Xác định giá trị tư bản thương nghiệp

Tư bản thương nghiệp là một bộ phận của tư bản công nghiệp được tách rời ra và đảm nhận khâu lưu thông hàng hóa của tư bản công nghiệp. Công thức vận động của nó là: T - H - T'. b. Bản chất lợi nhuận thương nghiệp: Lợi nhuận thương nghiệp là một phần giá trị thặng dư được sáng tạo ra trong lĩnh vực sản xuất và do tư bản công nghiệp nhượng lại cho tư bản thương nghiệp, để tư bản thương nghiệp thực hiện chức năng lưu thông. c. VD: Tư bản công nghiệp ứng ra 900 để sản xuất hàng hóa với cấu tạo hữu cơ là 4/1 , tỷ suất giá trị thặng dư là 100%, tư bản cố định hao mòn hết trong một năm. Tổng giá trị hàng hóa là: 720c + 180 v + 180m = 1.080 Tỷ suất lợi nhuận là: (180/900) x 100% = 20%. Để lưu thông được số hàng hóa trên, giả định tư bản công nghiệp phải ứng thêm 100 nữa, tỷ suất lợi nhuận chỉ còn là: (180/(900+100)) x 100% = 18% Nếu việc ứng 100 này không phải là tư bản công nghiệp mà tư bản thương nghiệp ứng ra, thì nó cũng được hưởng một lợi nhuận tương ứng với 100 tư bản là 18. Vậy tư bản công nghiệp phải bán hàng hóa cho tư bản thương nghiệp với giá thấp hơn giá trị:

720c + 180v + (180m - 18m) = 1062. Còn tư bản thương nghiệp sẽ bán hàng hóa theo đúng giá trị, tức là 1.080 để thu được lợi nhuận thương nghiệp là 18.

-    Nguồn gốc, bản chất của lợi nhuận thương nghiệp

+ Việc tạo ra giá trị thặng dư và phân chia giá trị thặng dư là hai vấn để khác nhau. Lĩnh vực lưu thông cũng như hoạt động của các nhà tư bản thương nghiệp đúng là không tạo ra được giá trị thặng dư, nhưng do vị trí, tầm quan trọng của lưu thông đối với sự phát triển của sản xuất và tái sản xuất nên các nhà tư bản thương nghiệp vẫn được tham gia vào việc phân chia giá trị thặng dư cùng với các nhà tư bản công nghiệp và phần giá trị thặng dư mà các nhà tư bản thương nghiệp được chia chính là lợi nhuận thương nghiệp.

+ Như vậy, lợi nhuận thương nghiệp là một phần của giá trị thặng dư được sáng tạo ra trong lĩnh vực sản xuất và do nhà tư bản công nghiệp nhượng lại cho nhà tư bản thương nghiệp, để nhà tư bản thương nghiệp tiêu thụ hàng cho mình.

+ Tại sao nhà tư bản công nghiệp lại nhượng lại cho nhà tư bản thương nghiệp một phần giá trị thặng dư? Điều đó được giải thích như sau:

*    Tư bản thương nghiệp hoạt, động trong lĩnh vực lưu thông, đó là một khâu, một giai đoạn của quá trình tái sản xuất. Hơn nữa, hoạt động trong lĩnh vực này nếu không có lợi nhuận thì nhà tư bản thương nghiệp không thể tiếp tục đảm nhiệm công việc đó. Vì vậy, xuất phát từ lợi ích kinh tế của nhà tư bản thương nghiệp mà nhà tư bản công nghiệp nhượng lại cho nó một phần lợi nhuận.

*    Tư bản thương nghiệp góp phần mở rộng quy mô tái sản xuất.

*    Tư bản thương nghiệp góp phần mỏ rộng thị trường, tạo điều kiện cho công nghiệp phát triển.

*    Do tư bản thương nghiệp đảm nhận khâu lưu thông, nên tư bản công nghiệp có thể rảnh tay trong lưu thông và chỉ tập trung đẩy mạnh sản xuất. Vì vậy, tư bản của nó chu chuyển nhanh hơn, năng suất lao động cao hơn và nhờ đó lợi nhuận cũng tăng lên.

*    Tư bản thương nghiệp tuy không trực tiếp tạo ra giá trị thặng dư, nhưng góp phần làm tăng năng suất lao động, tăng lợi nhuận, do đó làm cho tỷ suất lợi nhuận chung của xã hội cũng tăng lên, góp phần tích lũy cho tư bản công nghiệp.

-    Sự hình thành lợi nhuận thương nghiệp

+ Trên thực tế, các nhà tư bản thương nghiệp thu lợi nhuận thương nghiệp từ chênh lệch giữa giá mua và giá bán. Nhưng điều đó không có nghĩa là nhà tư bản thường nghiệp bán hàng hóa cao hơn giá trị của nó mà là: nhà tư bản thương nghiệp mua hàng của nhà tư bản công nghiệp với giá thấp hơn giá trị (khi chấp nhận bán hàng với giá thấp hơn giá trị cho nhà tư bản thương nghiệp có nghĩa là nhà tư bản công nghiệp đã chấp nhận “nhượng” một phần giá trị thặng dư cho nhà tư bản thương nghiệp), sau đó, nhà tư bản thương nghiệp lại bán hàng cho người tiêu dùng với giá đúng giá trị của nó.

+ Để làm rõ quá trình phân chia giá trị thặng dư giữa nhà tư bản công nghiệp và nhà tư bản thương nghiệp, ta xét ví dụ sau đây (giả định trong ví dụ này không xét đến chi phí lưu thông):

Một nhà tư bản công nghiệp có một lượng tư bản ứng trước là 900, trong đó phân chia thành 720c + 180v. Giả định m’ = 100% thì giá trị hàng hóa sẽ là:

720c + 180v + 180m = 1.080

Tỷ suất lợi nhuận công nghiệp là:

Xác định giá trị tư bản thương nghiệp

Nhưng khi nhà tư bản thương nghiệp tham gia vào quá trình kinh doanh thì công thức trên đây sẽ thay đổi. Giả sử nhà tư bản thương nghiệp ứng ra 100 tư bản để kinh doanh. Như vậy, tổng tư bản ứng ra của cả hai nhà tư bản công nghiệp và thương nghiệp sẽ là: 900 + 100 = 1.000, và tỷ suất lợi nhuận bình quân sẽ là:

Xác định giá trị tư bản thương nghiệp

Theo tỷ suất lợi nhuận chung này, nhà tư bản công nghiệp chỉ thu được số lợi nhuận bằng 18% của số tư bản ứng ra (tức là 18% của 900, bằng 162) và nhà tư bản công nghiệp sẽ bán hàng hóa cho nhà tư bản thương nghiệp theo giá: 900 + 162= 1.062.

Còn nhà tư bản thương nghiệp sẽ bán hàng cho người tiêu dùng theo giá bàng giá trị hàng hóa, tức là 1.080.

Chênh lệch giữa giá bán và giá mua của nhà tư bản thương nghiệp chính là lợi nhuận thương nghiệp. Trong ví dụ này lợi nhuận thương nghiệp sẽ là:

Pthương nghiệp = 1.080 - 1.062= 18

Khoản lợi nhuận thường nghiệp 18 này cũng tương ứng với tỷ suất 18% của tư bản thương nghiệp ứng trước.

Loigiaihay.com

1TƯ BẢN THƯƠNG NGHIỆP VÀ LỢI NHUẬN THƯƠNG NGHIỆPPhần mở đầu1. Mục đích, yêu cầu* Mục đích: Giới thiệu để người học nắm rõ nguồn gốc, bản chất của tư bản thương nghiệp và lợi nhuận thương nghiệp dưới CNTB. Từ đó có nhận thức sâu sắc hơn bản chất của CNTB và sự vận dụng của Đảng ta trong phát triển thương nghiệp XHCN.* Yêu cầu:- Hiểu đựơc sự hình thành và phát triển của tư bản thương nghiệp- Nắm được bản chất của tư bản thương nghiệp dưới CNTB và vai trò của nó- Nắm được nguồn gốc bản chất của lợi nhuận thương nghiệp TBCN; chi phí lưu thông TBCN; chi phí lưu thông thuần tuý và chi phí tiếp tục quá trình sản xuất trong lưu thông; các hình thức thương nghiệp dưới CNTB.2. Nội dung, thời gian* N ộ i dung: Chủ đề được kết cấu gồm 2 phầnI. Tư bản thương nghiệp, nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận thương nghiệp.II. Chi phí lưu thông TBCN và các hình thức thương nghiệp dưới chủ nghĩa tư bản.* Th ờ i gian : Thời gian toàn bài 02 tiết, lên lớp 02 tiết.3. Phương pháp* Đối với người dạy: chủ yếu dùng phương pháp thuyết trình, có kết hợp trao đổi ngắn.* Đối với người học: nghe; ghi chép nội dung cơ bản; tốc ký theo ý hiểu những nội dung GV phân tích; tham gia trao đổi các vấn đề GV đặt ra.24. Tài liệu- Giáo trình Kinh tế học chính trị Mác-Lênin, Nxb CTQG, H. 1999, Chương IX- Kinh tế chính trị Mác - Lênin, tập 1, Nxb QĐND, H. 2008, Chương VII- C.Mác và Ăngghen, Toàn tập, Tập 25 phần I, Nxb. CTQG, H. 1994, tr. 425 – 504- C. Mác, Tư bản, Quyển 3, Tập 1, NXB. Sự Thật, H.1978, tr. 505Phần nội dungI. TƯ BẢN THƯƠNG NGHIỆP, NGUỒN GỐC VÀ BẢN CHẤT CỦA LỢI NHUẬN THƯƠNG NGHIỆP1. Tư bản thương nghiệp dưới chủ nghĩa tư bản* Khái ni ệ m TBTN : Tư bản thương nghiệp là tư bản hoạt động trong lĩnh vực lưu thông, đảm nhiệm chức năng thực hiện giá trị hàng hoá nhằm mục đích thu lợi. TBTN là là loại tư bản ra đời sớm nhất trong lịch sử. Bởi vì tiền đề cho sự ra đời của nó là lưu thông hàng hoá và lưu thông tiền tệ, phát triển tới một mức độ nhất định.Nhưng bản chất của TBTN trước CNTB khác về căn bản với TBTN dưới CNTB. Vậy thực chất của TBTN trước CNTB và TBTN trong CNTB là gì vai trò của nó như thế nào?- Tư bản thương nghiệp ra đời trước chủ nghĩa tư bản, lợi nhuận do tư bản thương nghiệp mang lại chủ yếu là do mua rẻ, bán đắt. - Trước CNTB, tư bản thương nghiệp có vai trò to lớn trong việc làm tan rã chế độ phong kiến, đẩy nhanh quá trình tích luỹ nguyên thuỷ tư bản, thúc đẩy sự ra đời của phương thức sản xuất TBCN.Cùng với sự ra đời của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, tư bản thương nghiệp dưới chủ nghĩa tư bản cũng có những biến đổi khác trước.3* Tư bản thương nghiệp dưới CNTBDưới chủ nghĩa tư bản, tư bản thương nghiệp là một bộ phận của tư bản công nghiệp tách rời ra hoạt động chuyên biệt trong lĩnh vực lưu thông, phục vụ cho quá trình vận động của tư bản công nghiệp- Tư bản thương nghiệp dưới chủ nghĩa tư bản là một bộ phận của tư bản công nghiệp có nhiệm vụ chuyển hoá tư bản hàng hoá thành tiền tệ. Trong giai đoạn đầu của phương thức sản xuất TBCN, khi quy mô sản xuất còn nhỏ, các nhà tư bản thường đảm nhiệm cả chức năng sản xuất và lưu thông hàng hoá, khi đó, hàng hoá đi thẳng từ tay người sản xuất tới tay người tiêu dùng sau 1 hành vi lưu thông (H - T), đây cũng chính là điều giả định khi chúng ta nghiên cứu về nền sản xuất TBCN ở các chủ đề trước.Khi nền sản xuất tư bản phát triển đến một trình độ nhất định, quy mô sản xuất đủ lớn, phân công lao động xã hội phát triển đã dẫn tới kết quả là chức năng lưu thông hàng hoá được tách rời ra khỏi lĩnh vực sản xuất, xuất hiện một loại nhà tư bản chuyên đảm nhiệm công việc này, gọi là nhà tư bản thương nghiệp. Khi đó hàng hoá từ tay người sản xuất phải chuyển qua tay thương nhân trước khi tới tay người tiêu dùng sau hai hay nhiều hành vi lưu thông.Như vậy, tư bản thương nghiệp là một bộ phận của tư bản công nghiệp, vì tư bản thương nghiệp chỉ là một bộ phận tư bản hàng hoá chứ không phải toàn bộ tư bản hàng hoá trong xã hội. Thực tế trong xã hội luôn có một bộ phận hàng hoá không qua tay thương nhân mà chuyển trực tiếp từ tay người sản xuất tới tay người tiêu dùng.- Tư bản thương nghiệp có nguồn gốc từ tư bản công nghiệp nên nó vừa phụ thuộc vào tư bản công nghiệp, vừa có tính độc lập tương đối.Vì tư bản thương nghiệp là một bộ phận tư bản hàng hoá của tư bản công nghiệp nên tư bản thương nghiệp phụ thuộc vào tư bản công nghiệp theo 4nghĩa sản xuất quyết định lưu thông. Không có sản xuất thì không có hàng hoá để lưu thông, quy mô sản xuất quyết định quy mô tư bản thương nghiệp.Sự độc lập tương đối của tư bản thương nghiệp thể hiện ở chỗ, chức năng chuyển hoá tư bản hàng hoá thành tư bản tiền tệ đã trở thành chức năng riêng biệt của tư bản thương nghiệp, không liên quan tới nhà tư bản sản xuất. Sau khi nhà tư bản công nghiệp bán hàng cho nhà tư bản công nghiệp, coi như họ đã hoàn tất việc thực hiện giá trị hàng hoá và có thể tiếp tục quay trở lại quá trình sản xuất, công việc đưa hàng hoá tới tay người tiêu dùng bây gìơ hoàn toàn do thương nhân đảm nhiệm, để thực hiện công việc này thương nhân cũng phải ứng tư bản ra nhằm thu lợi nhuận, và tư bản của họ (tư bản thương nghiệp) chỉ hoạt động trong lĩnh vực lưu thông, không bao giờ mang hình thái tư bản sản xuất. Sự độc lập tương đối của tư bản thương nghiệp là nguy cơ tạo ra cầu giả tạo trên thị trường và là một trong những nguyên nhân làm trầm trọng thêm khủng hoảng sản xuất thừa, đặc biệt khi tín dụng TBCN đã phát triển.- Vai trò của TBTN trong nền sản xuất TBCN.+ Tiết kiệm chi phí lưu thông. Với một lượng chi phí tư bản nhất định, nhà tư bản thương nghiệp có thể đảm nhiệm khâu bán hàng cho nhiều nhà tư bản công nghiệp cùng sản xuất một loại hàng hoá, thậm chí một số loại hàng hoá khác nhau.+ Tạo điều kiện cho TBCN tập trung vào lĩnh vực sản xuất, từ đó nâng cao hiệu quả kinh tế, tăng giá trị thặng dư.+ Rút ngắn thời gian lưu thông, đẩy nhanh tốc độ chu chuyển của tư bản, làm tăng tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư.2. Nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận thương nghiệp.* Nguồn gốc của lợi nhuận thương nghiệp- Khái niệm: Lợi nhuận thương nghiệp là số chênh lệch giữa giá bán và giá mua hàng hoá, sau khi đã trừ chi phí lưu thông. Ký hiệu Ptn5Nhà tư bản thương nghiệp ứng ra một lượng tư bản nhất định , xây dựng cửa hàng, thuê công nhân bán hàng, mua hàng hoá của nhà tư bản công nghiệp với một mức giá nhất định, sau đó bán hàng hoá đó cho người tiêu dùng với mức giá cao hơn, số tiền chênh lệch giữa giá bán và giá mua hàng hoá, sau khi đã trừ đi chi phí lưu thông, chính là lợi nhuận thương nghiệp.Khi phân tích mâu thuẫn trong công thức chung của tư bản, chúng ta đã chứng minh được lưu thông không trực tiếp tạo ra giá trị và giá trị thặng dư, vậy nguồn gốc lợi nhuận thương nghiệp nói trên từ đâu mà có? - Lợi nhuận thương nghiệp TBCN là một bộ phận giá trị thặng dư được tạo ra trong lĩnh vực sản xuất, mà nhà tư bản công nghiệp nhượng cho nhà tư bản thương nghiệp, vì tư bản thương nghiệp đã đảm nhiệm thay chức năng lưu thông hàng hoá.Nguồn gốc của lợi nhuận thương nghiệp chính là một bộ phận lao động không được trả công của công nhân.Vấn đề đặt ra là cơ chế chuyển nhượng giá trị thặng dư giữa tư bản công nghiệp và tư bản thương nghiệp diễn ra như thế nào? ...- Cơ chế chuyển nhượng giá trị thặng dư giữa TBCN và TBTNTBTN thu lợi nhuận bằng cách bán hàng với giá cao hơn giá mua, nhưng điều đó không có nghĩa TBTN bán hàng cho người tiêu dùng với giá cao hơn giá trị, mà là mua hàng của nhà TBCN với giá thấp hơn giá trị xã hội.Để làm rõ vấn đề này chúng ta cùng xét một ví dụ sau:Ví dụ nhà TB công nghiệp có tổng tư bản ứng trước là 900, với cấu tạo hữu cơ 4/1 sẽ có 720c + 180v; giả định m’ = 100% và tư bản cố định hao mòn hết trong 1 năm. Khi đó,ótongr khối lượng giá trị TD (m) = 180 và tổng giá trị của sản phẩm xã hội (w) = 1080. (c+v+m)Nếu TBCN tự bán hàng tới tay người tiêu dùng mà không tốn thêm một lượng chi phí tư bản nào thì tỷ suất lợi nhuận bình quân P’ = (180/900) x 100% = 20%.6Muốn thực hiện được giá trị của hàng hóa, phải ứng thêm một lượng tư bản nhất định. Nhưng tư bản công nghiệp cần tập trung vào sản xuất nên nhường việc lưu thông hàng hóa cho thương nhân. Khi tư bản thương nghiệp tham gia vào quá trình kinh doanh thì công thức trên đây sẽ thay đổi. Giả sử khoản chi thêm này là 100, khi đó tổng tư bản sẽ là 1000 chứ không phải 900, và tỷ suất lợi nhuận bình quân sẽ là P’ = (180/1000) x 100% = 18%, chứ không phải 20%.Xét toàn bộ quá trình tái sản xuất thì tổng tư bản xã hội trong năm là 1000, trong đó tư bản sản xuất là 900 còn tư bản thương nghiệp là 100. Như vậy, nhà TB công nghiệp sẽ thu lợi nhuận bằng 18% của TB đã ứng ra, tức là 18% của 900 sẽ bằng 162.Để đảm bảo các nhà tư bản thu được lợi nhuận bình quân tương ứng với số tư bản ứng ra, nhà tư bản công nghiệp sẽ bán hàng cho nhà tư bản thương nghiệp với giá: 900 + 162 = 1062.Còn nhà tư bản thương nghiệp bán hàng hóa cho người tiêu dùng với giá: 1080=1062+18 (đúng bằng giá trị xã hội), tức là thu lợi nhuận là 18. Như vậy, cũng thu được lợi nhuận bình quân của số tư bản thương nghiệp đã ứng ra là 18% Như vậy lợi nhuận thương nghiệp có được là do giá bán của thương nhân cao hơn giá mua, nhưng không phải vì giá bán cao hơn giá trị mà là giá mua thấp hơn giá trị hàng hoá. Vì vậy, lợi nhuận thương nghiệp là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư. Nguồn gốc của nó cũng là một bộ phận lao động không được trả công của công nhân.- Tới đây, chúng ta có thể khẳng định bản chất của lợi nhuận thương nghiệp phản ánh quan hệ bóc lột giữa tư bản công nghiệp và tư bản thương nghiệp với công nhân làm thuê trong lĩnh vực sản xuất. tư bản công nghiệp trực tiếp bóc lột, tư bản thương nghiệp gián tiếp bóc lột các công nhân này.7II. CHI PHÍ LƯU THÔNG TBCN VÀ CÁC HÌNH THỨC THƯƠNG NGHIỆP DƯỚI CNTB.1. Chi phí lưu thông TBCN.Hoạt động trong lĩnh vực thương nghiệp, các nhà TBTN ngoài việc ứng tiền mua hàng của TBCN còn phải bỏ ra một số khoản chi phí nhất định gọi là chi phí lưu thông. Khi nghiên cứu loại chi phí này, trước tiên ta tạm thời không xét tới loại hàng hóa vô hình, hàng hóa dịch vụ.Chi phí lưu thông TBCN gồm hai loại: chi phí tiếp tục quá trình sản xuất trong lưu thông và chi phí lưu thông thuần túy.a. Chi phí tiếp tục quá trình sản xuất trong lưu thông.- Khái niệm: Là loại chi phí làm cho giá trị sử dụng của hàng hóa đáp ứng tốt hơn nhu cầu tiêu dùng của xã hội hoặc làm cho giá trị sử dụng của hàng hóa thích ứng tốt hơn với nhu cầu của người tiêu dùng.Quá trình đưa hàng hóa từ tay người sản xuất tới tay người tiêu dùng, cần có những chi phí nhất định để vận chuyển hàng hóa, bảo quản giá trị sử dụng của hàng hóa, chi phí phân loại, gia công, đóng gói, … Những chi phí này có tác động tích cực hoặc bảo quản giá trị sử dụng, hoặc làm cho giá trị sử dụng của hàng hóa đáp ứng tốt hơn nhun cầu của người tiêu dùng.- Đặc điểm: loại chi phí này cũng giống như các chi phí sản xuất khác, lao động hao phí cho các hoạt động này cũng tạo ra giá trị và giá trị thặng dư và được nhập vào giá trị hàng hóa.Chi phí tiếp tục quá trình sản xuất trong lưu thông làm tăng giá trị hàng hóa và được nhập thêm vào giá bán, tuy nhiên, cũng như sự hình thành giá trị hàng hóa, xã hội chỉ chấp nhận mức hao phí trung bình. Còn những chi phí quá mức, có khi xa xỉ sẽ làm tăng những hư phí và tăng giá bán hàng hoá thì xã hội không thừa nhậnb. Chi phí lưu thông thuần túy.8- Khái niệm: Chi phí lưu thông thuần túy là loại chi phí gắn với sự chuyển hóa hình thái từ hàng hóa sang tiền tệ hoặc từ tiền tệ sang hàng hóa mà không liên quan tới giá trị sử dụng của hàng hóa.Để bán hàng, thương nhân phải bỏ ra một loạt các khoản chi khác như chi phí xây dựng cửa hàng, đặt đại lý, thuê công nhân bán hàng, quảng cáo, giao dịch thư tín, sổ sách kế toán, … Tất cả các khoản chi này không làm thay đổi giá trị sử dụng của hàng hóa nhưng là những khoản chi cần thiết để thực hiện giá trị và giá trị thặng dư.- Đặc điểm: khoản chi phí này không tạo ra giá trị và giá trị thặng dư kết tinh dưới hình thái hiện vật, nhưng vẫn cần được bù đắp để đảm bảo duy trì TSX. Theo nghĩa đó, đây được coi là các hư phí, và nó được khấu trừ vào khối lượng giá trị thặng dư được tạo ra trong sản xuất.Giả sử ngoài khoản tư bản 100 ứng ra mua hàng hóa, nhà tư bản thương nghiệp còn phải bỏ thêm 50 tư bản cho chi phí lưu thông thuần túy. Đối với 100 tư bản ứng trước để mua hàng hóa sẽ được hoàn lại sau khi bán hàng, nếu tư bản thương nghiệp mua hàng chịu của tư bản công nghiệp thì khoản chi phí 100 này không tồn tại. Bởi vậy khi xét hàng hoá hiện vật có thể tạm gạt khoản 100 này ra ngoài sự tính toán giá trị của hàng hoá. Còn khoản tư bản 50 cho chi phí lưu thông trên danh nghĩa cũng do tư bản thương nghiệp ứng ra dưới hình thái tiền, nhưng nó phải chuyển thành hiện vật như cửa hàng, quầy hàng, giao dịch thư tín, sổ sách kế toán, quảng cáo và tư liệu sinh hoạt cho công nhân viên thương nghiệp.Trong quá trình hoạt động, các yếu tố này cũng hao mòn và cần được bù đắp, nhưng giá trị của nó mất đi mà không chuyển sang hàng hóa hiện vật, phần bù đắp cho nó phải lấy từ 180 giá trị thặng dư đã kết tinh trong hàng hóa hiện vật.9Cụ thể tổng tư bản ứng ra dưới hình thái hiện vật gồm: 900 của TBCN + 50 của TBTN = 950 Nhưng trong quá trình hoạt động, chi phí lưu thông thuần tuý không được chuyển sang hiện vật, vì nó không liên quan gì đến giá trị sử dụng của hàng hoá, do đó không tạo ra sản phẩm thặng dư và giá trị thặng dư. Chỉ có tư bản công nghiệp mang lại 180 m. Giá trị tổng sản phẩm xã hội sẽ là: 950 + 180 = 1130. Tổng số giá trị 1130 này đều chứa đựng trong giá trị sử dụng dưới hình thái hiện vật. Nhưng, 50 chi phí lưu thông thuần tuý qua quá trình hoạt động hao mòn mà không chuyển sang hiện vật, nên đến cuối năm tổng giá trị của hàng hoá dưới dạng hiện vật chỉ có 1080. Để tái sản xuất giản đơn, người ta lại phải ứng ra dưới hình thái hiện vật: 950 720 (c) + 180 (v) cho lĩnh vực công nghiệp và 40 (c) + 10 (v) cho chi phí lưu thông. Nên giá trị thặng dư chỉ còn 130 (1080 - 950) Chính vì điều này mà chi phí lưu thông thuần túy được coi là khoản hư phí.- Trên đây chúng ta đã nghiên cứu chi phí lưu thông trong điều kiện không xét tới loại hàng hóa vô hình (hàng hóa dịch vụ). Trong thực tế, không chỉ có hàng hóa hữu hình mà còn có hàng hóa vô hình (các dịch vụ, trong đó có dịch vụ thương nghiệp), xã hội càng phát triển thì khối lượng và tỷ trọng hàng hóa vô hình ngày càng tăng. Để có hàng hóa vô hình, xã hội cũng cần hao phí lao động, tức là hàng hóa vô hình cũng có giá trị và nó cũng được trao đổi với các hàng hóa khác giống như hàng hóa hữu hình.Nếu tính cả hàng hóa vô hình thì tổng giá trị xã hội bây giờ là 1080 + 50 = 1130, và bán hàng hóa với giá 1130 mới là bán đúng giá trị. Như vậy khi nói tổng giá cả hàng hóa bằng tổng giá trị, theo nghĩa đầy đủ của nó, chúng ta phải tính cả giá trị hàng hóa vô hình.10- Ý ngh ĩ a: Quan điểm của C.Mác về dịch vụ thương nghiệp thuần tuý cho ta cơ sở khoa học để hiểu về các loại dịch vụ không sản xuất và thấy rõ tính khoa học, tính thực tiễn của hệ thống thống kê mới ứng dụng với kinh tế hàng hoá.Bây giờ chúng ta sẽ phân tích kỹ hơn sự vận động của khoản hư phí này để thấy rõ hơn bản chất của lợi nhuận thương nghiệp. (Nghiên cứu thêm)- Lao động của công nhân thương nghiệp.Nếu cấu tạo hữu cơ của khoản chi phí lưu thông thuần túy trong TBTN cũng là 4/1 thì 50 tư bản sẽ được chia thành 40c +10v, tức là trong tổng số khoản chi phí 50 tư bản đó, có 10 tư bản được ứng ra để trả công cho công nhân thương nghiệp, ta tạm thời gạt bỏ khoản 40c sang 1 bên để phân tích riêng sự vận động của khoản 10v. Cũng giống như lao động của công nhân công nghiệp, thời gian lao động của công nhân thương nghiệp cũng chia làm 2 phần, thời gian lao động tất yếu và thời gian lao động thặng dư. Trong thời gian lao động tất yếu, công nhân thương nghiệp bán được một số lượng hàng hóa nhất định, tức là đã giúp thực hiện được một lượng giá trị và giá trị thặng dư nhất định, vì lý do này, tư bản công nghiệp phải nhượng bớt cho tư bản thương nghiệp một phần giá trị thặng dư, phần này mới chỉ đủ để bù lại khoản tiền công mà TBTN trả cho công nhân thương nghiệp, tức là TBTN chưa có lợi gì. Nhưng lao động của công nhân thương nghiệp không dừng lại ở đó, trong phần còn lại của ngày lao động, tức là trong thời gian lao động thặng dư, công nhân thương nghiệp tiếp tục bán được một khối lượng hàng hóa, và TBCN lại phải nhượng thêm một phần giá trị thặng dư cho TBTN, phần này TBTN không trả cho công nhân nữa mà giữ lại trong tay mình, coi đó là lợi nhuận thương nghiệp.11Như vậy, lợi nhuận thương nghiệp không chỉ là sự bóc lột gián tiếp công nhân trong lĩnh vực sản xuất mà còn là sự bóc lột trực tiếp công nhân thương nghiệp. Đây mới là bản chất đầy đủ của lợi nhuận thương nghiệp.2. Các hình thức thương nghiệp dưới chủ nghĩa tư bản.Căn cứ vào quy mô và tính chất hoạt động, thương nghiệp dưới chủ nghĩa tư bản có thể chia thành hai loại: thương nghiệp bán buôn và thương nghiệp bán lẻ.* Thương nghiệp bán buôn: là hoạt động mua bán hàng hóa với khối lượng lớn, mục đích mua hàng không phải để trực tiếp tiêu dùng, mà để bán lại nhằm thu lợi nhuận.Thương nghiệp bán buôn lại chia làm hai loại: bán buôn công nghiệp và bán buôn thương nghiệp.- Bán buôn công nghiệp là hình thức ở đó nhà tư bản công nghiệp bán hàng hóa cho nhà tư bản thương nghiệp với giá thấp hơn giá trị xã hội.- Bán buôn thương nghiệp là hình thức ở đó các nhà tư bản thương nghiệp bán hàng hóa cho nhau hoặc bán hàng cho tiểu thương. Giá bán buôn thương nghiệp cao hơn giá bán buôn công nghiệp nhưng thấp hơn giá bán lẻ hàng hóa.* Thương nghiệp bán lẻ: là hình thức tư bản thương nghiệp và tiểu thương bán hàng hóa cho người tiêu dùng.3. Chu chuyển của tư bản thương nghiệp.* K/n: Là quá trình vận động của tư bản thương nghiệp từ khi ứng trước tư bản dưới hình thái tiền tệ đến khi nó trở về tay nhà tư bản thương nghiệp cũng dưới hình thái đó với giá trị lớn hơn.Công thức vận động: T – H – T’ (T’ = T + Ptn)Trong đó: T là số tư bản thương nghiệp đã ứng raH là hàng hóa, đối tượng của tư bản thương nghiệp.T’ là khoản tiền thu về của tư bản thương nghiệp sau khi bán hàng* Số vòng chu chuyển của tư bản thương nghiệp12Là số lần mà sự vận động T – H – T’ được lặp lại trong năm đó.* Tốc độ chu chuyển của tư bản thương nghiệp. Tốc độ vận động của tư bản thương nghiệp phụ thuộc vào tốc độ và quy mô của quá trình sản xuất và tiêu dùng cá nhân. Những yếu tố tác động đến tốc độ chu chuyển của TBTN gồm: Thời gian chu chuyển và số vòng chu chuyển.- Thời gian chu chuyển của tư bản thương nghiệp dài hay ngắn là tuỳ thuộc vào tính chất của từng ngành thương nghiệp. Do đó ảnh hưởng đến số vòng chu chuyển trong một năm nhiều hay ít. Trong cùng một ngành thương nghiệp, chu chuyển của tư bản thương nghiệp cũng nhanh hay chậm khác nhau trong các giai đoạn khác nhau của chu kỳ kinh tế. Tuy vậy, kinh nghiệm cho phép người ta tính được số vòng chu chuyển trung bình của mỗi ngành. - Số vòng chu chuyển của tư bản thương nghiệp có tác động quyết định đến lượng tuyệt đối và tương đối của TBTN cần thiết cho lưu thông. + Lượng tuyệt đối của tư bản thương nghiệp cần thiết và tốc độ chu chuyển của nó tỷ lệ nghịch với nhau. Nhưng lượng tương đối của nó, tức là tỷ số giữa nó với tổng số tư bản, lại do lượng tuyệt đối của nó quyết dịnh, nếu mọi điều kiện khác vẫn như cũ. Thí d ụ : tổng tư bản là 100.000, nếu tư bản thương nghiệp chu chuyển 10 vòng một năm thì lượng tuyệt đối cần thiết của nó là 10.000 và lượng tương đối của nó là 1/10. Nếu chu chuyển 5 vòng một năm thì lượng tuyệt đối cần thiết của nó là 20.000 và lượng tương đối của nó là 1/5. + Nếu lượng tương đối của tư bản thương nghiệp là một lượng xác định thì sự khác nhau về số vòng chu chuyển trong các ngành thương nghiệp khác nhau sẽ không ảnh hưởng gì tới quy mô của tổng số lợi nhuận thuộc về tư bản thương nghiệp, cũng không ảnh hưởng gì đến tỷ suất lợi nhuận chung.13 Lợi nhuận của tư bản thương nghiệp không phải do khối lượng tư bản hàng hoá mà nhà tư bản ấy đảm nhiệm việc chu chuyển quyết định, mà do số lượng tư bản tiền tệ được ứng ra để thực hiện việc chu chuyển đó quyết định.Ví d ụ : + Nếu tỷ suất lợi nhuận chung hàng năm là 15% và tư bản thương nghiệp ứng tư bản ra là 100 đơn vị tiền tệ, khi kinh doanh trong ngành thương nghiệp có tốc độ chu chuyển trung bình là 1 vòng/năm, thương nhân ấy sẽ bán hàng hoá của mình là 115 đơn vị tiền tệ.+ Nhưng khi kinh doanh trong một ngành thương nghiệp khác có tốc độ chu chuyển tư bản trung bình là 5 vòng/ năm thì trong một năm, thương nhân ấy phải bán 5 lần 103 và doanh số cả năm sẽ là: 515 đơn vị tiền tệ, lợi nhuận trung bình thu được là 15 đơn vị tiền tệ, tức là bằng 15% của tư bản thương nhân đã ứng ra ban đầu. Như vậy, số vòng chu chuyển của tư bản thương nghiệp trong các ngành thương nghiệp khác nhau ảnh hưởng trực tiếp tới giá cả thương nghiệp của hàng hoá.+ Số tiền mà tư bản thương nghiệp tính thêm vào giá cả tức là lượng lợi nhuận thương nghiệp tính thêm vào giá bán của mỗi đơn vị hàng hoá - tỷ lệ nghịch với số vòng chu chuyển của tư bản thương nghiệp trong các ngành thương nghiệp khác nhau. Câu hỏi ôn tập 1 - Phân tích bản chất của tư bản thương nghiệp dưới chủ nghĩâ tư bản và vai trò của nó đối với sự phát triển tư bản chủ nghĩa. 2 - Làm rõ nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận thương nghiệp tư bản chủ nghĩa. 3 - Làm rõ chi phí lưu thông tư bản chủ nghĩa và chu chuyển của tư bản thương nghiệp. 4 - ý nghĩa kinh tế của việc nghiên cứu tư bản thương nghiệp và lợi nhuận thương nghiệp.