10 mối nguy hiểm hàng đầu của chất làm ngọt nhân tạo năm 2022

Chất tạo ngọt cường độ cao thường được sử dụng như chất thay thế đường bởi vì chúng có độ ngọt cao hơn gấp nhiều lần so với đường nhưng chỉ chứa một ít hoặc không chứa calo khi được bổ sung vào thực phẩm. Chất tạo ngọt cường độ cao, giống như các thành phần khác được bổ sung vào thực phẩm tại Hoa Kỳ, phải đảm bảo an toàn khi tiêu thụ.

10 mối nguy hiểm hàng đầu của chất làm ngọt nhân tạo năm 2022

Saccharin
Saccharin được cấp phép sử dụng trong thực phẩm như một chất tạo ngọt không có dinh dưỡng hay chất tạo ngọt không sinh năng lượng. Tên thương mại của Saccharin bao gồm Sweet and Low®, Sweet Twin®, Sweet'N Low® và Necta Sweet®. Saccharin có độ ngọt cao gấp 200 đến 700 lần so với đường ăn (đường sucrose hay đường mía) và không chứa calo.

Lần đầu tiên được phát hiện và sử dụng vào năm 1879, saccharin được cấp phép sử dụng trong các loại đồ uống, nước ép trái cây, và là thành phần cơ bản hoặc phối trộn vào khi tiêu thụ tùy vào hướng dẫn sử dụng, là một chất thay thế đường dùng để chế biến hoặc sử dụng tại bàn ăn, và trong các thực phẩm chế biến. Saccharin cũng được cấp phép sử dụng cho một số mục đích công nghệ.

Vào đầu thập niên 70, saccharin có liên quan đến sự tiến triển của bệnh ung thư bàng quang ở những con chuột thí nghiệm và Quốc hội Mỹ đề nghị thực hiện các nghiên cứu bổ sung về saccharin và sự xuất hiện của nhãn cảnh báo về các sản phẩm chứa saccharin cho đến khi cảnh báo này được chứng minh là không cần thiết. Kể từ đó, hơn 30 nghiên cứu ở người chứng minh rằng kết quả được tìm thấy ở chuột không có liên quan đến người, và saccharin là an toàn để tiêu thụ ở người. Năm 2000, Chương trình Độc chất học Quốc gia của các Viện Y tế Quốc gia Hoa Kỳ kết luận rằng saccharin nên được loại bỏ khỏi danh sách chất có khả năng gây ung thư. Các sản phẩm chứa saccharin không còn dán nhãn cảnh báo.

Aspartame
Aspartame được cấp phép sử dụng trong thực phẩm như một chất tạo ngọt có dinh dưỡng hay chất tạo ngọt sinh năng lượng. Tên thương mại của aspartame bao gồm Nutrasweet®, Equal® và Sugar Twin®. Aspartame chứa calo và có độ ngọt cao gấp 200 lần so với đường sucrose, do đó người tiêu dùng có thể sử dụng một lượng nhỏ.

Vào năm 1981, Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) chấp phép sử dụng cho aspartame như một chất tạo ngọt trong kẹo cao su (chewing gum), ngũ cốc ăn sáng lạnh và là thành phần chất khô cơ bản trong một số loại thực phẩm chẳng hạn như các loại đồ uống, cà phê và trà hòa tan, gelatin, bánh pudding, chất kết dính, các sản phẩm từ sữa và phủ lên bề mặt của bánh. Năm 1983, FDA cấp phép sử dụng cho aspartame trong các loại đồ uống có ga và sirô dùng cho đồ uống có ga. Năm 1996, FDA cấp phép sử dụng cho aspartame như một “chất tạo ngọt chung”. Aspartame không bền nhiệt và giảm độ ngọt khi gia nhiệt, vì vậy nó không được sử dụng trong các sản phẩm bánh nướng.

Aspartame là một trong những loại đường được nghiên cứu nhiều nhất trong việc cung cấp thực phẩm cho con người, với hơn 100 nghiên cứu chứng minh sự an toàn của aspartame.

Các nhà khoa học của FDA đã xem xét dữ liệu khoa học liên quan đến sự an toàn của aspartame trong thực phẩm và kết luận rằng nó an toàn đối với con người trong một số điều kiện. Tuy nhiên, những người có bệnh di truyền hiếm thấy được gọi là phenylketonuria (PKU) gặp khó khăn trong việc chuyển hóa axit amin phenylalanine, một trong các axit amin được sử dụng để làm aspartame, và nên kiểm soát lượng phenylalanine ăn vào từ tất cả các nguồn, bao gồm aspartame. Nhãn của các loại thực phẩm và đồ uống chứa aspartame phải công bố thông tin cho những người bị PKU rằng sản phẩm này có chứa phenylalanine.

Acesulfame K (Ace-K)

Acesulfame K được cấp phép sử dụng trong thực phẩm như một chất tạo ngọt không có dinh dưỡng hay chất tạo ngọt không sinh năng lượng. Nó có trong danh sách các thành phần trên nhãn thực phẩm như acesulfame K, acesulfame potassium hay Ace-K. Acesulfame K có tên thương mại là Sunett® và Sweet One®. Nó có độ ngọt cao gấp 200 lần so với đường sucrose và thường được kết hợp với các chất tạo ngọt khác.

Năm 1988, FDA cấp phép sử dụng cho acesulfame K trong danh mục các thực phẩm và đồ uống cụ thể. Năm 2003, nó được cấp phép sử dụng như một chất tạo ngọt chung và là chất tăng cường hương vị trong thực phẩm trong một số điều kiện cụ thể, ngoại trừ thịt và thịt gia cầm. Acesulfame K bền nhiệt, có nghĩa là nó giữ được độ ngọt thậm chí khi được sử dụng ở nhiệt độ cao trong quá trình nướng, vì vậy nó được sử dụng như một chất thay thế đường trong các sản phẩm bánh nướng.

Acesulfame K thường được sử dụng trong các món tráng miệng đông lạnh, bánh kẹo, đồ uống và các sản phẩm bánh nướng. Hơn 90 nghiên cứu chứng minh sự an toàn của acesulfame K.

Sucralose
Sucralose được cấp phép sử dụng trong thực phẩm như một chất tạo ngọt không có dinh dưỡng hay chất tạo ngọt không sinh năng lượng. Tên thương mại của sucralose là Splenda®. Sucralose có độ ngọt cao gấp 600 lần so với đường sucrose.

Năm 1998, FDA cấp phép sử dụng cho sucralose trong 15 danh mục thực phẩm. Năm 1999, sucralose được sử dụng như một chất tạo ngọt chung cho thực phẩm trong một số điều kiện cụ thể. Sucralose là một chất tạo ngọt có thể được tìm thấy trong nhiều loại thực phẩm bao gồm các sản phẩm bánh nướng, các loại đồ uống, kẹo cao su, gelatin và các món tráng miệng đông lạnh được làm từ sữa. Sucralose bền nhiệt, có nghĩa là nó giữ được độ ngọt thậm chí khi được sử dụng ở nhiệt độ cao trong quá trình nướng, do đó nó thường được sử dụng như là một chất thay thế đường trong các sản phẩm bánh nướng.

Sucralose được nghiên cứu rộng rãi và hơn 110 nghiên cứu về sự an toàn được xem xét bởi FDA trong việc cấp phép sử dụng cho sucralose như một chất tạo ngọt chung cho thực phẩm.

Neotame
Neotame được cấp phép sử dụng trong thực phẩm như một chất tạo ngọt không có dinh dưỡng hay chất tạo ngọt không sinh năng lượng. Tên thương mại của neotame là Newtame®. Nó có độ ngọt cao gấp 7.000 đến 13.000 lần so với đường sucrose.

Năm 2002, FDA cấp phép sử dụng cho neotame như một chất tạo ngọt chung và là chất tăng cường hương vị cho các loại thực phẩm (ngoại trừ thịt và thịt gia cầm) trong một số điều kiện cụ thể. Neotame bền nhiệt, có nghĩa là nó giữ được độ ngọt thậm chí khi được sử dụng ở nhiệt độ cao trong quá trình nướng, do đó nó được sử dụng như một chất thay thế đường trong các sản phẩm bánh nướng.

Để xác định sự an toàn của neotame, FDA xem xét dữ liệu từ hơn 113 nghiên cứu ở động vật và con người để xác định tác dụng gây độc có thể, bao gồm tác dụng lên hệ miễn dịch, hệ sinh sản và hệ thần kinh.

Advantame
Advantame được cấp phép sử dụng trong thực phẩm như một chất tạo ngọt không có dinh dưỡng hay chất tạo ngọt không sinh năng lượng. Advantame có độ ngọt cao gấp 20.000 lần so với đường sucrose.

Năm 2014, FDA cấp phép sử dụng cho advantame như một chất tạo ngọt chung và là chất tăng cường hương vị cho các loại thực phẩm (ngoại trừ thịt và thịt gia cầm) trong một số điều kiện cụ thể. Advantame bền nhiệt, có nghĩa là nó giữ được độ ngọt thậm chí khi được sử dụng ở nhiệt độ cao trong quá trình nướng, do đó nó được sử dụng như một chất thay thế đường trong các sản phẩm bánh nướng.

Để xác định sự an toàn của advantame, FDA xem xét dữ liệu từ 37 nghiên cứu ở động vật và con người được thiết kế để xác định tác dụng gây độc có thể, bao gồm tác dụng lên hệ miễn dịch, hệ sinh sản và hệ thần kinh. FDA cũng xem xét các nghiên cứu về dược động học và khả năng gây ung thư, cũng như một số nghiên cứu thăm dò và sàng lọc bổ sung.

Steviol glycosides

Steviol glycosides là thành phần tự nhiên của lá Stevia rebaudiana (Bertoni) Bertoni, một cây trồng có nguồn gốc từ Nam Mỹ và thường được gọi là Stevia. Steviol glycosides là chất tạo ngọt không có dinh dưỡng và có độ ngọt cao gấp 200 đến 400 lần so với đường sucrose.

FDA nhận được rất nhiều chứng nhận GRAS về việc sử dụng steviol glycosides có độ tinh khiết cao (≥95%) bao gồm Rebaudioside A (còn được gọi là Reb A), Stevioside, Rebaudioside D hoặc hỗn hợp steviol glycosides với Rebaudioside A và/hoặc Stevioside là thành phần chiếm ưu thế. FDA không đặt câu hỏi về chất tạo ngọt có nguồn từ lá Stevia có độ tinh khiết cao được chứng nhận GRAS theo các điều kiện sử dụng dự kiến trong chứng nhận GRAS nộp cho FDA.

Việc sử dụng lá Stevia và dịch chiết từ lá Stevia không đạt chứng nhận GRAS và nhập khẩu vào Hoa Kỳ không được phép sử dụng như chất tạo ngọt.

Chiết xuất La hán quả

Chiết xuất từ La hán quả (Siraitia grosvenorii Swingle fruit extract – SGFE) chứa hàm lượng mogroside khác nhau, đây là thành phần không có giá trị dinh dưỡng của quả có vị ngọt đặc trưng. SGFE, phụ thuộc vào hàm lượng mogroside, có độ ngọt cao gấp 100 đến 250 lần so với đường sucrose. Siraitia grosvenorii Swingle, thường được gọi là La Hán Quả, là một cây trồng có nguồn gốc từ miền Nam Trung Quốc.

FDA nhận được chứng nhận GRAS của SGFE. FDA không đặt câu hỏi về việc xác định GRAS của bản khai báo đối với SGFE theo các điều kiện sử dụng dự kiến được xác định trong chứng nhận GRAS nộp cho FDA. Thư trả lời của FDA về SGFE có trên trang web của FDA.

Chất tạo ngọt

Quy định sử dụng

Tên thương mại

Cường độ ngọt so với đường ăn (sucrose)

Lượng ăn vào hàng ngày có thể chấp nhận được (ADI)
(mg/kg thể trọng/ngày)

Số lượng gói chất tạo ngọt tương đương với ADI*

Acesulfame 
K (Ace-K)

Được cấp phép sử dụng như chất tạo ngọt và chất tăng cường hương vị trong các loại thực phẩm nói chung (ngoại trừ thịt và thịt gia cầm)

Sweet One® và
Sunett®

Gấp 200 lần

15

23

Advantame

Được cấp phép sử dụng như chất tạo ngọt và chất tăng cường hương vị trong các loại thực phẩm nói chung (ngoại trừ thịt và thịt gia cầm)

-

Gấp 20.000 lần

32,8

4.920

Aspartame

Được cấp phép sử dụng như chất tạo ngọt và chất tăng cường hương vị trong các loại thực phẩm nói chung

Nutrasweet®,
Equal® và
Sugar Twin®

Gấp 200 lần

50

75

Neotame

Được cấp phép sử dụng như chất tạo ngọt và chất tăng cường hương vị trong các loại thực phẩm nói chung (ngoại trừ thịt và thịt gia cầm)

Newtame®

Gấp 7.000-13.000 lần

0,3

23 
(cường độ ngọt gấp 10.000 lần so với đường sucrose)

Saccharin

Chỉ được cấp phép sử dụng như một chất tạo ngọt trong một số loại thực phẩm dinh dưỡng đặc biệt và là một chất phụ gia được sử dụng cho một số mục đích công nghệ

Sweet and Low®, Sweet Twin®, Sweet'N Low® và Necta Sweet®

Gấp 200-700 lần

15

45 
(cường độ ngọt gấp 400 lần so với đường sucrose)

Chiết xuất La hán quả (SGFE)

SFGE chứa 25%, 45% hoặc 55% mogroside được sử dụng trong một số trường hợp cụ thể

Nectresse®, 
Monk Fruit in the Raw® và
PureLo®

Gấp 100-250 lần

NS***

ND

Steviol glycosides có độ tinh khiết cao tinh chế từ lá Stevia rebaudiana Bertoni

Glycosides có độ tinh khiết ≥95%

Truvia®,
PureVia® và
Enliten®

Gấp 200-400 lần

4**


(cường độ ngọt gấp 300 lần so với đường sucrose)

Sucralose

Được cấp phép sử dụng như một chất tạo ngọt trong các loại thực phẩm nói chung

Splenda®

Gấp 600 lần

5

23

* Số lượng gói chất tạo ngọt cho một người có cân nặng 60 kg cần tiêu thụ để đạt được ADI. Tính toán giả định một gói chất tạo ngọt cường độ cao có độ ngọt bằng hai muỗng cà phê đường sucrose.

** ADI được thiết lập bởi Hội đồng chuyên gia của FAO/WHO phụ trách về phụ gia thực phẩm (JECFA).

*** NS có nghĩa là không xác định. ADI được xem là không cần thiết vì nhiều lý do, bao gồm bằng chứng về sự an toàn ở mức độ cao hơn nhiều so với lượng cần thiết để đạt được tác dụng mong muốn (ví dụ như là một chất tạo ngọt) trong thực phẩm.

Sự khác nhau giữa chất tạo ngọt cường độ cao có dinh dưỡng và không có dinh dưỡng là gì?

Chất tạo ngọt có dinh dưỡng thêm giá trị calo vào các loại thực phẩm chứa chúng, trong khi chất tạo ngọt không có dinh dưỡng chứa rất ít calo hoặc gần như không chứa calo. Đặc biệt, aspartame, chất tạo ngọt cường độ cao duy nhất được cấp phép sử dụng, chứa hơn 2% calo so với cùng lượng đường sucrose, ngược lại chất tạo ngọt không có dinh dưỡng chứa ít hơn 2% calo so với cùng lượng đường sucrose.

Tại sao điều kiện sử dụng dự kiến của các chất tạo ngọt cường độ cao đôi khi không bao gồm sử dụng trong các sản phẩm thịt và thịt gia cầm?

Điều kiện sử dụng dự kiến của một số chất tạo ngọt cường độ cao được cấp phép sử dụng như phụ gia thực phẩm không bao gồm sử dụng trong các sản phẩm thịt và thịt gia cầm bởi vì các công ty đã được FDA phê duyệt về các chất tạo ngọt này không hề yêu cầu về việc sử dụng này. Trong trường hợp các chất tạo ngọt cường độ cao là đối tượng của chứng nhận GRAS (tức là, một số steviol glycosides có độ tinh khiết cao và SGFE), việc khai báo không bao gồm sử dụng trong các sản phẩm thịt và thịt gia cầm như một điều kiện sử dụng dự kiến trong chứng nhận GRAS để chúng chịu sự đánh giá của FDA.

Nếu một chất tạo ngọt cường độ cao được đề xuất sử dụng trong một sản phẩm thịt hoặc thịt gia cầm thông qua đơn kiến nghị phụ gia thực phẩm, FDA có trách nhiệm xem xét sự an toàn của chất tạo ngọt cường độ cao theo các điều kiện sử dụng đề xuất, và Cục Kiểm định an toàn thực phẩm (FSIS) của Bộ Nông Nghiệp Hoa Kỳ (USDA) có trách nhiệm đánh giá sự phù hợp của chất tạo ngọt này. Nếu FDA được thông báo về Chương trình chứng nhận GRAS rằng một chất tạo ngọt cường độ cao là GRAS để sử dụng trong một sản phẩm thịt hoặc thịt gia cầm, FDA sẽ đánh giá liệu sự khai báo có cung cấp cơ sở đầy đủ cho việc xác định GRAS và liệu thông tin trong bản khai báo hoặc nếu không có sẵn để FDA đặt ra vấn đề làm cho hội đồng thẩm định đặt câu hỏi liệu việc sử dụng chất tạo ngọt cường độ cao là GRAS. FDA cũng chuyển tiếp chứng nhận GRAS đến FSIS để đánh giá liệu việc sử dụng dự kiến của chất tạo ngọt này trong các sản phẩm thịt hoặc thịt gia cầm phù hợp với các đạo luật liên quan được quản lý bởi FSIS.

Nguồn: FDA

Chất ngọt nhân tạo thường là chủ đề của cuộc tranh luận sôi nổi.

Một mặt, họ đã tuyên bố sẽ tăng nguy cơ ung thư và gây hại cho sức khỏe đường huyết và ruột của bạn.

Mặt khác, hầu hết các cơ quan y tế đều coi họ an toàn và nhiều người sử dụng chúng để giảm lượng đường và giảm cân.

Bài viết này xem xét các bằng chứng về chất làm ngọt nhân tạo và ảnh hưởng sức khỏe của chúng.

Chất ngọt nhân tạo, hoặc chất thay thế đường, là hóa chất được thêm vào một số thực phẩm và đồ uống để làm cho chúng có vị ngọt.

Mọi người thường gọi chúng là chất làm ngọt dữ dội của người Hồi giáo vì họ cung cấp một hương vị tương tự như đường bàn nhưng ngọt hơn tới vài nghìn lần.

Mặc dù một số chất làm ngọt có chứa calo, nhưng lượng cần thiết để làm ngọt các sản phẩm nhỏ đến mức cuối cùng bạn tiêu thụ hầu như không có calo (1).

Bản tóm tắt

Chất ngọt nhân tạo là hóa chất được sử dụng để làm ngọt thực phẩm và đồ uống. Họ cung cấp gần như bằng không calo.

Bề mặt của lưỡi của bạn được bao phủ bởi nhiều chồi vị giác, mỗi cái chứa một số thụ thể vị giác phát hiện các hương vị khác nhau (2).

Khi bạn ăn, thụ thể hương vị của bạn gặp các phân tử thực phẩm.

Một sự phù hợp hoàn hảo giữa một thụ thể và phân tử gửi tín hiệu đến não của bạn, cho phép bạn xác định hương vị (2).

Ví dụ, phân tử đường phù hợp hoàn hảo với thụ thể vị của bạn cho vị ngọt, cho phép bộ não của bạn xác định vị ngọt.

Các phân tử chất làm ngọt nhân tạo đủ tương tự với các phân tử đường để phù hợp với thụ thể ngọt.

Tuy nhiên, chúng thường quá khác biệt so với đường cho cơ thể bạn chia chúng thành calo. Đây là cách họ cung cấp một hương vị ngọt ngào mà không cần thêm calo.

Chỉ có một số ít chất làm ngọt nhân tạo có một cấu trúc mà cơ thể bạn có thể phá vỡ thành calo. Cho rằng chỉ cần một lượng rất nhỏ chất làm ngọt nhân tạo để làm cho thực phẩm có vị ngọt, bạn hầu như không có calo (1).

Bản tóm tắt

Chất ngọt nhân tạo là hóa chất được sử dụng để làm ngọt thực phẩm và đồ uống. Họ cung cấp gần như bằng không calo.

Bề mặt của lưỡi của bạn được bao phủ bởi nhiều chồi vị giác, mỗi cái chứa một số thụ thể vị giác phát hiện các hương vị khác nhau (2).

  • Khi bạn ăn, thụ thể hương vị của bạn gặp các phân tử thực phẩm. Sold under the brand names NutraSweet, Equal, or Sugar Twin, aspartame is 200 times sweeter than table sugar.
  • Một sự phù hợp hoàn hảo giữa một thụ thể và phân tử gửi tín hiệu đến não của bạn, cho phép bạn xác định hương vị (2). Also known as acesulfame K, it’s 200 times sweeter than table sugar. It’s suited for cooking and baking and sold under the brand names Sunnet or Sweet One.
  • Ví dụ, phân tử đường phù hợp hoàn hảo với thụ thể vị của bạn cho vị ngọt, cho phép bộ não của bạn xác định vị ngọt. This sweetener is 20,000 times sweeter than table sugar and suited for cooking and baking.
  • Các phân tử chất làm ngọt nhân tạo đủ tương tự với các phân tử đường để phù hợp với thụ thể ngọt. Sold under the brand name Twinsweet, it’s 350 times sweeter than table sugar.
  • Tuy nhiên, chúng thường quá khác biệt so với đường cho cơ thể bạn chia chúng thành calo. Đây là cách họ cung cấp một hương vị ngọt ngào mà không cần thêm calo. Cyclamate, which is 50 times sweeter than table sugar, was used for cooking and baking. However, it has been banned in the United States since 1970.
  • Chỉ có một số ít chất làm ngọt nhân tạo có một cấu trúc mà cơ thể bạn có thể phá vỡ thành calo. Cho rằng chỉ cần một lượng rất nhỏ chất làm ngọt nhân tạo để làm cho thực phẩm có vị ngọt, bạn hầu như không có calo (1). Sold under the brand name Newtame, this sweetener is 13,000 times sweeter than table sugar and suited for cooking and baking.
  • Chất ngọt nhân tạo có vị ngọt vì chúng được công nhận bởi các thụ thể ngọt ngào trên lưỡi của bạn. Chúng cung cấp gần như bằng không calo, vì cơ thể bạn có thể phá vỡ chúng. It’s 340 times sweeter than table sugar and suited for cooking, baking, and mixing with acidic foods. Note that it is not approved for use in the United States.
  • Các chất làm ngọt nhân tạo sau đây được phép sử dụng ở Hoa Kỳ và/hoặc Liên minh châu Âu (3, 4): Sold under the brand names Sweet’N Low, Sweet Twin, or Necta Sweet, saccharin is 700 times sweeter than table sugar.
  • Aspartame. Được bán dưới tên thương hiệu Nutrasweet, bình đẳng hoặc đường đôi, aspartame ngọt hơn 200 lần so với đường. Sucralose, which is 600 times sweeter table sugar, is suited for cooking, baking, and mixing with acidic foods. It’s sold under the brand name Splenda.
Bản tóm tắt

Chất ngọt nhân tạo là hóa chất được sử dụng để làm ngọt thực phẩm và đồ uống. Họ cung cấp gần như bằng không calo.

Bề mặt của lưỡi của bạn được bao phủ bởi nhiều chồi vị giác, mỗi cái chứa một số thụ thể vị giác phát hiện các hương vị khác nhau (2).

Khi bạn ăn, thụ thể hương vị của bạn gặp các phân tử thực phẩm.

Một sự phù hợp hoàn hảo giữa một thụ thể và phân tử gửi tín hiệu đến não của bạn, cho phép bạn xác định hương vị (2).

Ví dụ, phân tử đường phù hợp hoàn hảo với thụ thể vị của bạn cho vị ngọt, cho phép bộ não của bạn xác định vị ngọt.

Các phân tử chất làm ngọt nhân tạo đủ tương tự với các phân tử đường để phù hợp với thụ thể ngọt.

Tuy nhiên, chúng thường quá khác biệt so với đường cho cơ thể bạn chia chúng thành calo. Đây là cách họ cung cấp một hương vị ngọt ngào mà không cần thêm calo.

Chỉ có một số ít chất làm ngọt nhân tạo có một cấu trúc mà cơ thể bạn có thể phá vỡ thành calo. Cho rằng chỉ cần một lượng rất nhỏ chất làm ngọt nhân tạo để làm cho thực phẩm có vị ngọt, bạn hầu như không có calo (1).

Chất ngọt nhân tạo có vị ngọt vì chúng được công nhận bởi các thụ thể ngọt ngào trên lưỡi của bạn. Chúng cung cấp gần như bằng không calo, vì cơ thể bạn có thể phá vỡ chúng.

Các chất làm ngọt nhân tạo sau đây được phép sử dụng ở Hoa Kỳ và/hoặc Liên minh châu Âu (3, 4):

Trên thực tế, một số nghiên cứu đã phát hiện ra rằng những người tham gia báo cáo ít đói hơn và tiêu thụ ít calo hơn khi họ thay thế thực phẩm và đồ uống có đường bằng các lựa chọn thay thế ngọt nhân tạo (14, 15, 16, 17, 18).

Bản tóm tắt

Các nghiên cứu gần đây đã phát hiện ra rằng việc thay thế các loại thực phẩm có đường hoặc đồ uống bằng những thực phẩm ngọt nhân tạo có thể làm giảm khả năng đói và lượng calo.

Ảnh hưởng đến trọng lượng

Liên quan đến kiểm soát cân nặng, một số nghiên cứu quan sát báo cáo mối liên hệ giữa việc tiêu thụ đồ uống ngọt nhân tạo và béo phì (19, 20).

Tuy nhiên, các nghiên cứu ngẫu nhiên có kiểm soát - tiêu chuẩn vàng trong nghiên cứu khoa học - báo cáo rằng chất làm ngọt nhân tạo có thể làm giảm trọng lượng cơ thể, khối lượng chất béo và chu vi vòng eo (21, 22).

Các nghiên cứu này cũng cho thấy rằng việc thay thế các loại nước ngọt thông thường bằng các phiên bản không đường có thể làm giảm chỉ số khối cơ thể (BMI) lên tới 1,3, 1,7 điểm (23, 24).

Hơn nữa, việc chọn thực phẩm ngọt nhân tạo thay vì những người có đường bổ sung có thể làm giảm số lượng calo hàng ngày bạn tiêu thụ.

Các nghiên cứu khác nhau từ 4 tuần đến 40 tháng cho thấy điều này có thể dẫn đến giảm cân lên tới 2,9 pounds (1,3 kg) (13, 25, 26).

Đồ uống ngọt nhân tạo có thể là một sự thay thế dễ dàng cho những người thường xuyên tiêu thụ nước ngọt và muốn giảm mức tiêu thụ đường của họ.

Tuy nhiên, việc chọn ăn kiêng soda sẽ không dẫn đến giảm cân nếu bạn bù bằng cách ăn các phần lớn hơn hoặc thêm đồ ngọt. Nếu soda ăn kiêng làm tăng cảm giác thèm đồ ngọt của bạn, việc dính vào nước có thể là tốt nhất (27).

Bản tóm tắt

Các nghiên cứu gần đây đã phát hiện ra rằng việc thay thế các loại thực phẩm có đường hoặc đồ uống bằng những thực phẩm ngọt nhân tạo có thể làm giảm khả năng đói và lượng calo.

Ảnh hưởng đến trọng lượng

Liên quan đến kiểm soát cân nặng, một số nghiên cứu quan sát báo cáo mối liên hệ giữa việc tiêu thụ đồ uống ngọt nhân tạo và béo phì (19, 20).

Tuy nhiên, các nghiên cứu ngẫu nhiên có kiểm soát - tiêu chuẩn vàng trong nghiên cứu khoa học - báo cáo rằng chất làm ngọt nhân tạo có thể làm giảm trọng lượng cơ thể, khối lượng chất béo và chu vi vòng eo (21, 22).

Các nghiên cứu này cũng cho thấy rằng việc thay thế các loại nước ngọt thông thường bằng các phiên bản không đường có thể làm giảm chỉ số khối cơ thể (BMI) lên tới 1,3, 1,7 điểm (23, 24).

Hơn nữa, việc chọn thực phẩm ngọt nhân tạo thay vì những người có đường bổ sung có thể làm giảm số lượng calo hàng ngày bạn tiêu thụ.

Các nghiên cứu khác nhau từ 4 tuần đến 40 tháng cho thấy điều này có thể dẫn đến giảm cân lên tới 2,9 pounds (1,3 kg) (13, 25, 26).

Đồ uống ngọt nhân tạo có thể là một sự thay thế dễ dàng cho những người thường xuyên tiêu thụ nước ngọt và muốn giảm mức tiêu thụ đường của họ.

Tuy nhiên, việc chọn ăn kiêng soda sẽ không dẫn đến giảm cân nếu bạn bù bằng cách ăn các phần lớn hơn hoặc thêm đồ ngọt. Nếu soda ăn kiêng làm tăng cảm giác thèm đồ ngọt của bạn, việc dính vào nước có thể là tốt nhất (27).

Thay thế thực phẩm và đồ uống chứa đường bằng những loại ngọt nhân tạo có thể giúp bạn giảm cân.

Những người mắc bệnh tiểu đường có thể được hưởng lợi từ việc chọn chất làm ngọt nhân tạo, vì họ cung cấp một hương vị ngọt ngào mà không có sự gia tăng lượng đường trong máu (18, 28, 29).

Bản tóm tắt

Tuy nhiên, một số nghiên cứu báo cáo rằng uống soda ăn kiêng có liên quan đến nguy cơ mắc bệnh tiểu đường lớn hơn 6, 12121% (30, 31, 32).

Điều này có vẻ mâu thuẫn, nhưng điều quan trọng cần lưu ý là tất cả các nghiên cứu đều quan sát. Họ đã chứng minh rằng chất làm ngọt nhân tạo gây ra bệnh tiểu đường, chỉ có điều mọi người có khả năng mắc bệnh tiểu đường loại 2 cũng thích uống soda ăn kiêng.

Mặt khác, nhiều nghiên cứu được kiểm soát cho thấy chất làm ngọt nhân tạo không ảnh hưởng đến lượng đường trong máu hoặc insulin (33, 34, 35, 36, 37, 38).

Cho đến nay, chỉ có một nghiên cứu nhỏ ở phụ nữ Tây Ban Nha tìm thấy một tác động tiêu cực.

Phụ nữ uống đồ uống ngọt nhân tạo trước khi uống đồ uống có đường có lượng đường trong máu cao hơn 14% và mức insulin cao hơn 20%, so với những người uống nước trước khi uống đồ uống có đường (39).

Tuy nhiên, những người tham gia weren đã sử dụng để uống đồ uống ngọt nhân tạo, điều này có thể giải thích một phần kết quả. Hơn thế nữa, chất làm ngọt nhân tạo có thể có tác dụng khác nhau tùy thuộc vào độ tuổi của mọi người hoặc nền tảng di truyền (39).

Ví dụ, nghiên cứu cho thấy rằng việc thay thế đồ uống có đường bằng những loại ngọt được làm ngọt nhân tạo đã tạo ra hiệu ứng mạnh mẽ hơn trong thanh niên Tây Ban Nha (40).

Điều này có thể liên quan đến hiệu ứng bất ngờ nhìn thấy trên phụ nữ Tây Ban Nha ở trên.

Bản tóm tắt

Mặc dù kết quả nghiên cứu chưa được nhất trí, nhưng bằng chứng hiện tại thường có lợi cho việc sử dụng chất làm ngọt nhân tạo trong số những người mắc bệnh tiểu đường. Tuy nhiên, cần nhiều nghiên cứu hơn để đánh giá tác động lâu dài của chúng trong các quần thể khác nhau.

Vi khuẩn đường ruột của bạn đóng một vai trò quan trọng trong sức khỏe của bạn và sức khỏe đường ruột kém có liên quan đến nhiều vấn đề.

Chúng bao gồm tăng cân, kiểm soát lượng đường trong máu kém, hội chứng chuyển hóa, hệ thống miễn dịch suy yếu và giấc ngủ bị gián đoạn (45, 46, 47, 48, 49, 50).

Thành phần và chức năng của vi khuẩn đường ruột thay đổi theo từng cá nhân và bị ảnh hưởng bởi những gì bạn ăn, bao gồm cả chất ngọt nhân tạo nhất định (51, 52).

Trong một nghiên cứu, chất làm ngọt nhân tạo saccharin đã phá vỡ sự cân bằng của vi khuẩn đường ruột ở bốn trong số bảy người tham gia khỏe mạnh không quen tiêu thụ chúng.

Bốn người phản ứng của người Viking cũng cho thấy kiểm soát lượng đường trong máu kém hơn sau 5 ngày sau khi tiêu thụ chất làm ngọt nhân tạo (53).

Hơn nữa, khi vi khuẩn đường ruột từ những người này được chuyển vào chuột, các động vật cũng phát triển kiểm soát lượng đường trong máu kém (53).

Mặt khác, những con chuột được cấy vi khuẩn đường ruột từ những người không trả lời, không có thay đổi về khả năng kiểm soát lượng đường trong máu (53).

Mặc dù thú vị, cần nhiều nghiên cứu hơn trước khi kết luận mạnh mẽ có thể được thực hiện.

Bản tóm tắt

Chất ngọt nhân tạo có thể phá vỡ sự cân bằng của vi khuẩn đường ruột ở một số người, điều này có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh. Tuy nhiên, cần nhiều nghiên cứu hơn để xác nhận hiệu ứng này.

Kể từ những năm 1970, cuộc tranh luận về việc liệu có mối liên hệ giữa chất làm ngọt nhân tạo và nguy cơ ung thư đã nổ ra hay không.

Nó đã được đốt cháy khi các nghiên cứu trên động vật tìm thấy tăng nguy cơ ung thư bàng quang ở chuột được cho ăn rất nhiều saccharin và cyclamate (54).

Tuy nhiên, chuột chuyển hóa saccharin khác với con người.

Kể từ đó, hơn 30 nghiên cứu ở người đã không tìm thấy mối liên hệ nào giữa chất làm ngọt nhân tạo và nguy cơ phát triển ung thư (1, 55, 56, 57).

Một nghiên cứu như vậy đã theo sau 9.000 người tham gia trong 13 năm và phân tích lượng chất ngọt nhân tạo của họ. Sau khi chiếm các yếu tố khác, các nhà nghiên cứu không tìm thấy mối liên hệ nào giữa chất làm ngọt nhân tạo và nguy cơ phát triển các loại ung thư khác nhau (55).

Hơn nữa, một đánh giá gần đây về các nghiên cứu được công bố trong khoảng thời gian 11 năm không tìm thấy mối liên hệ giữa nguy cơ ung thư và tiêu thụ chất làm ngọt nhân tạo (58).

Chủ đề này cũng được đánh giá bởi các cơ quan quản lý Hoa Kỳ và Châu Âu. Cả hai đều đồng ý rằng chất làm ngọt nhân tạo, khi được tiêu thụ với số lượng được khuyến nghị, không làm tăng nguy cơ ung thư (1, 59).

Một ngoại lệ là cyclamate, đã bị cấm sử dụng ở Hoa Kỳ sau khi nghiên cứu ung thư chuột nguyên bản được xuất bản năm 1970.

Kể từ đó, các nghiên cứu sâu rộng trên động vật đã không thể hiện một liên kết ung thư. Tuy nhiên, cyclamate không bao giờ được phê duyệt lại để sử dụng ở Hoa Kỳ (1).

Bản tóm tắt

Dựa trên các bằng chứng hiện tại, chất làm ngọt nhân tạo khó có thể làm tăng nguy cơ ung thư ở người.

Khoang nha khoa - còn được gọi là sâu răng hoặc sâu răng - xảy ra khi vi khuẩn trong miệng của bạn lên men đường. Axit được sản xuất, có thể làm hỏng men răng.

Không giống như đường, chất làm ngọt nhân tạo không phản ứng với vi khuẩn trong miệng của bạn. Điều này có nghĩa là chúng không tạo thành axit hoặc gây suy giảm răng (60).

Nghiên cứu cũng cho thấy sucralose ít có khả năng gây sâu răng hơn đường.

Vì lý do này, Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm (FDA) cho phép các sản phẩm có chứa sucralose tuyên bố rằng chúng giảm sâu răng (60, 61).

Cơ quan An toàn Thực phẩm Châu Âu (EFSA) nói rằng tất cả các chất làm ngọt nhân tạo, khi được tiêu thụ thay cho đường, trung hòa axit và giúp ngăn ngừa sâu răng (28).

Bản tóm tắt

Dựa trên các bằng chứng hiện tại, chất làm ngọt nhân tạo khó có thể làm tăng nguy cơ ung thư ở người.

Khoang nha khoa - còn được gọi là sâu răng hoặc sâu răng - xảy ra khi vi khuẩn trong miệng của bạn lên men đường. Axit được sản xuất, có thể làm hỏng men răng.

Không giống như đường, chất làm ngọt nhân tạo không phản ứng với vi khuẩn trong miệng của bạn. Điều này có nghĩa là chúng không tạo thành axit hoặc gây suy giảm răng (60).

Nghiên cứu cũng cho thấy sucralose ít có khả năng gây sâu răng hơn đường.

Vì lý do này, Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm (FDA) cho phép các sản phẩm có chứa sucralose tuyên bố rằng chúng giảm sâu răng (60, 61).

Cơ quan An toàn Thực phẩm Châu Âu (EFSA) nói rằng tất cả các chất làm ngọt nhân tạo, khi được tiêu thụ thay cho đường, trung hòa axit và giúp ngăn ngừa sâu răng (28).

Bản tóm tắt

Dựa trên các bằng chứng hiện tại, chất làm ngọt nhân tạo khó có thể làm tăng nguy cơ ung thư ở người.

Khoang nha khoa - còn được gọi là sâu răng hoặc sâu răng - xảy ra khi vi khuẩn trong miệng của bạn lên men đường. Axit được sản xuất, có thể làm hỏng men răng.

Không giống như đường, chất làm ngọt nhân tạo không phản ứng với vi khuẩn trong miệng của bạn. Điều này có nghĩa là chúng không tạo thành axit hoặc gây suy giảm răng (60).

Điều đó nói rằng, một số người nên tránh tiêu thụ chúng.

Ví dụ, những người mắc chứng rối loạn chuyển hóa hiếm gặp phenylketon niệu (PKU) không thể chuyển hóa axit amin phenylalanine, được tìm thấy trong aspartame. Vì vậy, những người có PKU nên tránh aspartame.

Hơn nữa, một số người bị dị ứng với sulfonamides - loại hợp chất mà saccharin thuộc về. Đối với họ, saccharin có thể dẫn đến khó thở, phát ban hoặc tiêu chảy.

Ngoài ra, bằng chứng ngày càng tăng cho thấy một số chất làm ngọt nhân tạo như sucralose làm giảm độ nhạy insulin và ảnh hưởng đến vi khuẩn đường ruột (71, 72).

Bản tóm tắt

Chất ngọt nhân tạo thường được coi là an toàn nhưng nên tránh bởi những người bị phenylketon niệu hoặc dị ứng với sulfonamides.

Nhìn chung, việc sử dụng chất làm ngọt nhân tạo đặt ra ít rủi ro và thậm chí có thể có lợi ích cho việc giảm cân, kiểm soát lượng đường trong máu và sức khỏe răng miệng.

Những chất làm ngọt này đặc biệt có lợi nếu bạn sử dụng chúng để giảm lượng đường bổ sung trong chế độ ăn uống của bạn.

Điều đó nói rằng, khả năng các hiệu ứng tiêu cực có thể thay đổi theo từng cá nhân và phụ thuộc vào loại chất làm ngọt nhân tạo tiêu thụ.

Một số người có thể cảm thấy tồi tệ hoặc trải nghiệm những tác động tiêu cực sau khi tiêu thụ chất làm ngọt nhân tạo, mặc dù chúng an toàn và được dung nạp tốt bởi hầu hết mọi người.

Nếu bạn muốn tránh chất làm ngọt nhân tạo, hãy thử sử dụng chất làm ngọt tự nhiên.

Chất ngọt nhân tạo có hại nhất là gì?

Điều tồi tệ nhất của thủ phạm tồi tệ nhất bao gồm aspartame (được tìm thấy bằng bình đẳng và Nutrasweet), sucralose (được tìm thấy trong Splenda) và saccharin (được tìm thấy trong Sweet 'n Low). Nhiều người cắt đường nhân tạo ra khỏi chế độ ăn uống của họ báo cáo sự cải thiện của nhiều vấn đề sức khỏe bao gồm chứng đau nửa đầu, trầm cảm, IBS, tăng cân, v.v.aspartame (found in Equal and NutraSweet), sucralose (found in Splenda), and Saccharin (found in Sweet 'N Low). Many people who cut artificial sugars out of their diets report the improvement of many health problems including migraines, depression, IBS, weight gain, and more.

Những tác động tiêu cực của chất làm ngọt nhân tạo là gì?

Bên cạnh lợi ích của nó, các nghiên cứu trên động vật đã chứng minh một cách thuyết phục rằng chất làm ngọt nhân tạo gây tăng cân, khối u não, ung thư bàng quang và nhiều mối nguy hiểm sức khỏe khác.Một số loại tác dụng phụ liên quan đến sức khỏe bao gồm khả năng gây ung thư cũng được ghi nhận ở người.weight gain, brain tumors, bladder cancer and many other health hazards. Some kind of health related side effects including carcinogenicity are also noted in humans.

Điều gì xảy ra khi bạn ngừng sử dụng chất làm ngọt nhân tạo?

Vị giác của bạn sẽ ngừng bị lừa."Chúng tôi mất hương vị cho vị ngọt tự nhiên. Vì điều đó chúng tôi cần mức độ ngọt ngào nặng nề để thỏa mãn chiếc răng ngọt ngào đó."Thực phẩm ngọt tự nhiên, như trái cây, mất đi sự hấp dẫn và thực phẩm mặn, như rau, trở nên không ngon miệng.. "We lose our taste for natural sweetness. Because of that we need heavy levels of sweetness to satisfy that sweet tooth." Naturally sweet foods, such as fruit, lose their appeal and savory foods, such as vegetables, become unpalatable.

Những người làm ngọt nên tránh?

Các loại đường thay thế Bạn thực sự nên tránh các chất làm ngọt nhân tạo và ít calo, chẳng hạn như aspartame, sucralose, saccharin và neotame được coi là tồi tệ nhất trong phạm vi tồi tệ nhất trong vương quốc của chất làm ngọt thay thế.aspartame, sucralose, saccharin, and neotame are considered the worst of the worst in the realm of alternative sweeteners.