lãnh thổ (Bắc,Trung, Nam ). Đó là những biến động thất thường của khí hậu trong năm hay từ năm này sang năm khác (hạn hán, úng lụt, sớm, muộn, dài, ngắn, đậm, nhạt….). Đó là những biệt lệ khí hậu như mùa đông lạnh có mưa phùn ở Bắc Bộ. Đó là các hiện tượng tiêu cực gay gắt của khí hậu như bão, gió phơn Tây Nam . Chính ở vào vị trí có sự đắp đổi luân phiên của các khối khí trên một lãnh thổ có hình dạng kéo dài trên gần 15o vĩmà tính chất phức tạp của khí hậu được tăng cường. Câu 18: Hoạt động của bão ở nước ta như thế nào? Tại sao ở nước ta thời gian hoạt động của bão chậm dần từ Bắc vào Nam ? ĐÁP: Bão được hình thành trên dải hội tụ nhiệt đới. Đó là một vùng áp thấp gần tròn với đường kính khoảng 200-300 km. Trong vùng bão, gió thổi xoáy rất mạnh gây nên dòng thăng mạnh mẽ, hình thành mây và mưa dữ dội trong một phạm vi rộng lớn. Đặc biết tại vùng trung tâm, gọi là mắt bão có gió yếu hay lặng gió và trời quang mây tạnh Bão đổ bộ vào Việt Nam thường xuất phát từ tây Thái Bình Dương (10o – 20oB và 130o - 145oĐ) hoặc ngay ở Biển Đông (7o - 20oB và 112o – 121oKĐ) vào thời kì mà nhiệt độ nước biển nóng trên 260 – 270C. Bão phát sinh trên dải hội tụ nhiệt đới (nội chí tuyến) và di chuyển từ đông sang tây. Mùa bão trên toàn quốc là từ tháng 7 đến tháng 11, cực đại vào tháng 9, gồm 85% tổng số bão. Tuy vậy cũng có những cơn bão đến sớm hay muộn hơn. Mùa bão và tần suất bão không đồng nhất từ bắc chí nam. Khu vực bị đe doạ nhiều nhất là từ Móng Cái đến mũi Ba Làng An. Ở miền Nam , bão ít hơn, nhiều năm hoàn toàn không có bão. Mùa bão có xu thế chậm dần từ bắc xuống nam phù hợp với sự di chuyển của dải hội tụ nhiệt đới xuống các vĩ độ thấp vào tháng 10, 11. Câu 19: Bản chất của gió phơn Tây Nam khô nóng và hoạt động của loại gió này ở nước ta như thế nào? ĐÁP: Gió phơn Tây Nam (còn gọi là gió Lào) là loại gió thổi vào nước ta từ tháng 4 – 7 từ hướng tây nam tới, thịnh hành trong tháng 5- 6. Phạm vi hoạt động mạnh nhất là ở miền trung. Nguồn gốc của gió là sự di chuyển của khối không khí nhiệt đới vịnh Bengan: nóng ẩm. Bản chất của gió này ban đầu là mang theo nhiều hơi nước ẩm ướt. Khi vào nước ta đã vượt qua dãy Trường Sơn. Sau khi trút mưa ở sườn tây, vượt qua đỉnh, trườn xuống theo sườn đông thì nhiệt độ tăng lên (10/100m), độ ẩm giảm mạnh. Gió thổi đến đâu gây ra thời tiết khô nóng (thậm chí cực kì khô nóng) đến đó. Lúc đó gọi là thời tiết gió Lào, trời quang mây, oi bức, không mưa, nhiệt độ cao, có lúc đạt tới 39 – 400C, độ ẩm tương đối xuống đến 70 – 50%, thấp nhất có thể dưới 30%. Câu 20: Tại sao nói: “Sông ngòi là hàm số của khí hậu trên một nền cảnh quan nhất định”. ĐÁP: Trong số các nhân tố địa lí tự nhiên có tác động tới chế độ nước sông thì nhân tố khí hậu có tác dụng khá quyết định. Trong thực tế, điều đó được biểu hiện rất rõ: những nơi có lượng nước rơi lớn, dòng chảy sẽ phong phú, ngược lại, những nơi có lượng nước rơi nhỏ, dòng nước sẽ nghèo nàn. Chế độ nước rơi điều hoà thì thuỷ chế sông điều hoà. Khi mưa rất lớn thì nước sông lớn. Ở nước ta 2 mùa khí hậu trùng với hai mùa nước sông trong năm. Về mùa mưa nước sông dâng cao, về mùa khô dòng nước cạn kiệt, làm sông bé lại. Tương quan đó có thể biểu diễn bằng một hàm số như đã nói. Câu 21: Tại sao cũng trong khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa mà hệ thống sông Hồng hay gây ra lũ lụt, có chế độ nước thất thường, còn hệ thống sông Cửu Long lại điều hòa hơn. ĐÁP: Hệ thống sông Hồng gồm có hai sông lớn là sông Hồng và sông Đà đều bắt nguồn từ Trung Quốc. Khi chảy vào nước ta, phần lớn chiều dài các sông đều chảy qua vùng núi Tây Bắc, có núi non hiểm trở, độ dốc lớn, thảm thực vật đã bị tàn phá nhiều. Mặt khác, do lưu vực của hệ thống sông khá rộng, lượng nước cung cấp rất lớn về mùa mưa (60% lượng nước là của sông Đà). Nước ở phần thượng lưu được tập trung khá nhanh, dồn một lượng nước lớn về hạ lưu làm cho nước sông hay dâng cao đột ngột, nhiều lúc lên đến mức báo động số 3. Sông Cửu Long bắt nguồn ở Tây Tạng trên độ cao 5000m. Đây là một trong những con sông lớn của thế giới, chảy qua 5 nước với tên gọi là Mê Công. Chiều dài sông tổng cộng lên tới 4500 km, đoạn hạ lưu chảy vào nước ta gọi là Cửu Long dài 220 km. Tổng lượng nước của sông rất lớn, gấp 5 lần sông Hồng, nhưng lòng sông lại rộng, sông đổ ra biển bằng 9 cửa, nên lượng nước thoát nhanh. Đặc biệt đoạn này chảy qua Phnôm Pênh (Campuchia) sông Mê Công được nối với Biển Hồ bằng sông Tônlêsáp. Biển Hồ có tác dụng rất lớn trong việc điều tiết chế độ nước sông, đặc biệt là phần từ đó chảy ra biển qua Việt Nam (tức là sông Cửu Long). Mùa nước lớn, Biển Hồ nhận nước vào làm giảm mực nước sông. Về mùa khô, nước lại từ Biển Hồ theo dòng Tônlêsáp chảy vào Cửu Long. 22: Thế nào gọi là “đất ngoài đê” và “đất trong đê”. ĐÁP: Đây là cách nói thông thường của nhân dân vùng đồng bằng Bắc Bộ, nơi có hệ thống đê rất quy mô và từ lâu đời, nhằm chỉ đơn thuần vị trí của đất so với chỗ cư trú của con người. Ở hai bên bờ các sông Hồng, sông Đáy, sông Đuống, sông Thái Bình…có hệ thống đê ngăn lũ. Về mùa khô, mực nước hạ thấp, phần bãi bồi và thềm sông lộ ra, nhân dân sử dụng đất đó để canh tác, trồng cc1 loại rau màu vụ đông. Còn về mùa mưa, nước sông dâng cao, vùng đó ngập nước. Gọi là đất trong đê và đất ngoài đê là nhằm phân biệt hai loại đất: được bảo vệ ở bên trong và không được đê bảo vệ ở bên ngoài. 23: Đất phèn là đất gì? Đặc tính của nó ra sao? ĐÁP: Đất phèn còn gọi là đất chua mặn là loại đất được hình thành ở các vùng châu thổ trong quá trình lấn dần ra biển. Đặc điểm của loại đất này là vừa chua vừa mặn. độ chua khá lớn (pH: 3 – 4,5) chủ yếu do phèn nhôm (sunphát nhôm) và phèn sắt (sunphát sắt) sinh ra. Còn mặn là do các clorua như NaCL. Đất phèn chủ yếu được hình thành ở những vùng biển trước đây có rừng ngập mặn phát triển. Xác các cây đước, sú, vẹt, tràm.v.v…có chứa một lượng lưu huỳnh rất lớn. Khi bị vùi xuống sâu và phân huỷ ở môi trường yếm khí (ngập nước), lưu huỳnh tạo thành các sunphua. Khi gặp không khí, chúng lại bị ôxi hoá thành axit sunphuric và các sunphát nhôm, sắt…Đất phèn có độ độc hại lớn đối với cây trồng, vì vậy để sử dụng được loại đất này cần phải có các biện pháp cải tạo. Trước hết phải có các công trình thuỷ lợi đưa nước ngọt về để: “thau chua rửa mặn”, làm giảm nồng độ phèn và muối trong đất, sau đó phải bón vôi để giảm độ chua rồi mới trồng dần các loại cây có khả năng chịu phèn cao như: sắn, mía, dứa v.v… Ở nước ta, đất phèn phân bố ở nhiều nơi, chủ yếu là ở đồng bằng sông Cửu Long. Ở đồng bằng Bắc Bộ đất phèn tập trung ở dải đất ven biển từ hải phòng đến Quảng Ninh. Câu 24: Những đặc điểm của đất feralit. Trong các loại đất feralit ở nước ta, đất nào có giá trị kinh tế cao nhất, đặc điểm của nó và sự phân bố? ĐÁP: Đất feralít bao gồm nhiều loại khác nhau: feralít vàng đỏ miền rừng, feralít đỏ sẫm, feralít nâu xám, feralít mùn trên núi cao…Đặc tính chung của chúng là có lượng khoáng nguyên sinh thấp, lượng các hiđrôxit sắt, nhôm, titan cao, cấu tượng bền, độ mùn đáng kể. Trong số đó, loại đất tốt nhất là feralít đỏ sẫm do các sản phẩm phong hoá của đá ba dan và đá vôi tạo thành. Đất hình thành trên đá ba dan ở nước ta có khoảng 2 triệu ha, chủ yếu phân bố ở Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, Bắc Quảng Trị, Phủ Quỳ. Đặc điểm của loại đất này là có tầng đất dày, có thể đến vài chục mét, thành phân cơ giới phần nhiều nặng. Loại đất này rất thích hợp cho các loạicây công nghiệp nhiệt đới quý như cao su, cà phê, chè, hồ tiêu… Đất đỏ đá vôi có màu nâu đỏ và vàng tập trung chủ yếu ở Đông Bắc, Tây Bắc và Bắc Trung Bộ, trên những diện tích rộng. Đây cũng là loại đất tốt có cấu tượng bền và tơi xốp, dễ thấm nước, thoáng khí. Đất này thích hợp cho việc trồng nhiều loại cây, từ lúa, ngô, đỗ, lạc cho đến bông, gai, thuốc lá… Câu 25: Tại sao nói đất đai không phải là tài nguyên vô tận. Đất đai nước ta có những mặt thuận lợi và khó khăn nào? ĐÁP: Tài nguyên vô tận là loại tài nguyên không khi nào khai thác hết được, ví dụ: năng lượng Mặt Trời, không khí,…Diện tích đất nổi trên bề mặt Trái Đất là một con số hữu hạn 148.825.000 km2, con người không thể khai thác một cách vô hạn được. Mặt khác, quá trình hình thành đất kể từ khi phong hoá đá đến khi con người sử dụng vào canh tác phải trải qua một thời gian hết sức dài. Do vậy, khi đất đai bị thoái hoá thì sẽ mất rất nhiều thời gian, tiền của mới có thể phục hồi lại được. Chính điều đó xác định đất đai không phải là loại tài nguyên vô tận mà thuộc loại tài nguyên có thể phục hồi lại được. Ở nước ta hiện nay, đất sử dụng cho nông nghiệp khoảng trên dưới 7 triệu ha, nhìn chung có các thuận lợi cơ bản: - Diện tích đất có thể khai hoang để mở rộng diện tích còn tập trung ở gò đồi, vùng núi và ven biển. - Có nhiều loại đất khác nhau cho phép phát triển một hệ cây trồng đa dạng, phong phú. - Có đất tốt với diện tích đáng kể để tăng năng suất cây trồng, như đất phù sa thường xuyên được bồi đắp, đất đỏ ba dan, đất đỏ đá vôi… Bên cạnh đó khó khăn cũng còn nhiều: - Còn nhiều diện tích đất xấu (đầm lầy, phèn, chua mặn, bạc màu…) phải cải tạo tốn kém. - Diện tích đất canh tác bình quân trên đầu người quá nhỏ (0,3 ha/người. Riêng ở đồng bằng Bắc Bộ 0,1 ha/người). - Trong điều kiện nắng lắm, mưa nhiều, tập trung theo mùa, quá trình xói mòn, rửa trôi và bạc màu diễn ra mạnh mẽ đòi hỏi phải thực hiện nhiều biện pháp bảo vệ đất. Câu 26: Thế nào là thực vật bản địa, thực vật di cư, thực vật nhập nội? Cho ví dụ. ĐÁP: Thực vật bản địa là những loài thực vật phát sinh và phát triển ngay trong điều kiện khí hậu, đất đai,…tại chỗ trên lãnh thổ nước ta. Ví dụ: cây lúa nước. Theo nhiều kết quả điều tra nghiên cứu, ở nước ta có 250 loài thực vật bản địa. - Thực vật di cư là những loài thực vật mà trong quá trình biến đổi của khí hậu Trái Đất, hay trong những lần băng hà tràn xuống rồi rút lui, chúng đến theo và nằm lại. Ví dụ: cây thông pơ mu, sa mu, cây hồi…Những loài thực vật này thường ở những nơi có khí hậu thích hợp, có thể gần tương tự như nơi phát sinh của chúng. Ví dụ: cây thông thường mọc ở nơi khí hậu có tính ôn đới hay cận nhiệt. - Nếu như hai loại trên chủ yếu là các loài thực vật tự nhiên, thì thực vật nhập nội lại nằng về các loại cây trồng. Thực vật nhập nội ở nước ta có rất nhiều, góp phần làm phong phú hệ thực vật nước ta. Ngô, khoai lang, sắn, lạc, khoai tây, cà chua, bí đỏ, đậu và các cây ăn quả như na, dứa, đu đủ, vú sữa, hồng xiêm; cây công nghiệp như thuốc lá, cao su, có nguồn gốc từ vùng nhiệt đới Trung Nam Mĩ. Thầu dầu, cà phê, dưa hấu thì gốc từ vùng nhiệt đới châu Phi. Một số loài có nguồn gốc từ Ấn Độ như: xoài, me, đay, bông, cà, mướp, dưa chuột. Từ vùng cận nhiệt đới và ôn đới Trung Quốc đến nước ta có nhiều cây ăn quả như cam, quýt, vải, hồng; cây làm thuốc như xuyên khung, sinh địa, một số hoa cảnh như cúc, trà v.v… Kể cả thực vật nhập nội thì hệ thực vật của nước ta có đến 700 – 800 loài. Câu 27: Nước ta ở trong vòng đai nhiệt đới. Tại sao có rừng cận nhiệt và rừng ôn đới? ĐÁP: Tính chất cận nhiệt và ôn đới (kể cả thực vậtrừng lẫn khí hậu) bắt nguồn từ sự phân hoá theo đai cao. Càng lên cao, các yếu tố địa lí tự nhiên như nhiệt độ, áp suất khí quyển, các quá trình phong hoá…thay đổi theo và tạo ra các vành đai khác nhau. Ở chân núi có đai rừng nhiệt đới, lên cao tiếp theo có đai rừng cận nhiệt đới và ôn đới trên núi. Ranh giới các đai này khác nhau từ bắc vào nam, từ tây sang đông. Do các núi ở nước ta chạy theo hướng tây bắc – đông nam nên thường hướng sườn đông ra trước gió mùa Đông Bắc, trong khi sườn tây được che khuất. Hơn nữa, các dãy núi cánh cung ở Đông Bắc Bắc Bộ lại xoè ra kiểu nan quạt làm cho các khối khí lạnh dễ dàng xâm nhập sâu xuống đồng bằng Bắc Bộ, nhiệt độ mùa đông, do đó bị hạ thấp hơn mức bình thường. Kết quả là vành đai cận nhiệt đới và ôn đới ở các cao nguyên phía tây Trường Sơn chỉ thấy xuất hiện ở độ cao 1000 – 1100m, trong khi ở sườn đông là vào khoảng 700 – 800m, còn ở phía đông bắc thì xuống đến 500 – 600m, có khi còn thấp hơn nữa. Nhờ sự phân hoá tự nhiên theo độ cao (một hiện tượng bình thường ở miền núi) nên mặt dù miền núi nước ta căn bản nằm trong vùng nhiệt đới ẩm vẫn có các loại khí hậu cũng như thực vật của các vĩ tuyến cao hơn. Câu 28: Rừng rậm và rừng thưa phân biệt với nhau như thế nào? ĐÁP: Về mặt hình thức, rừng rậm nhiệt đới là rừng có cây cối rậm rạp, nhiều tầng (ở nước ta rừng thường có 5 tầng) dây leo chằng chịt, động vật đa dạng và phong phú…Còn rừng thưa là rừng đã bị tàn phá nhiều hoặc mọc lại. Trong rừng có ít cây lớn, phần lớn chỉ có các loại gỗ tạp, động vật lớn cũng ít, thậm chí không có. Về bản chất, việc phân loại rừng được căn cứ vào chỉ tiêu mật độ sinh khối. - Rừng rậm nguyên sinh giàu có trữ lượng gỗ trên 300m3/ha. - Rừng rậm thứ sinh phục hồi có trữ lượng gỗ 100 – 150m3/ha. - Rừng trung bình có 120m3/ha. - Rừng thứ sinh thưa nghèo có trữ lượng gỗ 40m3/ha. Câu 29: Tại sao tình trạng mất rừng đang là mối đe dọa lớn ở nước ta. Chúng ta phải làm gì để ngăn chặn? ĐÁP: Lãnh thổ nước ta có đến ¾ là đồi núi. Rừng có lợi ít to lớn nhiều mặt đối với sự phát triển kinh tế, đời sống sinh hoạt và môi trường. Do vậy hiện tượng mất rừng một cách nhanh chóng thực sự là nguy cơ lớn. Chỉ so với năm 1943, thì đến nay tài nguyên rừng của nước ta cạn đi rất nhanh, vượt xa mức báo động thông thường. Độ che phủ rừng trên toàn quốc từ trên 50% trước đây chỉ còn dưới 21%, riêng Bắc Bộ thậm chí dưới 20%, mộtsố vùng ở Tây Bắc chỉ còn dưới 8%, nghĩa là đã mất đi 4,5 triệu ha rừng. Về mặt chất lượng, sự tàn phá còn ghê gớm hơn. Cho đến nay coi như nước ta đã hết loại rừng giàu, có trữ lượng 300m3/ha. Rừng loại khá: 120 – 150m3/ha chỉ còn độ 3,3 triệu ha, rừng xấu có trữ lượng 40 – 70m3/ha có độ khoảng 5 triệu ha, trong khi đó diện tích coi như không còn rừng lên đến 13 triệu ha. Do vậy tính bình quân theo đầu ngườinước ta đạt mức độ rất thấp, chỉ 16m3/người (lúc dân số mới 50 triệu) trong khi đó ở Thái Lan là 105m3/người, Phần Lan là 247m3/người. Trước tình hình đó, nhiệm vụ cấp bách của chúng ta hiện nay là trồng rừng, khôi phục vốn rừng, đưa tỉ lệ che phủ rừngp lên khoảng 50% trên phạm vi cả nước, đối với miến núi phải đưa lên cao hơn. Về mặt khai thác, phải tăng cường các biện pháp kĩ thuật để thu được cả cành, ngọn, lá và tránh tình trạng lấy được 1 cây gỗ to thì phá hại hàng chục cây nhỏ khác. Đồng thời, phải có sự quy định khai thác theo nhóm, theo tuổi cây… Khai thác, bảo vệ và trồng rừng là những biện pháp thường xuyên, cấp bách và đi liền với nhau. Câu 30: Ở nước ta có một diện tích lớn rừng ngập mặn. Nhưng đặc điểm của rừng ngập mặn là gì? Sự phân bố của chúng ở nước ta ra sao? ĐÁP: Rừng ngập mặn là rừng ở dải đất ven biển nhiệt đới, phát triển trên các vùng cửa sông bồi tụ với các loại cây điển hình có rễ chùm như tràm, đước, vẹt, mắm, v.v… Ở nước ta, loại rừng này có chủ yếu ở các vùng cửa sông Thái Bình, sông Hồng, vùng ven biển thuộc đồng bằng sông Cửu Long. Riêng tỉnh Minh Hải có diện tích rộng đến 250.000 ha, trong số 373000 ha rừng ngập mặn ở các tỉnh phía nam, đứng hàng thứ hai về số rừng ngập mặn trên thế giới, sau vùng cửa sông Amadôn ở Nam Mĩ. Ở đây có rừng U Minh rộng đến 190.000 ha, thực vật thống trị có cây tràm, thân cao từ 10 đến 20m, hoa nở trắng xoá về mùa hạ. Thổ nhưỡng của rừng cũng độc đáo: đất than bùn dày từ 2 đến 5m, cấu tạo bằng xác thực vật trải qua hàng trăm năm đã bị chôn vùi ở đây trong một lớp bùn lỏng. Động vật phong phú, nổi tiếng là chim và cá. Phía tây của rừng U Minh kết thúc bằng một dải sú vẹt chạy dài liên tục từ Rạch Giá nối tiếp với dải rừng đước Cà Mau. Câu 31: Tại sao địa hình miền Bắc và Đông Bắc Bắc Bộ lại chủ yếu là đồi núi thấp và thấp dần theo hướng tây bắc- đông nam. ĐÁP: Cũng giống như các miền khác trên lãnh thổ nước ta, cách đây chừng 67 triệu năm, miền Bắc và Đông Bắc Bắc Bộ là một bề mặt san bằng (bán bình nguyên). Đến giai đoạn Miôxen, cách đây khoảng 26 triệu năm thì bị ảnh hưởng của vận động tân kiến tạo do tác động của vận động tạo sơn Himalaya. So với phần hữu ngạn sông Hồng, vận động nâng lên ở đây yếu. Tuy có làm cho núi non, sông ngòi trẻ lại, kèm theo những hiện tượng đứt gãy khá lớn, nhưng vận động này chủ yếu tạo nên các đồi núi thấp. Trong toàn miền, cường độ nâng lên không đều. Ở Việt Bắc, về phía biên giới Việt - Trung, cường độ nâng lên có thể tới 1000m, trong khi đó bờ biển chỉ nâng trong phạm vi 200 – 500m. Do vậy, miền Bắc và Đông Bắc Bắc Bộ hiện ra như một bề mặt nghiêng chúc về phía biển. Câu 32: Giải thích nguyên nhân hình thành các đảo trong vịnh Bắc Bộ. ĐÁP: Vịnh Bắc Bộ là một châu thổ cũ bị sụt lún. Đã có thời kì đường bờ biển ra đến gần đảo Hải <st1:country-region w:st="on">Nam</st1:country-region>. Trong vịnh có nhiều đảo mà nguồn gốc ban đầu là những đồi xen thung lũng. Sau khi biển tiến tràn ngập thì xảy ra quá trình biển bắt đầu cải tạo lại các quả đồi, mài mòn các chân đồi hoặc bồi đắp các bãi biển. Thường thường, trên các đảo không có sông suối, hiếm nước ngọt, ít dân cư. Trừ vài đảo lớn như Cái Bầu, Cái Bàn, Cát Bà, đa số là những đảo nhỏ đá vôi hình dạng kì thú. Xưa kia có thể có rừng rậm nhiệt đới bao phủ, bằng chứng là những cánh rừng hiện còn tồn tại ở một số nơi trên đảo Cái Bàn, Cát Bà với số lượng động vật khá lớn bao gồm: khỉ, vượn, nai, hoãng, sơn dương…. Câu 33: Phân biệt các loại sương mù, sương móc, sương muối. ĐÁP: Sương mù là loại sương do sự ngưng kết hơi nước gần mặt đất tạo thành. Những hạt nước trong sương mù rất nhỏ, chỉ nặng vài phần triệu gam và phải trên 1000 hạt mới được 1 cm3. Sương mù bình thường hình thành vào ban đêm khi mặt đất và không khí bị lạnh đi vì bức xạ. Sương mù bức xạ xuất hiện trong điều kiện độ ẩm tương đối cao, trời quang, lặng gió giống như một tấm màn giăng trên mặt đất. Sau khi mặt trời mọc, màn sương mù tan đi. Nếu mặt đất có cây cỏ thì lớp sương mù càng dày. Sương mù hay xuất hiện ở các vùng thấp vì ban đêm không khí lạnh tràn xuống. Trong điều kiện nhiệt độ của mặt đất hạ xuống đến đến điểm sương và trời quang, gió lặng thì có sương đọng lại trên mặt đất, ngọn cỏ, lá cây gọi là sương móc. Sương móc rất có lợi cho sản xuất nông nghiệp vì nó cung cấp cho cây trồng một lượng nước đáng kể. Trong khi sương móc hình thành, nếu nhiệt độ mặt đất vẫn tiếp tục hạ xuống dưới 00C, thì hơi nước đọng lại thành những hạt băng trắng như muối. Nhiệt độ không khí lúc đó rất thấp. Thời tiết có sương muối rất hại cho cây trồng vì nó làm cho nước đông lại trong thân cây, phá hoại tổ chức bên trong của cây. Nếu sương mù hình thành trong điều kiện không khí chuyển động theo chiều ngang do một luồng không khí lạnh tràn tới vùng có không khí nóng, hoặc một luồng không khí nóng thổi tới nơi có không khí lạnh thì đó là sương mù bình lưu. Sương mù này thường thường xuất hiện vào cuối thu, trong mùa đông và đầu xuân ở trên đất liền. Trên biển thường có vào mùa nóng và ở những nơi gặp nhau của hai dòng biển nóng và lạnh. Câu 34: Có gì khác nhau giữa hai cách nói: bảo vệ môi trường và bảo vệ tự nhiên? Hiểu khái niệm ô nhiễm môi trường như thế nào cho đầy đủ? ĐÁP: Theo quan niệm hiện nay, khái niệm một môi trường bao gồm: môi trường tự nhiên, môi trường xã hội, môi trường văn hoá. Như vậy, khái niệm bảo vệ môi trường có phạm vi khá rộng. Còn bảo vệ tự nhiên thì chỉ bó hẹp vào việc bảo vệ các thành phần trong môi trường tự nhiên như: đất đai, thực vật, động vật… Ô nhiễm môi trường là danh từ, về nguyên tắc dùng chung cho cả 3 loại môi trường nói trên. Ví dụ: trong những năm qua, môi trường văn hoá bị ô nhiễm bởi sự xuất hiện của hàng loạt sách báo, văn hoá phẩm đồi truỵ. Tuy nhiên, hiện nay trong thực tế phần lớn các trường hợp nói ô nhiễm đều chủ yếu là nói về sự ô nhiễm của môi trường tự nhiên. Sự ô nhiễm này về bản chất là sự nhiễm bẩn và làm biến chất các nguồn tài nguyên và các thành phần tự nhiên nói chung do hoạt động có ý thức hoặc vô ý thức của con người. Sự ô nhiễm đó hiện nay đang diễn ra ở tất cả các thành phần từ không khí đến nước (nước sông, hồ, đầm, đại dương…), đất đai, động thực vật, đặc biệt nguy hiểm là sự ô nhiễm có ảnh hưởng đến sức khoẻ của con người và nhiều khi có tác động xấu đến đời sống của các sinh vật trên toàn bộ hành tinh. Vì vậy, việc chống ô nhiễm là một mặt rất quan trọng của vấn đề bảo vệ môi trường. Câu 35: So với miền Bắc và Đông Bắc, địa hình miền Tây Bắc và Bắc Trung Bộ hết sức phức tạp và đa dạng. Giải thích điều đó như thế nào? ĐÁP: Miền Tây Bắc và Bắc Trung Bộ có địa hình đa dạng và phức tạp. Ở đây có dủ núi thấp (500 – 1500m), núi trung bình (1500 – 2500m), có cả thung lũng sâu, vực thẳm, sườn dốc lẫn thung lũng mở rộng, có cả các cao nguyên đá vôi rộng lẫn các đồng bằng giữa núi với diện tích đáng kể. Đặc điểm đó có liên quan chặt chẽ tới lịch sử phát triển của miền. Khác với miền Bắc và Đông Bắc là nơi có tính chuyển tiếp của một nền hoạt động, sự phức tạp của Tây Bắc và Bắc Trung Bộ là kết quả của một lịch sử phát triển đầy biến động của một địa tào điển hình trải qua hang chục triệu năm và gần đây nhất là vận động tạo sơn Himalaya ở thời kì Miôxen. Chính vận động tân kiến tạo này đã làm thay đổi bán bình nguyên cổ đưa đến bộ mặt ngày nay. Vận động này ảnh hưởng mạnh ở phần tây sâu trong lục địa (biên độ nâng có thể 1000 m và càng về phía ngoài ven biển càng yếu, có chỗ chỉ không quá 200m). Do vậy, tại phía biên giới Việt _ Trung có rất nhiều núi cao, nhiều đỉnh vượt quá 3000m. Càng về phía châu thổ sông Mã – Chu địa hình càng thấp dần. Từ phía nam sông Cả, vận động nâng cao nhất là ở gần biên giới Việt – Lào (khoảng 900m), sau đó giảm dần về cả hai phía. Tuy nhiên, phía động dốc nhiều, phía Tây thoải dần, tạo nên dãy Trường Sơn có hai sườn không đối xứng. Tân kiến tạo nâng mạnh nhưng nâng muộn, tạo nên những núi cao và núi trung bình. Vận động này lại có tính chất không liên tục cho nên sinh ra các bậc địa hình khác nhau từ độ cao 2200m xuống 1800 m, 1500m và 700m – Do sông suối đào lòng dữ dội nên lòng sông dốc và lắm thác ghềnh. Ở đây cũng không có vùng đồi thấp trung du rõ nét như ở miền Bắc và Đông Bắc Bắc Bộ. Núi lại tiến ra sát biển, nên dải đồng bằng duyên hải đã hẹp lại có nhiều đồi sót rải rác, có nơi đồi sót tạo nên vách biển, có nơi tạo thành các đảo nhỏ ven bờ. Câu 36: Tại sao ở miền Tây Bắc và Bắc Trung Bộ mùa đông ngắn và ít sâu sắc hơn ở miền Bắc và Đông Bắc Bắc Bộ? Mùa hạ ở đây lại đến sớm và không có mưa phùn? ĐÁP: Các điều kiện khí hậu có quan hệ mật thiết với vị trí địa lí và các đặc điểm địa hình trong miền. Do các khối núi cao chạy theo hướng Tây Bắc – Đông Nam nên đã làm cho số lần phrông lạnh tràn tới miền Tây Bắc và Bắc Trung Bộ chỉ bằng trên dưới 1/2 lần của miền Bắc và Đông Bắc Bắc Bộ. Như thế trung bình cứ 2 lần phrông lạnh tràn xuống Việt Nam thì có 1 lần không qua được các khối núi bình phong, nhất là vào đầu và cuối mùa lạnh. Không khí lạnh chỉ tràn vào Tây Bắc qua các thung lũng sông ăn thông xuống đồng bằng duyên hải, hoặc qua các đèo ở dãy Hoàng Liên Sơn. Do vậy, khi đến Tây Bắc, không khí lạnh đã bị biến tính (nóng lên và khô đi). Vì thế, nền nhiệt độ ở đây so với nơi có cùng độ cao tuyệt đối của khu Việt Bắc và Đông Bắc thì nóng hơn đến 2-3°. Phải lên đến độ cao 500m mới có tháng rét dưới 15°. Ở phía Mianma (Miến Điện) và có khi lấn sang Tây Bắc Việt Nam hay xuất hiện một áp thấp ngay cả trong mùa đông: khi có áp thấp, thời tiết nóng dễ xuất hiện, đôi khi có cả giông trái mùa. Đây cũng là điều kiện làm cho mùa đông ở Tây Bắc có phần nóng và ngắn, mùa hạ đến sớm, không có mùa xuân mưa phùn ảm đạm như Bắc Bộ và Thanh Hóa. Câu 37: “Lũ tiểu mãn” là thế nào? Tại sao có lũ “tiểu mãn”? ĐÁP: Tiểu mãn là 1 trong 24 tiết của âm dương lịch. Tiết này bao giờ cũng vào tháng 5 (ngày 21-5). Hàng năm ở Bắc Trung Bộ thường có một trận lũ sớm vào tháng này, nên gọi là “lũ tiểu mãn” Nguyên nhân của lũ này là do các cơn giông đầu mùa nóng gây nên. Các cơn giông này có liên quan đến hoạt động của phrông cực và đường hội tụ nhiệt đới. Câu 38: Đầm phá là một dạng địa hình độc đáo ở duyên hải miền Trung, đặc biệt ở Thừa Thiên – Huế. Nguyên nhân hình thành và diện mạo của địa hình ra sao? ĐÁP: Đầm phá nói ở đây là đầm phá tự nhiên. Ở ven biển Thừa Thiên – Huế có một dải đầm phá dài 60 km, rộng từ 1 đến 6 km, sâu từ 0.1 – 0.3 km. Các đầm phá này thông với nhau, tạo thành một dải và bị ngăn cách với biển bằng một lưỡi cát kéo dài, có chỗ cao 30 m. Đầm phá thông với biển qua các cửa hẹp (mỗi cửa rộng khoảng 1 – 1,5 km). Đầm phá cũng là nơi các con sông đổ nước vào, do đó ở đây có nước lợ và rất giàu tôm, cá, rau câu… Dải đầm phá ở Bắc Trung Bộ được hình thành cách đây trên 3000 năm. Nguyên nhân chủ yếu là do sự tích tụ vật liệu trầm tích ở sau một mũi đất nhô ra biển, hình thành trên một doi cát. Doi cát này càng ngày càng dài ra , vây kín một vùng nước biển tạo thành đầm. Đầm vẫn có nước sông trong đất liền chảy ra và vẫn có cửa thông với biển nên gọi là phá. Ví dụ: phá Tam Giang. Câu 39: Việc xây dựng các hồ chứa nước kết hợp với việc phát triển thủy điện ở phần thượng lưu của các con sông ở phía bắc có tác dụng như thế nào? ĐÁP: Tiềm năng thủy điện của các con sông miền núi ở phía Bắc rất lớn. Việc khai thác tiềm năng đó bằng cách xây dựng các nhà máy thủy điện từ trước tới nay ta đã làm nhiều. Ngoài những nhà máy nhỏ, ta đã có một số nhà máy, ta đã có một số nhà máy thủy điện lớn mà nổi bật là nhà máy thủy điện Hòa Bình, có công suất lớn nhất Đông Dương, cung cấp điện cho cả nước, Đi đôi với việc xây dựng các đập thủy điện, cần có những hồ nước nhân tạo để đảm bảo khối lượng nước chảy thường xuyên trong lòng sông phục vụ cho hoạt động của nhà máy thủy điện. Ngoài ra, việc xây dựng các hồ chứa nước còn có tác dụng điều tiết chế độ nước của các sông trong mùa cạn và mùa lũ, góp phần hạn chế ngập lụt ở đồng bằng hạ lưu trong mùa mưa, đồng thời phần nào cũng đảm bảo được việc giao thông vận tải trên sông và phát triển được việc nuôi trồng thủy sản.
THÔNG TIN TUYÊN TRUYỀN THÔNG TIN TUYÊN TRUYỀNTình hình biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường - Giải pháp khắc phụcA- TÌNH HÌNH BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU – GIẢI PHÁP ỨNG PHÓ I. Khái niệm chung Biến đổi khí hậu (BĐKH) là sự thay đổi có tính hệ thống (liên tục tăng hoặc liên tục giảm) các yếu tố khí hậu (Nhiệt độ, lượng mưa, áp suất hay gió,...) so với trung bình của khí hậu đã duy trì trong vài thập niên hoặc dài hơn. Sự biểu hiện của BĐKH thách thức loài người trong thế kỷ 21 là sự nóng lên toàn cầu cùng với sự gia tăng mực nước biển. Trong vòng 100 năm qua (1906-2005) nhiệt độ trung bình toàn cầu đã tăng 0,74oC, trong đó tốc độ tăng trong 50 năm gần đây gần gấp đôi so với 50 năm trước đó và chỉ trong vòng 10 năm từ 2001 đến 2010, nhiệt độ đã tăng hơn 0,5oC. Sự tăng lên của nhiệt độ trung bình mặt đất toàn cầu làm cho băng tan ở các vùng cực, trên đỉnh núi cao cùng với sự giãn nở nước ở các đại dương làm cho mực nước trung bình ở các đại dương tăng cao. Trong giai đoạn 1961-2003 (khoảng 40 năm) mực nước biển tăng với tốc độ trung bình 1,8mm/năm, nhưng trong vòng 10 năm gần đây (1993-2003) mực nước biển tăng lên với tốc độ trung bình 3,1mm/năm, cao hơn gần gấp đôi so với trước đó. Nhiều kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng: BĐKH sẽ gây ra một số hệ quả tiêu cực trên thế giới như: Hành lang san hô "Great Barrier Reef" di sản thiên nhiên thế giới tại Australia sẽ bị tan rã; Rừng nhiệt đới Amazon có nguy cơ biến thành sa mạc; Sa mạc Sahara sẽ biến thành rừng; Sẽ xuất hiện nhiều cơn bão mạnh hơn bão Katrina; Thủ đô London của Anh sẽ bị chìm dưới mực nước biển vào năm 2100; Số lượng cá thể của một số loài động vật suy giảm (cá, sinh vật phù du, các loài vi khuẩn), sự co cụm của một số loài động vật (các đàn cừu trên một hòn đảo ở Scotland); Nhiều hòn đảo ở Indonesia (2.000 đảo, thực tế 24 đảo trong số 17.500 đã biến mất) và quần đảo Maldives (thấp và bằng phẳng nhất thế giới đang ngày càng bị thu hẹp) sẽ bị nhấn chìm trong đại dương,…(lược trích trong Những thông tin cập nhật về BĐKH dùng cho các đối tượng cộng đồng-Nhà xuất bản tài nguyên-môi trường và bản đồ Việt Nam). Hiện tượng El Nino: Theo chu kỳ từ 2 đến 7 năm, một dòng nước ấm bất thường, với nhiệt độ đôi khi cao hơn 2-3oC so với bình thường, hình thành ở vùng biển nhiệt đới phía đông Thái Bình Dương sẽ tạo ra một hiện tượng biến đổi khí hậu ngắn hạn tự nhiên gọi là hiện tượng El Nino. Hiện tượng này không chỉ gây ảnh hưởng đến môi trường nước ở khu vực mà nó đi qua mà còn thúc đẩy các hiệu ứng thời tiết khắc nghiệt trên khắp thế giới. * Nguyên nhân gây ra BĐKH: BĐKH có thể là do các quá trình tự nhiên như: thời kỳ băng hà, thời kỳ ấm áp, tuy nhiên nếu là do tự nhiên thì các thời kỳ này phải kéo dài hàng trăm nghìn năm do đó không được xem là nguyên nhân của BĐKH trong giai đoạn hiện nay. BĐKH giai đoạn hiện nay là do hoạt động của con người (công nghiệp, nông nghiệp, giao thông,...) làm gia tăng khí nhà kính (CO2, CH4, N2O,....). Khí nhà kính (KNK) có khả năng giữ nhiệt cao, làm nhiệt độ bề mặt trái đất tăng dần lên dẫn đến sự tan dần của những khối băng vĩnh cửu ở Bắc cực, Nam cực, trên các đỉnh núi cao làm cho mực nước biển dâng cao. CO2 là loại KNK quan trọng nhất. Một lượng lớn khí CO2 phát thải từ sản xuất công nghiệp, giao thông vận tải sử dụng nhiên liệu hóa thạch (than đá, xăng, dầu,…). Sản xuất nông nghiệp cũng góp phần phát thải khí CO2, CH4. Nhiệt độ tăng làm tăng nguy cơ xảy ra sét (cứ nhiệt độ tăng 1oC, nguy cơ sét tăng 12%). Tia sét phóng ra với tốc độ 36.000 km/h, có sức nóng 30.000oC, có thể gây cháy rừng, ngoài ra nạn chặt phá rừng tràn lan cũng làm tăng nhanh hàm lượng CO2 trong khí quyển. Thời kỳ tiền công nghiệp (khoảng năm 1750) hàm lượng CO2 trong khí quyển chỉ vào khoảng 280 ppm nhưng từ sau thời kỳ tiền công nghiệp đến nay hàm lượng CO2 liên tục tăng, mức tăng trung bình trong giai đoạn 1960-2005 là 1,4 ppm/năm, giai đoạn 1995-2005 là 1,9 ppm/năm. Giai đoạn hiện nay, mỗi năm con người thải vào bầu khí quyển 22 tỷ tấn CO2. Theo báo cáo của Tổ chức khí tượng thế giới ngày 9/9/2014, lượng khí CO2 thải vào khí quyển đã tăng rõ rệt trong năm 2013, đạt tới mức 396 ppm, tức là tăng 2,9 ppm so với năm 2012, đây là mức tăng hàng năm cao nhất trong vòng 30 năm qua. Hàm lượng 350 ppm là con số mà nhiều nhà khoa học, các chuyên gia khí hậu và chính phủ các nước hiện nay cho là giới hạn trên an toàn của khí CO2trong khí quyển của chúng ta. Vì vậy, một Chiến dịch mang tên 350.org đã được triển khai trên phạm vi toàn cầu và lấy ngày 24/10 hàng năm là Ngày quốc tế hành động vì BĐKH. II. Tác động của BĐKH Là một quốc gia nằm trên bán đảo của Biển Đông thông ra Thái Bình Dương, với hơn 75% dân số sống dọc theo một bờ biển dài hơn 3.200 km và tại 02 đồng bằng sông Hồng và sông Cửu Long, Việt Nam thuộc vào loại các nước bị ảnh hưởng nhiều nhất của BĐKH toàn cầu và mực nước biển dâng. Các nhà khoa học trên thế giới và trong nước khẳng định rằng Việt Nam là 1 trong 5 nước (Việt Nam, Ai Cập, Suriname, Bahamas, Bangladesh) bị ảnh hưởng nặng nề nhất của biến đổi khí hậu và mực nước biển dâng. * Kịch bản về biến đổi khí hậu ở Việt Nam: Với sự trợ giúp từ Chương trình phát triển của Liên hiệp quốc (UNDP), một số cơ quan chuyên môn và nhà tài trợ quốc tế, vào tháng 8/2009, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã tính toán và đưa ra 03 kịch bản BĐKH (cao, trung bình, thấp) đối với Việt Nam, trong đó kịch bản trung bình đã đưa ra kết quả dự báo rằng: - Về nhiệt độ: vào cuối thế kỷ 21, nhiệt độ trung bình năm có thể tăng lên 2,60C ở Tây Bắc; tăng 2,50C ở Đông Bắc; tăng 2,40C ở đồng bằng Bắc bộ; tăng 2,80C ở Bắc Trung bộ; tăng 1,90C ở Nam Trung bộ; tăng 1,60C ở Tây nguyên và tăng 2,00C ở Nam bộ so với trung bình của thời kỳ 1980-1999. - Về lượng mưa: tổng lượng mưa và lượng mưa trong mùa mưa ở tất cả các vùng khí hậu của nước ta đều tăng, trong đó lượng mưa mùa khô có xu hướng giảm, đặc biệt là ở các vùng khí hậu phía Nam. Tính chung cho cả nước, lượng mưa cả năm vào cuối thế kỷ 21 tăng khoảng 5% so với thời kỳ 1980-1999. Ở các vùng phía Bắc mức tăng lượng mưa sẽ nhiều hơn so với khu vực phía Nam. - Về nước biển dâng: mực nước biển sẽ dâng 30cm vào năm 2050 và cuối thế kỷ 21 sẽ dâng khoảng 75cm (Theo Bộ Tài nguyên và Môi trường, nhiệt độ trung bình ở nước ta trong khoảng 50 năm qua tăng 0,70C và mực nước biển quan trắc ở các trạm Cửa Ông (Vịnh Hạ Long), Hòn Dấu (Đồi Sơn) tăng khoảng 20cm; tính trung bình mực nước biển ở Việt Nam đã tăng thêm 12cm). Năm 2012, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã công bố kịch bản biến đổi khí hậu cập nhật từ kịch bản năm 2009. Năm 2016 Bộ Tài nguyên và Môi trường sẽ tiếp tục công bố kịch bản biến đổi khí hậu mới. Nhìn chung kịch bản sau kế thừa kịch bản trước nhưng cụ thể, chi tiết hơn. Năm 2016 kịch bản biến đổi khí hậu sẽ cụ thể, chi tiết đến cấp huyện để các địa phương chủ động hơn trong xây dựng các kế hoạch ứng phó với BĐKH. * Những tác động của BĐKH đối với ĐBSCL: Nếu mực nước biển dâng 100 cm sẽ ảnh hưởng 38,9% diện tích đất củaĐồng bằng Sông Cửu Long, cáctỉnhbị ảnh hưởng nhiều nhất làHậu Giang(80,62%),Kiên Giang(76,9%). - Thu hẹp diện tích đất nông nghiệp, giảm sản lượng lúa và cây ăn quả: Theo tính toán và tiên đoán của các nhà khoa học, nếu mực nước biển dâng theo kịch bản trung bình cao thì sản lượng lương thực của ĐBSCL sẽ giảm gần một nửa, các vùng chuyên canh cây ăn trái, nuôi trồng thủy hải sản chắc chắn sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Và như thế, vấn đề an ninh lương thực sẽ bị đe dọa nếu như không có biện pháp chủ động phòng ngừa, đối phó; đặc biệt, đáng quan tâm tới vấn đề này vì ĐBSCL là vựa lúa của cả nước cũng như thế giới. - Tăng diện tích bị nhiễm mặn: ĐBSCL được xác định là vùng chịu ảnh hưởng nặng nề bởi BĐKH Đây cũng là vùng chịu tác động rất lớn sự thay đổi về biên độ triều của mực nước biển. Mực nước biển dâng lên sẽ làm triều cường tiếp tục lên cao hơn và gia tăng xâm nhập mặn. Tương đương với mực nước biển dâng cao thêm 75cm vào cuối thế kỷ 21 thì cư dân nhiều vùng thấp ven biển thậm chí sẽ không có nước ngọt để uống vì các nguồn nước bị nhiễm mặn, ảnh hưởng cực kỳ đến sản xuất nông nghiệp và đời sống người dân với 70% là nông dân. Từ đầu năm 2015 dòng chảy thượng nguồn sông Mê Công bị thiếu hụt, mực nước thấp nhất trong vòng 90 năm qua và không còn khả năng đẩy mặn, dẫn đến mặn trên sông đã xuất hiện sớm hơn gần hai tháng so với cùng kỳ và xâm nhập sâu về phía thượng lưu, nơi xa nhất hơn 90km. Theo số liệu quan trắc, độ mặn lớn nhất đều cao hơn so với trung bình nhiều năm (TBNN) và vượt quá độ mặn lớn nhất cùng kỳ đã từng quan trắc được trong lịch sử: ranh giới độ mặn 4g/l đã lấn sâu tới 90-95km trên sông Vàm Cỏ, 45 - 65km trên sông Tiền, 55-60km trên sông Hậu và 60-65km ở khu vực ven biển Tây (Sông Cái Lớn). Phạm vi xâm nhập mặn nêu trên vượt so mức TBNN từ ít nhất 5-10 km đối với khu vực ven biển Tây; 10-15 km ở khu vực sông Vàm Cỏ và Sông Hậu đến lớn nhất 20-25 km đối với sông Tiền. Kết quả quan trắc cũng cho thấy độ mặn lớn nhất cũng cao hơn so với mức lớn nhất cùng kỳ trong lịch sử. Tình trạng hạn hán, xâm nhập mặn nêu trên đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất và đời sống của người dân vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Các tỉnh ven biển Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Kiên Giang và Cà Mau có nhiều diện tích cây trồng bị thiệt hại do hạn hán, xâm nhập mặn. Tổng diện tích thiệt hại là 126.798 ha; trong đó, 78.137 ha thiệt hại trên 70% năng suất (chiếm 62%), 45.740 ha thiệt hại từ 30-70% năng suất (chiếm 36%), 2.921 ha thiệt hại dưới 30% năng suất (chiếm 2%). Các tỉnh bị thiệt hại nhiều là Cà Mau: 49.343 ha, Kiên Giang: 34.093 ha, Bạc Liêu: 11.456 ha và Bến Tre: 10.755 ha. Hạn hán, xâm nhập mặn cũng đã ảnh hưởng lớn đến việc cấp nước sinh hoạt tại một số khu vực sử dụng nước mặt, nhất là các vùng chưa có công trình cấp nước, tập trung ở các khu vực cửa sông, ven biển, như: Cà Mau, Kiên Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Hậu Giang, Long An, Tiền Giang, Bạc Liêu. - Chết rừng ngập mặn: Các khu vực ven biển với hệ thống rừng ngập mặn đóng vai trò là lá chắn của vùng. Khi nước biển dâng cao sẽ có một số cây chết do bị ngập, khi ấy diện tích rừng ngập mặn sẽ thay đổi. Khi rừng bị mất thì các loài sinh vật khác trong hệ sinh thái rừng ngập mặn cũng sẽ bị đe dọa. Đồng thời, mất rừng ngập mặn là mất đi lá chắn để ngăn sóng to, bão tố, xói lở bờ biển, sạt lở các đê phòng hộ… dẫn tới gia tăng ảnh hưởng của các loại thiên tai đối với đời sống và lao động, sản xuất của dân cư ven biển. - Ảnh hưởng tới các công trình: BĐKH và nước biển dâng sẽ làm trầm trọng thêm tình trạng ngập lụt nặng nề trong mùa mưa tại nhiều vùng thấp ven biển gây khó khăn cho việc thoát nước; tăng xói mòn, sụp lở các con đê ven bờ biển, ven sông và hệ thống đê bao chống lũ, ngăn mặn trong khu vực; làm hư hỏng hệ thống cơ sở hạ tầng như đường giao thông, các bến cảng, bến tàu thuyền, trường học, nhà máy, các khu dân cư… - Gia tăng dịch bệnh: Biến đổi khí hậu cũng sẽ làm gia tăng sốt xuất huyết và bệnh nhiệt đới như sốt rét vì lăng quăng sinh trưởng nhanh khi nước ấm hơn, muỗi cái tiêu hóa máu nhanh hơn và đốt thường xuyên hơn khi nhiệt độ tăng lên. Ngoài ra, không khí ấm bất thường cũng đã khiến cho loài muỗi vằn sinh sản sớm và gia tăng mật độ. Đồng thời, nhiều loại bệnh khác trên người và gia súc, gia cầm sẽ bùng nổ trên diện rộng. Tác động tới kinh tế – xã hội: - Biến động trong sản xuất : Nếu không có giống mới chịu được mặn, kinh tế lúa và kinh tế vườn sẽ giảm sút; kinh tế biển sẽ tăng trưởng nhanh nhưng chưa chắc sẽ bù đắp lại hai sự sụt giảm trên; đầu tư trong lĩnh vực công thương nghiệp càng khó thu hút hơn. - Xây dựng kết cấu hạ tầng đã tốn kém càng tốn kém hơn. - Biến động về phân bố dân cư, đô thị và các trung tâm, cơ sở kinh tế: sẽ diễn ra sự dịch chuyển trong nội vùng và ra ngoài vùng ĐBSCL. - Cuộc sống của hàng chục triệu người dân sẽ gặp xáo trộn lớn. - Vai trò vựa lúa của cả nước, nguồn đóng góp quan trọng cho tổng kim ngạch xuất khẩu và ngân sách nhà nước mà Đồng bằng sông Cửu Long đang đảm nhiệm sẽ chịu thách thức nghiêm trọng; - Nhiều khía cạnh về an ninh quốc phòng sẽ được đặt ra, trước tiên là an ninh lương thực cho cả nước. * Những tác động cụ thể của BĐKH đối với tỉnh Tiền Giang: Tiền Giang nằm ven bờ sông Tiền thuộc hệ thống sông Cửu Long, tiếp giáp với biển Đông, có 32km bờ biển và có hệ thống sông rạch chằng chịt, chịu tác động của chế độ bán nhật triều truyền từ biển Đông qua các cửa Tiểu, Đại, cửa Soài Rạp đi sâu vào nội đồng. BĐKH làm mực nước biển dâng cao hơn, xâm nhập mặn vào đất liền càng ngày càng sâu hơn làm cho nhiều vùng đất của Tiền Giang bị ảnh hưởng mặn, gây khó khăn rất nhiều cho đời sống và sản xuất nông nghiệp là nghề chính của nhân dân trong tỉnh (trên 70% dân số tỉnh Tiền Giang sống bằng kinh tế nông nghiệp). Mùa khô năm 2016 trên các cửa sông (sông Tiền và Vàm Cỏ) mặn xuất hiện sớm, độ mặn cao và lấn sâu vào nội đồng nhanh hơn so với trung bình nhiều năm gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất lúa vụ Đông xuân 2015-2016 trong vùng ngọt hóa Gò Công của tỉnh cụ thể như sau: - Tại cống Vàm Giồng, độ mặn luôn duy trì ở mức cao, độ mặn cao nhất dao động từ 5,00 - 8,20 g/l. Cống Vàm Giồng đã đóng ngăn mặn từ 20/11/2015 (độ mặn 2,0g/l) sớm hơn cùng kỳ 20 ngày. Đến ngày 05/3, độ mặn cao nhất đo được 7,8 g/l, cao hơn cùng kỳ năm 2015 là 3,3 g/l. - Tại cống Xuân Hòa, độ mặn dao động trong khoảng 1,50-3,70g/l (từ ngày 05-25/01/2016). Cống Xuân Hòa đóng ngày 05/01/2016 sớm hơn cùng kỳ 02 tháng. Đến ngày 05/3, độ mặn cao nhất đo được 3,3g/l, cao hơn cùng kỳ năm 2015 là 2,8 g/l. Đến ngày 25/02/2016 độ mặn 2,60g/l đã xâm nhập đến thành phố Mỹ Tho(cách cửa biển 50km); độ mặn 1,10g/l (ngày 25/02/2016) đã xâm nhập đến ĐồngTâm, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang (cách cửa biển 55km). Đến ngày 05/03/2016 độ mặn 1,05g/l đã xâm nhập đến thành phố Mỹ Tho(cách cửa biển 50km), cao hơn cùng kỳ năm 2015 là 1,05 g/l; độ mặn 0,14g/l(ngày 25/02/2016) đã xâm nhập đến Đồng Tâm, huyện Châu Thành, tỉnh TiềnGiang (cách cửa biển 55km), cao hơn cùng kỳ năm 2015 là 0,14 g/l. - Vụ lúa Thu Đông năm 2015: Có 1.837 ha bị thiệt hại, trong đó: 945 ha thiệt hại trên 70% và 892 ha thiệt hại từ 30-70%. - Vụ lúa Đông Xuân năm 2015-2016: Trong vùng ngọt hóa Gò Công, mặc dù các địa phương đã rất chủ động tổ chức bơm để đáp ứng yêu cầu sản xuất, tuy nhiên tại khu vực cuối nguồn, mực nước nội đồng thấp, chất lượng nước kém, nguồn - Ngoài ra, do ảnh hưởng mặn đã làm cho 20 ha nhãn, 80 ha mãng cầu xiêm và 40 ha sả trên địa bàn huyện Tân Phú Đông bị thiệt hại từ 30%-70%. Ước thiệt hại trong sản xuất nông nghiệp khoảng 184,250 tỷ đồng. BĐKH đã, đang và chắc chắn sẽ tạo ra nhiều cơn sóng to, gió lớn, bão tố, lốc xoáy gia tăng hoành hành và ảnh hưởng nặng nề đến môi trường và con người trên địa bàn tỉnh Tiền Giang; làm tổn hại tài sản, nhà cửa và đe dọa sinh mạng của nhân dân, nhất là những người đi biển, đi sông hoặc sinh sống trên các cồn vùng cửa sông, ven biển. BĐKH đã, đang và sẽ làm gia tăng xói lỡ đất ven biển là điều rất khó khắc phục, nhất là khi thảm rừng ngập mặn có chức năng phòng hộ không được trồng và chăm sóc tốt hoặc bị phá đi để lấy đất làm công trình khác như xây dựng khu công nghiệp…. Việc gia tăng lũ lụt làm ảnh hưởng tới đời sống và sản xuất của nhân dân vùng phía Tây của tỉnh là nơi sản xuất lúa cao sản và vùng chuyên canh cây ăn quả. Thêm nữa, ô nhiễm môi trường tại các vùng ngập lũ sâu và kéo dài cộng với nhiệt độ gia tăng sẽ dẫn tới nguy cơ bùng phát dịch bệnh trên người, gia súc và gia cầm, mà đặc điểm ở các vùng nông thôn trong tỉnh Tiền Giang có tỷ lệ số hộ chăn nuôi rất cao với tổng số lượng gia súc, gia cầm rất lớn. 1. Trồng trọt: BĐKH dẫn đến biến đổi đặc tính của đất làm ảnh hưởng đến sinh trưởng của các loại cây trồng. Nhiều loại cây trồng không thể thích nghi kịp với sự thay đổi của thời tiết. Hiện tượng khô cằn cùng với việc mặn hóa, giảm lượng nước ngọt làm cho diện tích đất canh tác ngày càng bị thu hẹp. Rủi ro tăng lên do lũ lụt bất thường. Các mối đe dọa từ việc tăng sâu bệnh và dịch bệnh do thay đổi trong phân bố dịch bệnh truyền bệnh. Theo đánh giá của Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB), nếu nhiệt độ tăng thêm 1,00C, năng suất lúa sẽ giảm 10%. Và theo nghiên cứu của ngân hàng thế giới (WB), khi mực nước biển dâng cao từ 20-60 cm sẽ có từ 100.000 đến 200.000 ha đất bị ngập và làm thu hẹp diện tích đất sản xuất nông nghiệp. Những năm lũ lớn, khoảng 90% diện tích của Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) bị ngập từ 4-5 tháng, vào mùa khô khoảng trên 70% diện tích bị xâm nhập mặn với nồng độ lớn hơn 4g/l. Ước tính Việt Nam sẽ mất đi khoảng 2 triệu ha đất trồng lúa trong tổng số 4 triệu ha hiện nay, đe dọa nghiêm trọng đến an ninh lương thực quốc gia và ảnh hưởng đến hàng chục triệu người dân. BĐKH làm thay đổi điều kiện sinh sống của các loài sinh vật, dẫn đến tình trạng biến mất của một số loài và ngược lại làm xuất hiện nguy cơ gia tăng các loài sâu bệnh, dịch rầy nâu, vàng lùn, lùn xoắn lá ở ĐBSCL diễn ra ngày càng phức tạp ảnh hưởng đến khả năng thâm canh tăng vụ và làm giảm sản lượng lúa. 2. Chăn nuôi BĐKH làm nhiệt độ tăng cao, thay đổi lượng mưa, diện tích đất canh tác bị thu hẹp, lũ lụt và hạn hán gia tăng, ảnh hưởng đến các hệ thống sản xuất thức ăn chăn nuôi: giảm sản lượng lương thực, gây thiếu hụt nguồn cung cấp nước, làm mất cân bằng môi trường sinh thái và giảm năng suất đồng cỏ. Hậu quả của sự thay đổi này là làm giảm sức đề kháng của vật nuôi, làm tăng khả năng bùng phát, lây lan dịch bệnh làm giảm năng suất sinh trưởng và sinh sản ở vật nuôi kéo theo hiệu quả chăn nuôi thấp; và tình trạng khan hiếm nước đẩy chí phí cung cấp nước cho chăn nuôi tăng cao. BĐKH làm cho khí hậu thay đổi thất thường, khi nhiệt độ tăng cao làm ảnh hưởng đến mức chịu đựng của một số loài, môi trường sinh thái xấu đi tạo điều kiện cho một số vi sinh vật có hại gây bệnh cho vật nuôi. Tiền Giang có số lượng gia súc, gia cầm nuôi tương đối lớn, theo kết quả điều tra thời điểm 01/4/2016 cả tỉnh đàn trâu có 329 con, giảm 4,4% so cùng kỳ; đàn bò có 89.077 con, tăng 6,2%, đàn lợn có 604.668 con, tăng 8,8%; tổng đàn gia cầm có 7,8 triệu con, tăng 6,7%, đóng góp nhiều cho sự phát triển kinh tế của tỉnh. Khi biến đổi khí hậu xảy ra làm cho tình hình dịch bệnh trên đàn vật nuôi sẽ gia tăng, người chăn nuôi sẽ tốn nhiều chi phí, thời gian hơn đồng thời rủi ro cho đàn vật nuôi sẽ nhiều hơn. Năm 2010, theo báo cáo của Ban chỉ đạo phòng chống dịch heo tai xanh tỉnh Tiền Giang, dịch xảy ra trên địa bàn tỉnh từ ngày 1-7 đến ngày 06/8/2010 đã ghi nhận dịch tại 127/169 xã, phường ở tất cả 10 huyện với 33.830 con heo chiếm tỉ lệ 6% số hộ nuôi heo và 6,2% tổng đàn heo trong toàn tỉnh Tiền Giang, mức thiệt hại tới hơn 400 tỉ đồng. 3. Nuôi trồng thủy sản Hoạt động nuôi trồng thủy sản thường xuyên chịu tác động của thời tiết và thiên tai như nước biển dâng, nhiệt độ tăng, bão lũ, sóng lớn, triều cường và các hiện tượng thời tiết cực đoan khác. Những biểu hiện này của BĐKH có thể gây ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến nuôi trồng thủy sản gây nhiều thiệt hại về kinh tế, xã hội cho người nuôi. Tháng 01/2013, trong một công bố của Tổ chức DARA International về tính dễ bị tổn thương với BĐKH, Việt Nam được xếp ở mức báo động đỏ, là nước đứng đầu danh sách về mức thiệt hại thủy sản do BĐKH. Theo số liệu dự báo diện tích đất nuôi trồng thủy sản với các mức độ tổn thương do tác động của biến đổi khí hậu trong nhiệm vụ "Điều tra, đánh giá tình trạng dễ bị tổn thương với biến đổi khí hậu làm cơ sở xây dựng các chính sách và hoạt động hỗ trợ hiệu quả cho các vùng chịu tác động của biến đổi khí hậu" (Viện Kinh tế và Quy hoạch thủy sản, 2012) thì vùngĐồng bằng sông Cửu Longcó diện tích đất nuôi trồng thủy sản bị tổn thương rất lớn. Giai đoạn 2012 - 2015, diện tích đất nuôi trồng thủy sản rất dễ bị tổn thương là 104.930 ha và đến năm 2020, diện tích này là 96.621 ha. Tình hình nuôi trồng thủy sản ở Tiền Giang năm 2016: Diện tích nuôi trồng thủy sản các loại trong tháng 5/2016 đạt 971 ha, ước tính 5 tháng đầu năm 2016 đạt 10.234 ha (trong đó thuỷ sản nước ngọt 4.035 ha), giảm 14,3% so cùng kỳ. Nguyên nhân, do tình hình thời tiết bất thường: nắng nóng kéo dài, mực nước trên các sông ngòi, kênh rạch thấp nên các hộ nuôi chưa tiến hành thả nuôi; mặt khác tình hình xâm nhập nặm sâu vào đất liền nên đã ảnh hưởng đến việc nuôi nước ngọt nhất là các huyện phía Đông; các hộ nuôi tôm thâm canh đang thu hoạch và cải tạo ao, đầm cho vụ nuôi mới khi độ mặn và thời tiết thích hợp thì tiến hành thả giống. Sản lượng thủy sản thu hoạch trong tháng được 14.476 tấn, ước tính 5 tháng đạt 85.659 tấn, giảm 6,3% so cùng kỳ. Trong đó: sản lượng thu hoạch từ nuôi đạt 45.816 tấn, giảm 13,7% so cùng kỳ. sản lượng giảm là do ảnh hưởng tình hình khô hạn và xâm nhập mặn từ đó diện tích nuôi giảm. Tình hình dịch bệnh trên tôm, có 26,49 ha/16,8 triệu giống tôm nuôi thâm canh, bán thâm canh ở huyện Tân Phú Đông bị thiệt hại. Đã sử dụng 9.540 kg Chlorine/72 hộ/25,04 ha để xử lý môi trường nuôi. Vào trung tuần tháng 6/2016, tại vùng nuôi trồng thủy sản ven biển tỉnh Bạc Liêu xảy ra hiện tượng nghêu, hàu chết hàng loạt. Tổng diện tích bị thiệt hại hơn 520 ha, với sản lượng hơn 1.500 tấn, làm thiệt hại kinh tế của người dân hơn 30 tỷ đồng qua kết quả điều tra xác định nguyên nhân xảy ranghêu, hàu chết hàng loạtở tỉnh này là do sốc môi trường nước. Cụ thể, vào thời điểm trên Bạc Liêu đang cao điểm mùa nắng, độ mặn nước biển cao, khi gặp những cơn mưa lớn đầu mùa, trùng hợp với triều cường rút, lượng nước mưa nhiều dẫn đến sốc nước ngọt. Khi một số con chết, làm ô nhiễm nguồn nước, lây lan ra diện rộng, dẫn đến chết hàng loạt. Theo kết quả ghi nhận của ngành chuyên môn, ở thời điểm này tổng lượng mưa trên địa bàn lên đến 351 mm, cao hơn 22% so cùng kỳ. Không chỉ mưa lớn, mà còn diễn ra liên tiếp nhiều ngày, làm nguồn nước, độ mặn thay đổi đột ngột, một số loài thủy hải sản khó thích nghi. Mưa nhiều, bất thường, thời tiết diễn biến cực đoan, đây cũng là sự tác động bởi ảnh hưởng của biến đổi khí hậu toàn cầu. 4. Tác động đến đời sống xã hội của người dân nông thôn Biến đổi khí hậu tác động trực tiếp lẫn gián tiếp đến sức khỏe cộng đồng. Tác động trực tiếp của BĐKH đến sức khoẻ con người thông qua mối quan hệ trao đổi vật chất,năng lượnggiữa cơ thể người vớimôi trườngxung quanh, dẫn đến những biến đổi về sinh lý, tập quán, khả năng thích nghi và những phản ứng của cơ thể đối với các tác động đó. Các đợt nắng nóng kéo dài, nhiệt độ không khí tăng, gây nên những tác động tiêu cực đối với sức khoẻ con người, dẫn đến gia tăng một số nguy cơ đối với tuổi già, những người mắc bệnh tim mạch, bệnh thần kinh, dị ứng. Tác động gián tiếp của BĐKH đến sức khoẻ con người thông qua những nguồn gây bệnh, làm tăng khả năng bùng phát và lan truyền các bệnh dịch như bệnh cúm A/H1N1, cúm A/H5N1, tiêu chảy, dịch tả... BĐKH làm tăng khả năng xảy ra một số bệnh nhiệt đới như sốt rét, sốt xuất huyết, viêm não Nhật Bản, làm tăng tốc độ sinh trưởng và phát triển nhiều loại vi khuẩn và côn trùng, vật chủ mang bệnh (ruồi, muỗi, chuột, bọ chét, ve). BĐKH là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự xuất hiện trở lại của một số bệnh truyền nhiễm ở vùng nhiệt đới (sốt rét, sốt Dengue, dịch hạch, dịch tả), xuất hiện một số bệnh truyền nhiễm mới (SARS, cúm A/H5N1, cúm A/H1N1), thúc đẩy quá trình đột biến của virut gây bệnh cúm A/H1N1, H5N1 nhanh hơn. BĐKH còn là nguyên nhân làm tăng vấn đề ô nhiễm nguồn nước, tăng nguy cơ thiếu nước ngọt do giảm trữ lượng nước ngọt. Vào mùa khô, nắng nóng, nguồn nước cấp cho sinh hoạt người dân các huyện phía đông của tỉnh không đảm bảo. Nguồn nước vừa thiếu vừa không đảm bảo chất lượng là một khó khăn cho việc đảm bảo sức khỏe người dân vừa là trở ngại lớn cho sự phát triển kinh tế của người dân vùng nông thôn. Mùa khô năm 2016, tình trạng thiếu nước ngọt xảy ra nghiêm trọng trên địa bàn toàn khu vực phía đông của tỉnh. Hậu quả của BĐKH là thách thức nghiêm trọng đối với các mục tiêu dân số, mục tiêu xóa đói,giảm nghèo, mục tiêu thiên niên kỷ và phát triển bền vững của đất nước. Nghiên cứu của Tổ chức Care quốc tế tại Việt Nam cho thấy, phụ nữ sẽ chịu ảnh hưởng nhiều nhất dưới tác động của BĐKH. III- Ứng phó với BĐKH Tại Tiền Giang, Ủy ban nhân dân tỉnh thường xuyên quan tâm, chỉ đạo các đơn vị, sở, ngành liên quan trên toàn tỉnh thực hiện nghiêm túc các chính sách, pháp luật trong công tác ứng phó với BĐKH; bảo đảm yêu cầu phối hợp công tác, trao đổi thông tin trong giải quyết công việc theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao; chỉ đạo hướng dẫn việc điều phối, lồng ghép các chương trình, kế hoạch, nguồn lực của các sở, ngành và đoàn thể liên quan; chỉ đạo, đôn đốc, đánh giá kết quả thực hiện Kế hoạch hành động ứng phó với biến đổi khí hậu của tỉnh được Ủy ban nhân dân tỉnh phê duyệt tại Quyết định số 3569/QĐ-UBND ngày 31/12/2012. Nhiều hoạt động ứng phó với BĐKH đã được triển khai trên địa bàn tỉnh. Các hoạt động tiêu biểu như: Tại các huyện phía tây, đầu tư nâng cấp mở rộng các kênh rạch thoát lũ, Nạo vét các kênh, rạch kết hợp nâng cấp các đê bao kiểm soát lũ bảo vệ sản xuất lúa, màu, cây ăn trái (dự án 5 trục thoát lũ qua Quốc lộ 1A, dự án kiểm soát lũ bảo vệ vườn cây ăn trái Ba Rài-Ông Mười, Cái Bè-Trà Lọt v.v…). Tại các huyện phía Đông: Củng cố và nâng cấp hệ thống đê biển, đê sông, đê cửa sông (xây kè bảo vệ đê biển Gò Công Đông, đê cửa sông Đèn Đỏ v.v….). Nghiên cứu và từng bước thực hiện các giải pháp khôi phục và phát triển rừng phòng hộ ven biển để chắn sóng bảo vệ đê, bảo vệ sản xuất, đồng thời bảo vệ các giống loài thủy sinh. Xây dựng các công trình chống, tránh, trú bão, các công trình bảo vệ các khu đông dân tại các thị xã, thị tứ, thị trấn, bảo vệ hạ tầng kinh tế - xã hội tập trung (như khu neo đậu tránh trú bão Vàm Láng, kè bảo vệ cù lao Tân Long tại thành phố Mỹ Tho, kè sông Tiền v.v…). Đầu tư, nâng cấp các công trình cấp nước nông thôn, các công trình vệ sinh tự hoại, xây dựng hầm Biogas tại khu vực chăn nuôi quy mô lớn theo hướng chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu. Công tác tuyên truyền, phổ biến nâng cao nhận thức đến người dân về tác động BĐKH được chú trọng. Thông tin truyền thông, tuyên truyền các chủ đề liên quan đến BĐKH, phổ biến, quán triệt chủ trương, giải pháp của Đảng, nhà nước chủ động ứng phó với BĐKH bằng nhiều hình thức với nhiều chương trình, dự án thực hiện, các tài liệu tuyên truyền như: tài liệu về BĐKH, các loại hình thiên tai và biện pháp phòng tránh, kiến thức sơ cấp cứu và tìm kiếm cứu nạn,…. Sự hình thành dự án ngọt hóa Gò Công là nền tảng cho việc ứng phó, nhằm hạn chế tác động của thiên tai và BĐKH. Tuy nhiên, do thiên tai và biến đổi khí hậu ngày càng diễn biến bất thường nên cần phải đầu tư nâng cấp bằng nguồn vốn lớn. Tỉnh đang tranh thủ các nguồn đầu tư bổ sung bên cạnh các nguồn vốn của Trung ương, tỉnh, huyện. Tỉnh đã cho chủ trương giao Ban Quản lý Dự án tỉnh lập báo cáo đánh giá tác động môi trường (ĐTM) cho Dự án chống xói lở, gây bồi và trồng cây chắn sóng bảo vệ tuyến đê biển Gò Công và Dự án các tuyến đê huyện Tân Phú Đông để kịp thời ứng phó với tình hình BĐKH, nước biển dâng. * Công tác triển khai ứng phó hạn mặn mùa khô năm 2016 Tỉnh đã ban hành Chỉ thị phòng chống hạn, mặn, cháy rừng năm 2016 trên địa bàn tỉnh (theo Chỉ thị số 15/CT-UBND ngày 11/11/2015 của Ủy ban nhân dân tỉnh); thành lập Ban Chỉ đạo phòng, chống hạn và xâm nhập mặn trên địa bàn tỉnh Tiền Giang năm 2016 (theo Quyết định số 261/QĐ-UBND ngày 29/01/2016 của Ủy ban nhân dân tỉnh); ban hành Quyết định công bố thiên tai xâm nhập mặn trên địa bàn tỉnh (theo Quyết định số 302/QĐ-UBND ngày 05/02/2016 của Ủy ban nhân dân tỉnh). Tổ chức nhiều hội nghị bàn về giải pháp vận hành công trình cấp nước phục vụ sản xuất, triển khai phòng chống hạn mặn, giải phóng chướng ngại vật lòng kênh đến tận các xã ngay từ đầu vụ và trong vụ Đông xuân 2015-2016. Để chủ động đối phó với hạn, mặn trong mùa khô năm 2015-2016, từ những ngày cuối năm 2015 tỉnh đã chủ động xây dựng và ban hành các Kế hoạch phòng chống hạn, mặn bảo vệ sản xuất và đảm bảo cấp nước mùa khô năm 2016 trên địa bàn tỉnh. Đồng thời, Ban Chỉ đạo phòng, chống hạn và xâm nhập mặn trên địa bàn tỉnh năm 2016 đã ban hành các Công điện, văn bản chỉ đạo các địa phương và ngoài ra, ngày 01/3/2016 Tỉnh ủy Tiền Giang đã ban hành Đảng văn để lãnh đạo công tác phòng chống hạn, xâm nhập mặn năm 2016 trên địa bàn tỉnh. Bằng các nguồn vốn, từ năm 2010 đến nay tỉnh đã chủ động đầu tư, nạovét các công trình thủy lợi nội đồng cơ bản đáp ứng được yêu cầu sản xuất.Trong năm 2016 theo kế hoạch tỉnh tiếp tục đầu tư 449 công trình, chiều dài530.629m, khối lượng 1.957.658m3, ước kinh phí khoảng 84,198 tỷ đồng. Đểchủ động ứng phó với hạn mặn, ngay từ những ngày đầu năm 2016, tỉnh (04huyện vùng ngọt hóa Gò Công) đã triển khai thi công được 30 công trình, chiều Trước diễn biến bất lợi của hạn, mặn, tỉnh đã chủ động tổ chức quan trắcđộ mặn ngoài sông, tranh thủ lấy nước tối đa bằng trọng lực (lấy qua cửa cốngđầu mối Xuân Hòa) và đã lắp đặt trạm bơm dã chiến (16 thuyền tương đương32.000m3/h) kinh phí 4,1 tỷ đồng để bơm bổ cấp nước ngọt vào vùng dự án lúcchân triều.Ngay từ những ngày đầu năm 2016 tỉnh có chủ trương cho các địaphương tổ chức bơm chuyền (bơm 2 cấp) đồng thời hỗ trợ kinh phí (1,6 tỷđồng) cho 04 huyện vùng ngọt hóa Gò Công mua máy bơm phục vụ chống hạnvụ Đông xuân 2015-2016. Các địa phương đã tổ chức bơm chuyền 2, 3cấp tại 674 điểm bơm, tưới cho 21.755 ha, khoảng 568.349,5 giờbơm tươngứng với kinh phí khoảng 22,7 tỷ đồng. Bên cạnh đó, chính quyền địa phương các cấp thường xuyên tổ chứctuyên truyền phổ biến đến nhân dân về diễn biến phức tạp của tình hình xâm nhập mặn,vận động nhân dân sử dụng tiết kiệm nước và giữ vệ sinh nguồn nước, phátđộng trong nhân dân ra quân giải phóng chướng ngại vật lòng kênh, tổ chức huyđộng đủ lượng máy bơm để bơm chuyền 2 cấp, bơm trữ nước trên ruộng, aođầm, trên kênh. Do tình hình diễn biến của hạn mặn rất phức tạp lãnh đạo Tỉnhủy, Ủy ban nhân dân tỉnh và các sở, ngành tỉnh thường xuyên đi kiểm tra tình * Thích ứng với BĐKH là quá trình làm giảm những tác động bất lợi của khí hậu đến sức khỏe, đời sống và sử dụng những cơ hội thuận lợi mà khí hậu mang lại như là: (i) Tuyên truyền phổ biến kiến thức, thông tin tình hình BĐKH và hành động giảm thiểu, thích ứng của ngành nông nghiệp - Nâng cao nhận thức của cộng đồng làm cho cả xã hội nhận thức đầy đủ về tính tất yếu của vấn đề và tầm ảnh hưởng toàn diện, toàn cầu của BĐKH, đặc biệt trên lĩnh vực nông nghiệp. - Xây dựng hệ thống chính sách, lồng ghép BĐKH với các chương trình, dự án trọng điểm của ngành. - Tiếp nhận và triển khai các đề tài, dự án trong và ngoài nước nhằm giảm nhẹ và thích ứng với BĐKH. (ii) Tăng cường hệ thống cảnh báo và dự báo thời tiết, khí hậu, thủy hải văn, quan trắc môi trường phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. (iii) Phát triển cơ sở hạ tầng bảo vệ sản xuất - Nâng cấp vững chắc các tuyến đê bao, cống chống lũ và xâm nhập mặn, ưu tiên cho các kênh rạch thuộc sông Tiền và sông Vàm Cỏ. - Quy hoạch, nạo vét hệ thống các kênh mương bị ô nhiễm, hoặc bùn lấp. - Củng cố và nâng cấp hệ thống cống, trạm bơm điện bảo đảm vững chắc bơm tưới tiêu phục vụ kịp thời và có hiệu quả cho sản xuất, đồng thời đẩy mạnh kiên cố hóa đường bộ, giao thông thủy lợi nội đồng. (iv) Nghiên cứu, ứng dụng khoa học – kỹ thuật mới vào sản xuất - Phát triển và sản xuất các giống cây trồng, vật nuôi, thủy sản mới có khả năng thích ứng tốt diễn biến thời tiết khắc nghiệt và tình hình dịch bệnh. - Đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng các mô hình canh tác sinh thái mới, hiệu quả cho phép chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi, thủy sản phù hợp với những diễn biến thời tiết khắc nghiệt và mực nước biển dâng. (Trong vụ hè thu 2016, nông dân Tân Phú Đông đã chuyển đổi trển 220 ha đất trồng lúa kém hiệu quả sang trồng sả chuyên canh, nâng tổng diện tích sả hiện có tại địa phương lên gần 900 ha, lớn nhất tỉnh Tiền Giang). - Đẩy mạnh áp dụng biện pháp kỹ thuật phù hợp (kỹ thuật biogas kết hợp sản xuất khí gas tái sinh và điện chiếu sáng) nhằm hạn chế, giảm thiểu sự phát sinh khí nhà kính từ ngành nông nghiệp, nhất là từ phân huỷ sinh học phân nước thải chăn nuôi. (v) Bảo vệ nguồn nước ngọt cho sinh hoạt và sử dụng trong sản xuất nông nghiệp - Quy hoạch khai thác, sử dụng hợp lý nguồn nước mặt, nước dưới đất. - Kiểm soát chặt chẽ các nguồn gây ô nhiễm nguồn nước từ chất thải rắn, nước thải : Thu gom, xử lý nước thải sinh hoạt, nước thải từ các hoạt động sản xuất, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản đạt quy chuẩn kỹ thuật trước khi thải ra môi trường. * Giảm nhẹ BĐKH là kéo giảm phát thải khí nhà kính (KNK là nguyên nhân gây ra BĐKH). Trên tổng thể, cắt giảm khí nhà kính CO2 là một biện pháp chính yếu và cũng là nhiệm vụ trọng tâm của các quốc gia trên thế giới để ứng phó hữu hiệu với BĐKH đang gia tăng. Việc cắt giảm khí nhà kính CO2 thông qua: - Từ việc sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả trong các hộ gia đình và các tòa nhà thương mại...; - Từ sự thay đổi trong cách tạo ra và sử dụng các loại năng lượng mới trong tất cả các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, giao thông và sinh hoạt; - Từ việc cắt giảm khí thải của tất cả các phương tiện giao thông, vận tải sử dụng xăng dầu; - Đạt được từ những phương sách ví dụ như xây dựng các cột thu CO2 trong công nghiệp nặng, trong các nhà máy, các khu công nghiệp lớn, vừa, nhỏ và trồng những cánh rừng mới để hấp thụ lượng khí carbon. Thực hành lối sống tiết kiệm: Tiết kiệm điện: - Dùng bóng đèn huỳnh quang compact để tiết kiệm 75% năng lượng so với bóng đèn nóng sáng; chỉ bật đèn ở những nơi cần thiết; - Đặt tủ lạnh ở nơi thoáng mát, cách tường ít nhất 10cm để giải nhiệt tốt, không cho thức ăn nóng vào tủ lạnh; - Không mở máy lạnh ở nhiệt độ thấp hơn 25oC trong thời gian kéo dài; - Không dùng các loại máy móc, thiết bị điện có công suất quá mức cần thiết so với nhu cầu; - Rút khỏi ổ cắm điện loại thiết bị thường để chế độ chờ. Tiết kiệm nước: - Không đổ bỏ nước sạch, tận dụng thu hứng và sử dụng nguồn nước mưa sạch để dùng sinh hoạt và uống; - Không bơm nước ngầm để sản xuất nông nghiệp; trữ nước sinh hoạt, nấu ăn không nhiễm bẩn để tưới cây; - Không để nước chảy liên tục hay chảy tràn khỏi dụng cụ chứa khi chảy răng, tắm gội, giặt rửa, hứng nước; - Kiểm tra và sửa chữa các chỗ rò rỉ trên những thiết bị, dụng cụ, van nước, đường ống dẫn nước…; - Lắp và sử dụng các loại van nước, đầu vòi tắm, thùng dội nước vệ sinh bằng loại tiết kiệm nước; - Tắm gội, giặt rửa nhanh hơn dưới các vòi nước đang chảy. Không lãng phí: - Không lãng phí thực phẩm, quần áo, vật dụng, bao bì, vật tư, nguyên liệu, xăng dầu... trong mua sắm và tiêu dùng để giảm bớt tiêu hao tài nguyên, năng lượng, lao động, thời gian và chi phí sản xuất cũng như xử lý chất thải. - Không lãng phí chất đốt: điều chỉnh ngọn lửa vừa, đun nấu nhanh khi dùng gas, điện, dầu…, sử dụng bếp kín và ít khói khi đun bằng rơm, rạ, củi, trấu…; tự sản xuất biogas để đun nấu. - Không dùng các loại xe, máy tiêu hao nhiều xăng, dầu, gas...; tăng cường sử dụng phương tiện giao thông cộng cộng; đi bộ hoặc sử dụng xe đạp khi di chuyển trên các quãng đường ngắn. Khai thác, sử dụng nguồn năng lượng sạch và ít gây hại: Để làm giảm ô nhiễm môi trường, làm chậm biến đổi khí hậu, tiết kiệm tài nguyên và giảm chi phí, con người cần hạn chế đốt than đá, dầu hỏa, khí tự nhiên, xăng, dầu, nhựa…. Thay vào đó, cần khai thác, chế biến và sử dụng các nguồn năng lượng sạch có sẵn trong thiên nhiên, được tái tạo, không bị cạn kiệt như năng lượng mặt trời, năng lượng gió, nhiên liệu sinh học…. Năng lượng mặt trời: Năng lượng mặt trời được ứng dụng rộng rãi để chưng cất hơi nước, đun nước nóng, đun nấu thức ăn, chạy máy bơm nước, máy phát điện, máy điều hòa không khí, sản xuất pin mặt trời…. Năng lượng gió: Gió là nguồn năng lượng sạch có ở khắp nơi, không phát thải khí gây ô nhiễm và làm hại môi trường. Dùng sức gió làm quay những cánh quạt khổng lồ của cối xay gió để xay bột, bơm quạt nước, và phát ra điện để sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau. Nhiên liệu sinh học: Khí sinh học - biogas - là kết quả phân huỷ các chất hữu cơ (rác, phân gia súc…) trong môi trường thiếu không khí. Biogas được dùng để đun nấu, thắp sáng, phát điện và chạy các động cơ, máy móc tàu xe thay xăng dầu. Sử dụng biogas rất ít hại cho môi trường và con người. Cồn hay Ethanol là sản phẩm thu được từ quá trình chưng cất các chất hữu cơ đã lên men từ ngũ cốc, sắn, phế liệu nông nghiệp, rác, mật rỉ đường. Ethanol được dùng thay xăng để chạy động cơ của tàu xe, các loại máy móc. Việc đốt Ethanol thải ra rất ít khí gây ô nhiễm so với đốt xăng dầu. Tận dụng các loại vật chất phế thải: Tận dụng các loại phế liệu và chất thải để tái chế và tái sinh thành những vật dụng hữu ích như: - Tận dụng phân chăn nuôi heo để tự sản xuất thành khí sinh vật (biogas) dùng đun nấu và thắp sáng ở trang trại, trong gia đình. - Thu gom và xử lý dầu thực vật phế thải sau quá trình chế biến thực phẩm thành nhiên liệu dùng chạy động cơ thay cho xăng dầu sẽ ít gây ô nhiễm môi trường và tránh gây lãng phí. - Các vỏ xe thải loại được thu gom đưa vào lò đốt với công nghệ thích hợp để thu khí đốt và dung dịch dầu lỏng. Khí thu được dùng đốt cho lò, còn dầu được ngưng tụ thành sản phẩm làm nhiên liệu dùng công nghiệp. Loại dầu này cho nhiệt lượng cao hơn dầu FO và tương đương với dầu DO mà mức độ ô nhiễm môi trường đạt tiêu chuẩn Việt Nam. - Tận dụng rác sinh hoạt để sản xuất thành phân hữu cơ bón cho cây trồng và sản xuất ra một số loại vật liệu xây dựng như gạch được sản xuất từ nhà máy rác Thủy Phương thuộc Công ty Tâm Sinh Nghĩa, đóng tại xã Thủy Phương, huyện Hương Thủy - Huế. Trồng và bảo vệ rừng, cây xanh, hoa kiểng: Tích cực trồng và bảo vệ rừng; trồng các loại cây xanh, hoa kiểng ở nơi công cộng, công viên, ven đường, ven sông, trong sân nhà… để làm đẹp, mát và giúp làm giảm khí nhà kính (CO2). B- TÌNH HÌNH Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG Theo Luật BVMT 2014 Môi trường là hệ thống các yếu tố vật chất tự nhiên và nhân tạo có tác động đối với sự tồn tại và phát triển của con người và sinh vật. Thành phần môi trường là yếu tố vật chất tạo thành môi trường gồm đất, nước, không khí, âm thanh, ánh sáng, sinh vật và các hình thái vật chất khác. Ô nhiễm môi trường là sự biến đổi của các thành phần môi trường không phù hợp với quy chuẩn kỹ thuật môi trường và tiêu chuẩn môi trường gây ảnh hưởng xấu đến con người và sinh vật. Hoạt động bảo vệ môi trường là hoạt động giữ gìn, phòng ngừa, hạn chế các tác động xấu đến môi trường; ứng phó sự cố môi trường; khắc phục ô nhiễm, suy thoái, cải thiện, phục hồi môi trường; khai thác, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên nhằm giữ môi trường trong lành. Ô nhiễm môi trường được hiểu là tình trạng môi trường bị ô nhiễm bởi các yếu tố vật lý, hóa học, sinh học... gây ảnh hưởng đến sức khỏe con người, các cơ thể sống khác. Ô nhiễm môi trường xảy ra là do con người và cách quản lý của con người. Ô nhiễm môi trường không khí là sự có mặt một chất lạ hoặc một sự biến đổi quan trọng trong thành phần không khí, làm cho không khí không sạch hoặc gây ra sự tỏa mùi, có mùi khó chịu, giảm tầm nhìn xa do bụi. Ô nhiễm môi trường nước là sự thay đổi theo chiều xấu đi các tính chất vật lý – hoá học – sinh học của nước, với sự xuất hiện các chất lạ ở thể lỏng, rắn làm cho nguồn nước trở nên độc hại với con người và sinh vật. Làm giảm độ đa dạng sinh vật trong nước. Ô nhiễm môi trường đất xảy ra khi đất bị nhiễm các chất hóa học độc hại (hàm lượng vượt quá giới hạn thông thường)do các hoạt động chủ động của con người như khai thác khoáng sản, sản xuất công nghiệp, sử dụng phân bón hóa học hoặc thuốc trừ sâu quá nhiều,... Ô nhiễm tiếng ồn (khi mức ồn vượt ngưỡng quy định tại QCVN 26) Chất lượng môi trường của tỉnh Theo kết quả quan trắc môi trường của tỉnh nguồn nước mặt và nước ngầm đang có dấu hiệu bị ô nhiễm và cạn kiệt, vùng ven biển đã bắt đầu bị ô nhiễm, một số khu đô thị và khu công nghiệp bị ô nhiễm do nước thải, khí thải, chất thải rắn... Các hiện tượng liên quan đến biến đổi khí hậu: xâm nhập mặn, bão tố, diễn biến bất thường về thời tiết… đang ảnh hưởng rất lớn môi trường tài nguyên và đời sống người dân trên địa bàn tỉnh. Để theo dõi diễn biến chất lượng môi trường của tỉnh, Sở Tài nguyên và Môi trường tổ chức quan trắc chất lượng môi trường với tần suất 03 tháng/ lần. Kết quả quan trắc cho thấy chất lượng môi trường của tỉnh hiện tại như sau: - Nước mặt: chất lượng nước mặt tại các điểm quan trắc hầu hết chỉ đạt mức có thể dùng cho tưới tiêu hoặc giao thông thủy; muốn sử dụng vào mục đích sinh hoạt, ăn uống thì cần phải xử lý lắng lọc, khử trùng. - Nước ngầm: chất lượng nước ngầm tại một số điểm quan trắc chưa đảm bảo tiêu chí dùng cho mục đích sinh hoạt, một số vị trí có giá trị vượt so với Quy chuẩn về độ cứng; muốn sử dụng vào mục đích sinh hoạt thì cần phải xử lý. - Nước biển ven bờ: hầu hết các thông số đều đạt Quy chuẩn cho phép, chỉ có thông số Coliform là vượt so với Quy chuẩn. Chất lượng nước chỉ được sử dụng cho mục đích phục vụ nuôi trồng thủy sản, bảo tồn thủy sinh, không phục vụ cho mục đích bãi tắm, thể thao dưới nước. - Môi trường không khí - ồn: chất lượng môi trường không khí tại các điểm quan trắc khu vực đô thị và nông thôn hiện tại tương đối tốt, hầu hết các thông số đều đạt giá trị giới hạn cho phép, tuy nhiên, một số điểm có giá trị vượt nhẹ so với Quy chuẩn về bụi lơ lửng và độ ồn, nguyên nhân là do đây là những vị trí có mật độ giao thông cao. Tuy nhiên, theo đánh giá và kết quả quan trắc chất lượng không khí xung quanh thì nồng độ Methyl mecarptan tại một số khu công nghiệp có loại hình sản xuất thức ăn thủy sản có lúc vượt Quy chuẩn Việt Nam 06: 2009 của Bộ Tài nguyên và Môi trường. Tại một số khu vực chăn nuôi tập trung nồng độ các chất gây mùi cũng dao động trong ngưỡng của quy chuẩn hoặc có lúc vượt nhưng ở mức độ nhẹ. Tuy mức độ các yếu tố gây mùi vẫn còn nằm trong quy chuẩn hoặc có vượt ở mức độ nhẹ nhưng theo đánh giá khả năng tác động đến đời sống sinh hoạt của người dân là rất lớn, do ngưỡng phát hiện mùi hôi từ khứu giác của con người là rất nhạy cảm. Ngoài ra, hiện nay hầu hết các bãi rác đều lộ thiên nên mùi hôi phát sinh từ sự phân hủy chất hữu cơ gây ô nhiễm môi trường. Kết quả quan trắc tại 3 bãi chôn lấp Kiểng Phước, Tân Lập và Long Chánh cho thấy nồng độ các chất như mercaptan, H2S tuy chưa vượt ngưỡng quy định nhưng đã vượt ngưỡng phát hiện mùi của con người. Trong đó, mercaptan vượt ngưỡng phát hiện mùi từ 3,96 – 6,34 lần. Tại một số kênh rạch, nước thải sinh hoạt, chăn nuôi được thải trực tiếp ra nguồn nước không những làm ô nhiễm nguồn nước mà ở những đoạn kênh rạch có sự lưu thông dòng chảy kém còn làm ứ đọng nước thải gây phát sinh mùi hôi, vấn đề này hiện nay có tác động rất lớn đến môi trường và sinh hoạt của người dân mà ngành chức năng cần phải quan tâm giải quyết. II- Một số vấn đề môi trường cần đặc biệt quan tâm của tỉnh - Xử lý chất thải rắn: Hiện nay trên địa bàn tỉnh chỉ có 02 bãi chôn lấp chất thải rắn, các bãi khác đều là những bãi đổ tạm và hiện đang quá tải. Hầu hết các bãi rác đều lộ thiên nên mùi hôi phát sinh từ sự phân hủy chất hữu cơ và nước rỉ rác từ các bãi này chưa được xử lý gây ô nhiễm môi trường. Các bãi rác của tỉnh đều không tiếp nhận CTR công nghiệp thông thường và các Doanh nghiệp phải tự ký hợp đồng với các đơn vị có chức năng của TP.HCM làm tăng chi phí thu gom, xử lý. - Xử lý nước thải của các đô thị: Hiện tại, tất cả các đô thị trên địa bàn tỉnh đều chưa có hệ thống thu gom tách riêng nước mưa và nước thải, chưa có hệ thống xử lý nước thải sinh hoạt tập trung. Nước thải sinh hoạt được xử lý bằng hầm tự hoại của các hộ gia đình và thoát ra cống thoát nước của đô thị rồi thải trực tiếp ra nguồn tiếp nhận. Do nguồn tiếp nhận nước thải cũng là nguồn nước được sử dụng để sản xuất nước sạch nên tỉnh luôn quan tâm đến việc xây dựng hệ thống thu gom và xử lý nước thải tập trung cho các đô thị. Tuy nhiên, đến nay tỉnh chưa bố trí được nguồn vốn để thực hiện. - Mùi hôi phát sinh từ hoạt động sản xuất của các nhà máy chế biến thức ăn chăn nuôi, chế biến thủy sản, sản xuất phân bón, thuốc bảo vệ thực vật và tái chế nhựa làm ảnh hưởng đến môi trường xung quanh. Tuy nhiên, cho đến nay các kết quả phân tích mẫu khí thải, mùi hôi qua các đợt kiểm tra đều không phát hiện hoặc mức độ phát hiện các thông số gây mùi hôi là rất thấp (nhưng mùi hôi từ cơ sở thì vẫn phát sinh liên tục gây tác động lớn đến người dân và các doanh nghiệp xung quanh); điều này gây khó khăn đối với việc xử lý vi phạm hành chính cũng như việc yêu cầu cơ sở phải tiếp tục đầu tư hoặc cải tạo việc xử lý khí thải, mùi hôi. thời gian qua trên địa bàn tỉnh phát sinh một số điểm nóng về môi trường được người dân phản ánh nhiều ánh nhiều lần do hoạt động của các cơ sở sản xuất, chế biến bột cá, thức ăn thủy sản… phát sinh khí thải, gây mùi hôi làm ảnh hưởng đến đời sống và sinh hoạt của người dân. Trên cơ sở phản ánh của người dân , Ủy ban nhân dân tỉnh đã chỉ đạo giải quyết quyết liệt vấn đề trên, như: yêu cầu chủ các cơ sở đầu tư hệ thống xử lý, vận hành thường xuyên hệ thống, tổ chức rà soát công tác thu gom khí mùi ở tất cả các khâu từ quá trình hoạt động trong dây chuyển sản xuất để đưa về hệ thống xử lý khí thải… nhưng việc gây mùi hôi từ hoạt động của các loại hình sản xuất này vẫn chưa được cải thiện. Việc kiểm soát mùi hôi đối với các cở trên được tỉnh thực hiện theo Điều 7, Điều 68 của Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 và đặc biệt là các Quy chuẩnkỹ thuật quốc gia: QCVN 06 : 2009/BTNMT, QCVN 19:2009/BTNMT và QCVN 20:2009/BTNMT. Trong quá trình thanh tra kiểm tra tỉnh cũng đã áp dụng các quy chuẩn (các thông số: NH3, H2S, mercaptan..) trên để để kiểm soát và đánh tình hình thực hiện công tác BVMT, đặc biệt là mùi hôi từ các cơ sở. Tuy nhiên, cho đến nay các kết quả phân tích mẫu khí thải, mùi hôi qua các đợt kiểm tra đều không vượt ngưỡng hoặc mức độ phát hiện các thông số gây mùi hôi là rất thấp (nhưng mùi hôi từ cơ sở thì vẫn phát sinh liên tục gây tác động lớn đến người dân và các doanh nghiệp xung quanh); điều này gây khó khăn đối với việc xử lý vi phạm hành chính cũng như việc yêu cầu cơ sở phải tiếp tục đầu tư hoặc cải tạo việc xử lý khí thải, mùi hôi. Do đó, vấn đề khí thải, mùi hôi đối với các doanh nghiệp này đến thời điểm hiện nay vẫn chưa được giải quyết triệt để và gây bức xúc trong nhân dân trên địa tỉnh. Theo đánh giá của địa phương thì việc gây ô nhiễm mùi hôi ngoài việc xuất phát từ công nghệ xử lý, quá trình vận hành hệ thống xử lý, công tác thu gom chưa triệt để còn có nguyên nhân từ yếu tố pháp lý (các quy chuẩn kỹ thuật quy định giá trị các thông số gây mùi tương đối cao hoặc các thông số gây mùi chưa thể hiện đầy đủ đối với đặc trưng của ngành nghề sản xuất bột cá, thức ăn thủy sản…) nên việc kiểm soát và xử lý đối với các trường hợp này tại địa phương rất khó khăn và lúng túng (Mùi hôi thì mức độ phát hiện theo khứu giác của con người thì rất hôi, thậm chí khó chịu và theo đánh giá thì mức độ tác động là tương đối lớn, tuy nhiên, các kết quả đo đạc so sánh với các tiêu chuẩn, quy chuẩn thì không vượt nên không thể xử lý vi phạm hành chính cũng như yêu doanh nghiệp thực hiện các biện pháp khắc phục hậu quả…). Theo Công văn số 1916/TCMT-KSON ngày 19/8/2016 của Tổng cục Môi trường (Bộ Tài nguyên và Môi trường) thì hiện nay các phương pháp xác định ô nhiễm mùi mới chỉ được nghiên cứu và đưa vào thực tiễn ở Mỹ, Úc và một số nước châu Âu. Ở châu Á chỉ có Nhật Bản có kiểm soát mùi hôi, còn ở các nước Đông Nam Á hay Trung Quốc thì chưa có tiêu chuẩn này. Việc tham khảo các kinh nghiệm của thế giới về phương pháp xác định các chất gây mùi phục vụ cho công tác thanh tra và kiểm soát môi trường cho thấy rằng, các phương pháp tiêu chuẩn là một hệ thống các quy trình khép kín bao gồm các trình tự công đoạn sau: đào tạo các hội thẩm mùi; lấy mẫu mùi và lưu giữ; chuẩn bị phòng thí nghiệm phân tích mùi; chuẩn bị thiết bị phân tích mùi nhạy cảm; quy trình xác định phân tích mẫu mùi và quy trình xử lý, đánh giá, báo cáo kết quả phân tích mùi, mà sự thành công cho cả phương pháp tiêu chuẩn phụ thuộc vào rất nhiều các yêu tố chủ quan và khách quan. Bộ Tài nguyên và Môi trường đã tiến hành nghiên cứu việc kiểm soát ô nhiễm mùi dựa vào phương pháp cảm quan nêu trên. Tuy nhiên sau khi nghiên cứu tình hình thực tế cho thấy việc kiểm soát ô nhiễm về mùi bằng phương pháp cảm quan chưa thực sự khả thi ở Việt Nam, vì vậy tạm thời chưa có các quy định đối với việc kiểm soát ô nhiễm về mùi. - Việc kiểm tra công tác bảo vệ môi trường đối với các cơ sở nằm trong đất quốc phòng gặp rất nhiều khó khăn: hiện tại, trên địa bàn tỉnh có nhiều cơ sở hoạt động thuộc đất quốc phòng bị người dân xung quanh nhiều lần phản ánh về ô nhiễm môi trường. Nhưng do đây là đất quốc phòng thuộc quyền quản lý của Cục Hậu cần Quân khu 9 nên gây khó khăn cho tỉnh trong công tác thanh tra, kiểm tra công tác bảo vệ môi trường đối với các cơ sở này. - Công tác giám sát quá trình vận hành hệ thống xử lý chất thải của các doanh nghiệp, cơ sở: tuy hầu hết các doanh nghiệp, cơ sở trên địa bàn tỉnh đều có lắp đặt hệ thống xử lý nước thải, khí thải nhưng tỉnh còn khó khăn trong việc giám sát quá trình vận hành của các hệ thống này (nhất là việc có hoặc không có vận hành thường xuyên các hệ thống xử lý nước thải, khí thải đã được lắp đặt). Vẫn còn tình trạng DN hoạt động chưa chấp hành nghiêm các quy định của pháp luật về BVMT như: không thực hiện đúng, đầy đủ các nội dung đã cam kết trong Báo cáo ĐTM hoặc Bản cam kết BVMT; quản lý thu gom chất thải rắn, CTNH chưa triệt để, thực hiện việc giám sát chất thải, giám sát môi trường xung quanh chưa đúng quy định; không thực hiện thủ tục kiểm tra, xác nhận các công trình, biện pháp bảo vệ môi trường trước khi đưa dự án đi vào vận hành chính thức. III-Giải pháp khắc phục Trong thời gian tới Sở Tài nguyên và Môi trường sẽ tập trung vào các nội dung chính sau: - Phối hợp chặt chẽ với các sở, ngành tỉnh và UBND các huyện, thành, thị tham mưu UBND tỉnh tổ chức triển khai hiệu quả Nghị quyết X Tỉnh Đảng bộ, Nghị quyết Đại hội Đảng XII, tiếp tục nghiên cứu các Nghị quyết Trung ương và địa phương; các quy định pháp luật về BVMT và cụ thể hóa bằng các quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án về BVMT,… trong từng năm, từng giai đoạn. - Kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về BVMT, tăng cường năng lực đội ngũ cán bộ làm công tác BVMT các cấp tỉnh, huyện, xã; Đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát hoạt động của Chi cục BVMT, các phòng TN&MT, các đơn vị sự nghiệp thuộc Sở để kịp thời giải quyết hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết những khó khăn, vướng mắc về chuyên môn nghiệp vụ BVMT; Đẩy mạnh ứng dụng CNTT vào công tác chỉ đạo điều hành và thực hiện nhiệm vụ BVMT, áp dụng các công cụ kinh tế, công nghệ tin học vào quản lý môi trường; Sử dụng hiệu quả nguồn kinh phí sự nghiệp môi trường hàng năm đồng thời tranh thủ các nguồn vốn của trung ương và địa phương để thực hiện các dự án BVMT kịp thời và có hiệu quả cao. - Phối hợp chặt chẽ với các sở ban ngành, hội, đoàn thể các cấp để tăng cường tuyên truyền BVMT sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân; xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng lực lượng tuyên truyền viên nòng cốt về BVMT, đặc biệt ở cấp huyện, xã; tổ chức xây dựng và nhân rộng các mô hình về BVMT. Mặt khác, đề cao trách nhiệm, tăng cường sự tham gia có hiệu quả của UBMTTQ, các tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội, các phương tiện truyền thông và quần chúng nhân dân trong việc giám sát, phản ảnh việc gây ô nhiễm môi trường của các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh để cơ quan chức năng kịp thời kiểm tra, xử lý, khắc phục ô nhiễm. - Hướng dẫn thực hiện tốt và nâng cao chất lượng thẩm định nội dung, yêu cầu BVMT trong các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, dự án phát triển, dự án đầu tư trên địa bàn tỉnh hướng đến sự phát triển bền vững. Tổ chức quản lý tốt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất hàng năm của địa phương. Xây dựng hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu về các nguồn thải làm cơ sở cho việc kiểm tra, giám sát nguồn thải, theo dõi diễn biến chất lượng các thành phần môi trường, đánh giá khả năng tiếp nhận nguồn thải phục vụ công tác quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội; Quy hoạch khu tập trung dành riêng cho các doanh nghiệp sản xuất phát sinh mùi hôi khó khắc phục, gây ô nhiễm môi trường kéo dài, tiềm ẩn nguy cơ ô nhiễm môi trường cao và xây dựng kế hoạch có xác định lộ trình, thực hiện di dời các cơ sở sản xuất này đến khu vực quy hoạch sẵn. - Tăng cường hiệu quả quản lý bảo vệ môi trường từ đầu vào: Tăng cường công tác quan trắc, giám sát môi trường đất, nước, không khí tại các KCN, CCN và khu vực dân cư xung quanh. Hướng dẫn thực hiện tốt và nâng cao chất lượng thẩm định nội dung, yêu cầu BVMT trong các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, dự án phát triển, dự án đầu tư trên địa bàn tỉnh; Thực hiện việc thẩm định chặt chẽ các báo cáo ĐTM, kế hoạch BVMT, đề án BVMT để làm cơ sở pháp lý quản lý lâu dài; Đề xuất giải pháp rút ngắn thời gian thẩm định, phê duyệt các Báo cáo ĐTM nhằm tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư. - Tăng cường kiểm soát ô nhiễm tại nguồn đối với chất thải, đặc biệt đối với nước thải, khí thải, chất thải rắn: Khuyến khích các cơ sở ứng dụng và chuyển giao các giải pháp công nghệ về xử lý chất thải, xử lý ô nhiễm; Quản lý chất thải, nhất là chất thải nguy hại trong sản xuất công nghiệp, dịch vụ y tế; Đảm bảo phát triển các KCN, CCN đồng bộ với các điều kiện hạ tầng kỹ thuật về môi trường; Phối hợp thực hiện Quy hoạch quản lý chất thải rắn trên địa bàn tỉnh Tiền Giang, trong đó xây dựng các khu xử lý chất thải rắn tập trung và bãi chôn lấp; Chất thải rắn được thu gom, xử lý đến năm 2020 đạt trên 95%; trên 90% cơ sở sản xuất, kinh doanh và dịch vụ xử lý chất thải đạt tiêu chuẩn môi trường; Thu gom và xử lý nước thải sinh hoạt đô thị cho thành phố Mỹ Tho, thị xã Cai Lậy, thị xã Gò Công khi có nguồn vốn đầu tư; Tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả Phương án thu gom rác thải nông thôn trên địa bàn tỉnh Tiền Giang (phương án số 3810/PA-STNMT ngày 11/9/2015) nhằm tăng cường thu gom, tập trung xử lý, khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường do chất thải rắn tại các khu vực nông thôn; Kiểm soát và quản lý các chất thải từ hoạt động trồng trọt (bao bì thuốc BVTV…); Tăng cường công tác BVMT trong hoạt động chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, nhất là đối với các cơ sở chăn nuôi tập trung quy mô vừa và quy mô lớn; Hạn chế tình trạng ô nhiễm môi trường tại các trang trại, cơ sở chăn nuôi quy mô nhỏ, hộ gia đình; Phối hợp tổ chức thực hiện có hiệu quả Đề án tổng thể Bảo vệ môi trường làng nghề đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030 trên địa bàn tỉnh Tiền Giang, trong đó chú trọng thực hiện các dự án thu gom, xử lý nước thải, khí thải sản xuất có khả năng gây ô nhiễm môi trường cao tại các làng nghề và cải thiện chất lượng môi trường thị trấn Vàm Láng, khu cảng cá, bến cá; Trong xây dựng nông thôn mới, đến năm 2020, có 50% số xã cơ bản đạt tiêu chí thứ 17 về môi trường. - Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm: Đẩy mạnh hoạt động kiểm tra, cấp giấy xác nhận việc đã thực hiện các công trình, biện pháp bảo vệ môi trường phục vụ giai đoạn vận hành của dự án sau khi được phê duyệt báo cáo ĐTM; Tăng cường thanh tra, kiểm tra việc chấp hành các quy định pháp luật về đất đai, tài nguyên nước, môi trường tại các KCN, CCN, các cơ sở sản xuất, kinh doanh trên địa bàn tỉnh; Xử lý nghiêm các cơ sở sản xuất, kinh doanh vi phạm, kiên quyết tạm đình chỉ hoạt động hoặc cấm hoạt động theo quy định của pháp luật đối với các trường hợp vi phạm nghiêm trọng, nhất là các trường hợp có phản ánh kéo dài của người dân; Kiểm soát chặt chẽ hoạt động nhập khẩu phế liệu; Tăng cường phối hợp liên ngành trong kiểm soát hoạt động nhập khẩu phế liệu vào tỉnh, xử lý nghiêm những tổ chức, cá nhân nhập khẩu phế liệu không đáp ứng các quy định về BVMT; Thực hiện tốt việc công khai thông tin các đơn vị, cơ sở vi phạm pháp luật về BVMT. * Giải quyết vấn đề về mùi hôi Thời gian qua, các ngành chức năng của tỉnh đã rất nỗ lực trong công tác quản lý nhà nước đối với ô nhiễm môi trường do mùi hôi như: - Thường xuyên tổ chức tuyên truyền, nâng cao nhận thức về bảo vệ môi trường cho các cá nhân, tổ chức; giám sát doanh nghiệp, cơ sở sản xuất trong việc vận hành các hệ thống xử lý khí thải, mùi hôi; thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về bảo vệ môi trường; Tổ chức đối thoại giữa người dân với doanh nghiệp, cơ sở sản xuất và cơ quan nhà nước để họ thấy được sự bức xúc của người dân, qua đó quan tâm đầu tư cho công tác bảo vệ môi trường, tạo sự chia sẻ, đồng cảm của người dân với cơ quan nhà nước. - Tổ chức thẩm định chặt chẽ hồ sơ môi trường của các Dự án có khả năng gây ô nhiễm mùi hôi cao, đảm bảo cơ sở khoa học, tính khả thi, hiệu quả xử lý của các công nghệ xử lý khí thải, mùi hôi được áp dụng. - Hỗ trợ doanh nghiệp, cơ sở sản xuất đang hoạt động có gây mùi hôi kéo dài ảnh hưởng đến môi trường xung quanh nghiên cứu, tìm kiếm công nghệ, cũng như tham khảo ý kiến chuyên gia trong việc đầu tư hệ thống xử lý mùi hôi để có hướng xử lý phù hợp. Tuy nhiên, hiện nay vấn đề mùi hôi trong hoạt động sản xuất vẫn chưa được giải quyết triệt để. Để kiểm soát và giải quyết vấn đề trên trong thời gian tới các giải pháp sau cần tiếp tục thực hiện: - Kiểm tra, giám sát chặt chẽ đối với các cơ sở đang hoạt động có phát sinh mùi hôi, đặc biệt là việc kiểm soát quá trình vận hành hệ thống xử lý khí thải để hạn chế mùi hôi phát tán. Xử lý nghiêm các hành vi vi phạm về môi trường theo quy định pháp luật. - Thực hiện tốt quy hoạch, đặc biệt việc phát triển sản xuất phải phù hợp với quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch bảo vệ môi trường của tỉnh. Hạn chế việc phát sinh cơ sở mới bên ngoài các khu công nghiệp khu sản xuất tập trung. Đối với các KCN, CCN thì kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc BVMT theo thẩm quyền quản lý. - Các cơ quan quản lý nhà nước phải có sự phối hợp chặt chẽ trong cấp phép đối với các dự án đầu tư mới, các phương án sản xuất kinh doanh, trong đó chú trọng xem xét các yếu tố môi trường, đặc biệt là các loại hình có phát sinh khí thải và mùi hôi trước khi tiến hành cấp phép; kiên quyết không cấp mới, cấp điều chỉnh giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, giấy phép đầu tư trong khu dân cư tập trung đối với những ngành, nghề có khả năng gây ô nhiễm môi trường nói chung và làm phát sinh mùi hôi nói riêng. - Đẩy nhanh tiến độ thực hiện Đề án thành lập khu riêng dành cho các doanh nghiệp sản xuất gây ô nhiễm môi trường khó khắc phục để di dời các cơ sở gây ô nhiễm môi trường, đặc biệt là mùi hôi kéo dài theo chỉ đạo của Tỉnh ủy và UBND tỉnh. - Tiếp tục kiến nghị với Bộ TN&MT xem xét ban hành các quy chuẩn kỹ thuật quốc gia đặc thù, trong đó có bổ sung chi tiết các thông số gây mùi để làm cơ sở pháp lý trong việc kiểm tra, kiểm soát cũng như chế tài khi các doanh nghiệp vi phạm; ban hành quy định kiểm soát khí thải tự động liên tục (lắp đặt thiết bị quan trắc tự động) đối với cơ sở sản xuất có lưu lượng từ 200.000m3 khí thải/giờ (Theo Nghị định số 38/2015/NĐ-CP ngày 24/4/2015 của Chính phủ về quản lý chất thải và phế liệu, các ngành nghề chế biến thức ăn chăn nuôi, chế biến thủy sản, sản xuất phân bón, thuốc bảo vệ thực vật và tái chế nhựa không thuộc đối tượng phải lắp đặt thiết bị quan trắc khí thải tự động liên tục dù với quy mô sản xuất, xả thải nào); ban hành quy định kiểm soát năng lượng, nhiên liệu riêng cho quá trình vận hành hệ thống xử lý khí thải để kiểm soát quá trình vận hành liên tục của các hệ thống xử lý khí thải. * Giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường của các Doanh nghiệp hoạt động trên đất quốc phòng - Kiến nghị Trung ương ban hành cơ chế phối hợp trong việc kiểm tra công tác bảo vệ môi trường cũng như phân định rõ trách nhiệm quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường đối với các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm môi trường nằm trong đất quốc phòng. * Giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường từ các bãi rác, nước thải sinh hoạt Do khó khăn về nguồn vốn đầu tư các công trình bảo vệ môi trường công cộng như bãi chôn lấp chất thải rắn, hệ thống thu gom, xử lý nước thải đô thị, tiếp tục kiến nghị Trung ương hỗ trợ bố trí nguồn kinh phí và cơ chế kêu gọi đầu tư để thực hiện các công trình này. * Giải quyết vấn đề giám sát việc vận hành các hệ thống xử lý chất thải Hiện tại, các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc đối tượng phải thực hiện việc báo cáo kết quả thực hiện các công trình bảo vệ môi trường đều đã được cấp hoặc đang hoàn chỉnh hồ sơ để được cấp Giấy xác nhận hoàn thành các công trình bảo vệ môi trường phục vụ giai đoạn vận hành của dự án theo đúng quy định. Tuy nhiên, còn tồn tại một vấn đề là: đoàn kiểm tra để xem xét cấp Giấy xác nhận chỉ có thể đến kiểm tra vào lúc công trình đã hoàn thành và xem xét trên báo cáo hoàn công của cơ sở, chưa thể tham gia vào quá trình xây dựng, lắp đặt hệ thống. Do đó, đối với một số công trình bảo vệ môi trường, đặc biệt là các công trình xây dựng ngầm dưới lòng đất (do không có diện tích xây dựng) hoặc các đường ống thoát nước được lắp đặt ngầm dưới lòng đất thì khó có thể giám sát việc cơ sở có thực hiện đúng theo hồ sơ môi trường đã được cấp hay không. Do đó, kiến nghị Chính phủ có quy định về đơn vị giám sát độc lập đối với việc xây dựng, lắp đặt các công trình bảo vệ môi trường (giống như đơn vị giám sát độc lập đối với các công trình xây dựng). *Các nhiệm vụ chính về BVMT trong năm 2016 1. Đẩy mạnh tuyên truyền các quy định pháp luật về bảo vệ môi trường, về ứng phó với biến đổi khí hậu, bảo tồn đa dạng sinh học, ứng dụng công nghệ sinh học để xử lý chất thải; xây dựng, nhân rộng các mô hình về bảo vệ môi trường trên địa bàn tỉnh; tuyên truyền hướng dẫn thực hiện tiêu chí về môi trường trong xây dựng nông thôn mới; hướng dẫn, theo dõi, thực hiện chỉ tiêu thi đua về môi trường của các huyện, thị, thành. 2. Nghiên cứu các quy định pháp luật về bảo vệ môi trường để từ đó cụ thể hóa việc áp dụng các văn bản này tại địa phương và hướng dẫn thực đồng bộ, có hiệu quả và đảm bảo đúng quy định trên địa bàn 11 huyện, thị, thành của tỉnh Tiền Giang . 3. Rà soát, thống kê, tuyên truyền, vận động, hướng dẫn các cơ sở, sản xuất, kinh doanh, dịch vụ trên địa bàn tỉnh lập hồ sơ môi trường theo quy định tại Nghị định số 18/2015/NĐ-CP, Thông tư 26/2015/TT-BTNMT, Thông tư 27/2015/TT-BTNMT, không để xảy ra trường hợp cơ sở hoạt động mà không có hồ sơ môi trường; Bồi dưỡng kiến thức thẩm định, phê duyệt Đề án bảo vệ môi trường, kế hoạch bảo vệ môi trường cho UBND cấp xã và cán bộ phụ trách môi trường cấp xã, đẩy mạnh, phối hợp UBND cấp huyện trong việc ủy quyền UBND xã xem xét, đăng ký kế hoạch bảo vệ môi trường. Rà soát, thống kê, tuyên truyền, vận động, hướng dẫn các cơ sở, sản xuất, kinh doanh, dịch vụ trên địa bàn tỉnh nhận diện các loại chất thải nguy hại và áp dụng đúng quy định tại Thông tư 36/2015/TT-BTNMT. 4. Kiểm tra, hướng dẫn về nghiệp vụ cho phòng Tài nguyên và môi trường các huyện, thành, thị để nâng cao chất lượng thẩm định Đề án bảo vệ môi trường đơn giản và Kế hoạch bảo vệ môi trường; trong đó tập trung vào các địa phương có nhiều loại hình dự án/cơ sở sản xuất kinh doanh trong quá trình sản xuất, kinh doanh phát sinh các loại chất thải nhưng có phức tạp trong xử lý môi trường hoặc cần hướng dẫn, tập huấn thêm trong việc xem xét, đăng ký, hậu kiểm công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường; phối hợp UBND huyện Tân Phú Đông, phòng TN&MT Tân Phú Đông làm việc với UBND các xã trên địa bàn huyện đã được huyện ủy quyền xem xét, đăng ký kế hoạch bảo vệ môi trường. 5. Hỗ trợ xử lý các điểm gây ô nhiễm môi trường bức xúc ở địa phương - Tuyên truyền đến doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh biết và thực hiện theo quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường, các tiêu chuẩn và quy chuẩn Việt Nam về bảo vệ môi trường; khuyến khích áp dụng công nghệ sản xuất hiện đại, giảm thiểu ô nhiễm môi trường trước và sau khi đầu tư dự án; - Tham mưu xây dựng Đề cương Đề án di dời, thành lập một khu riêng dành cho các doanh nghiệp sản xuất gây mùi hôi khó khắc phục trình UBND tỉnh thẩm định phê duyệt và thực hiện trong năm 2016 và các năm tiếp theo. - Tiếp nhận, xử lý, báo cáo kết quả xử lý các ý kiến, kiến nghị, phản ánh của cử tri trước và sau các kỳ họp Đại biểu Quốc hội, kỳ họp Hội đồng nhân dân tỉnh trong năm 2016. - Tổ chức triển khai, kiểm tra việc thực hiện Phương án thu gom rác thải nông thôn trên địa bàn tỉnh Tiền Giang số 3810/PA-STNMT ngày 11/9/2015 của Sở Tài nguyên và Môi trường; Kế hoạch số 07/KH-UBND ngày 12/1/2016 của UBND tỉnh tăng cường công tác kiểm soát, khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trong hoạt động chế biến, nông sản, lâm sản, thủy sản. 6. Tăng cường công tác kiểm tra, phối hợp kiểm tra việc chấp hành các quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh trên địa bàn tỉnh; kiểm tra, xử lý các ý kiến, kiến nghị của cử tri. Tăng cường công tác hậu kiểm sau khi các hồ sơ môi trường đã được phê duyệt (không để xảy ra các trường hợp không có hậu kiểm) phê duyệt kiểm tra việc thực hiện các biện pháp BVMT trong các hồ sơ môi trường và xử lý các vi phạm về chấp hành các quy định bảo vệ môi trường đối với các khu, cụm công nghiệp và tại các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh, khai thác tài nguyên trên địa bàn tỉnh; tập trung giám sát, hướng dẫn khắc phục ô nhiễm tại các điểm nóng về ô nhiễm môi trường như: khu công nghiệp Mỹ Tho, khu công nghiệp Tân Hương, cụm công nghiệp Tân Mỹ Chánh, khu quân sự Đồng Tâm. 7. Tổ chức thực hiện việc lập, sửa đổi, bổ sung danh mục các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng cần phải xử lý triệt để; xác nhận cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng đã hoàn thành xử lý triệt để; kiểm tra công tác xử lý triệt để cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. 8. Tập trung thực hiện Nghị quyết số 70/NQ-HĐND ngày 11/12/2015 của Hội đồng nhân dân tỉnh về việc thực hiện các kiến nghị sau giám sát công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh trên địa bàn tỉnh tỉnh: Xây dựng dự thảo kế hoạch của UBND tỉnh lấy ý kiến góp ý của các ngành, địa phương; hoàn chỉnh dự thảo trình UBND tỉnh ký ban hành; xây dựng Kế hoạch thực hiện của Sở Tài nguyên và Môi trường; tổ chức triển khai thực hiện theo kế hoạch của Sở, báo cáo tổng hợp định kỳ về UBND tỉnh theo dõi, chỉ đạo; kiểm tra tình hình khắc phục ô nhiễm môi trường của các cơ sở như Công ty TNHH Uni – President VN CN Tiền Giang, Công ty TNHH Tong Wei Việt Nam, Công ty TNHH T.C.UNION VN, các DN trong CCN và TTCN Tân Mỹ Chánh, DNTN Hồng Huê, các DN KQS Đồng Tâm. 9. Thực hiện kiến nghị sau giám sát của Mặt trận tổ quốc tỉnh tại Báo cáo số 135/BC-ĐGS ngày 26/11/2015 của Đoàn giám sát của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh giám sát việc quản lý nhà nước và trách nhiệm của người dân về bảo vệ môi trường trên địa bàn tỉnh; Công văn số 5701/UBND-KTN ngày 26/11/2015 của Ủy ban nhân dân tỉnh Tiền Giang; trong đó, tập trung phối hợp với Sở Xây dựng, Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Tài Chính, Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Sở Nội vụ, Ban quản lý các Khu công nghiệp tỉnh và Ủy ban nhân dân các huyện, thị xã và thành phố Mỹ Tho nghiên cứu tổ chức triển khai thực hiện các kiến nghị của Đoàn giám sát của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh đối với Ủy ban nhân dân tỉnh trên từng lĩnh vực quản lý nhà nước và ý thức trách nhiệm của người dân về bảo vệ môi trường trên địa bàn tỉnh; các đơn vị phối hợp căn cứ chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của đơn vị nghiên cứu xây dựng kế hoạch triển khai và tổ chức thực hiện cũng như có các giải pháp thực hiện các mặt còn hạn chế theo Báo cáo số 135/BC-ĐGS ngày 26/11/2015; kết quả thực hiện phải có tổng hợp và báo cáo Ủy ban nhân dân tỉnh theo đúng thời gian quy định. 10. Tăng cường và đảm bảo công tác thu phí bảo vệ môi trường đối với nước thải công nghiệp theo quy định tại Nghị định 25/2013/NĐ-CP và Thông tư 63/2013/TTLT-BTC-BTNMT. 11. Xây dựng, quản lý hệ thống quan trắc môi trường; tổ chức thực hiện hoạt động quan trắc, quản lý, sử dụng có hiệu quả số liệu quan trắc môi trường. 12. Nâng cao chất lượng thẩm định nội dung, yêu cầu bảo vệ môi trường trong các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, dự án phát triển, dự án đầu tư trên địa bàn tỉnh; thực hiện việc thẩm định chặt chẽ các báo cáo đánh giá tác động môi trường, kế hoạch bảo vệ môi trường, đề án bảo vệ môi trường. 13. Triển khai thực hiện các quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án đã được Ủy ban nhân dân tỉnh phê duyệt; tập trung khắc phục ô nhiễm, cải thiện môi trường nông thôn, làng nghề; tổ chức triển khai có hiệu quả "Phương án thu gom rác thải nông thôn" trên địa bàn tỉnh; sử dụng hiệu quả nguồn kinh phí sự nghiệp môi trường năm 2016 để thực hiện các dự án phục vụ cho quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường. 14. Thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về biến đổi khí hậu. 15. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý nhà nước về BVMT; Triển khai sử dụng có hiệu quả phần mềm công cụ tin học trong quản lý doanh nghiệp./. TS. Nguyễn Hồng Thủy Tin liên quan
|