Chu văn an lập ra trường nào dạy học năm 2024

Được thành lập ngày 9/12/1908, trường Chu Văn An - đã trải qua nhiều lần thay đổi tên gọi: Trường trung học Bảo hộ (1908-1945), Trường trung học Chu Văn An (8/1945 đến 10/1945), Trường cấp 3 Chu Văn An (1954-1985), Trường trung học phổ thông Chu Văn An (1985-2002). Từ năm 2002 đến nay được gọi là Trường trung học phổ thông chất lượng cao Chu Văn An. Nhưng cái tên gọi quen thuộc nhất của ngôi trường vẫn là Trường Chu Văn An - Trường Bưởi.

Năm 1893, tại khu vực viện và chùa Châu Lâm (tức địa điểm trường ngày nay) một nhà tư bản Pháp lập ra một nhà in lấy tên là Xây đe. Năm 1907, Pháp rời nhà in đi nơi khác lấy địa điểm này xây một trường học quy mô lớn nhất nhì Đông Dương. Ngày 9/12/1908, Phủ toàn quyền Đông Dương ra Nghị định thành lập trường Thành Chung bảo hộ trên cơ sở sáp nhập trường Thông ngôn Hà Nội (mở năm 1904) và trường Thành chung Nam Định. Năm 1931 chuyển thành trường Trung học Bảo hộ.

Trái với mục đích mở trường của thực dân Pháp, một số thầy trò đã tích cực tham gia các phong trào đấu tranh cách mạng: biểu tình, bãi khoá đòi ân xá Phan Bội Châu, bãi khoá để tang Phan Chu Trinh... Nhiều học sinh của trường là chiến sĩ cách mạng kiệt xuất như: Ngô Gia Tự, Nguyễn Văn Cừ, Hà Huy Tập, Phạm Văn Đồng…; là nhà quân sự, khoa học kỹ thuật tài ba: Nguyễn Văn Chu, Nguyễn Tiến Sâm...

Khi giặc Pháp xâm chiếm Nam Bộ, nhiều thầy giáo và học sinh của trường đã tự nguyện xếp bút nghiên lên đường chiến đấu. Sau khi Nhật đảo chính Pháp, ngày 12/6/1945, Khâm sai Bắc Bộ là Phan Kế Toại ra Nghị định đổi tên thành trường Quốc lập trung học mang tên Chu Văn An, vị danh nho tài đức, tiết tháo thời Trần.

Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được thành lập, Giáo sư Dương Quảng Hàm đã được chính thức bổ nhiệm làm hiệu trưởng nhà trường.

Năm 1946, cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ, một bộ phận của trường ra chiến khu Việt Bắc, một bộ phận ở lại trong lòng địch, nhưng đều có những đóng góp tích cực vào thắng lợi của cuộc kháng chiến.

Trong thời kỳ chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, thầy trò trường Chu Văn An luôn khắc phục mọi khó khăn để “trò học tốt, thầy dạy giỏi”. Không ít thầy giáo, học sinh đã lên đường nhập ngũ chiến đấu, góp phần giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Trải qua các cuộc kháng chiến, Trường Chu Văn An đã có rất nhiều gương anh hùng, liệt sĩ đã hy sinh vì Tổ quốc:

Thời kỳ Cách mạng tháng Tám: liệt sĩ Ngô Gia Tự, Nguyễn Văn Cừ, Ngô Đình Ninh.

Thời kỳ kháng chiến chống Pháp: Giáo sư, hiệu trưởng Dương Quảng Hàm, Phùng Văn Phúc, Lê Quân, Nguyễn Anh Bảo, Minh Đăng, Nguyễn Sỹ Vân...

Thời kỳ kháng chiến chống Mỹ: thầy giáo Nguyễn Doãn Hào, Ngô Tất Thắng, Nghiêm Trần Thanh, Nguyễn Phi Hùng, Nguyễn Đình Phúc, Giang Lê Bồng, Hoàng Xuân Chính...

Với những đóng góp của nhà trường trong giảng dạy - học tập và chiến đấu, Trường Chu Văn An đã vinh dự được Chủ tịch Hồ Chí Minh và các vị lãnh đạo Đảng, Nhà nước nhiều lần đến thăm và biểu dương thành tích. Thực hiện lời dạy ân cần của Chủ tịch Hồ Chí Minh, sự quan tâm của lãnh đạo Đảng và Nhà nước, thầy trò Trường Chu Văn An - luôn phấn đấu thi đua lập thành tích trong giảng dạy và học tập. Nhiều cô giáo và thầy giáo dạy giỏi, nhiều thế hệ học sinh giỏi đạt các giải quốc tế, quốc gia và thành phố. Nhiều năm trường là đơn vị tiên tiến xuất sắc.

Với những thành tích đạt được, nhà trường đã vinh dự được nhận các phần thưởng cao quý:

Huân chương Lao động hạng Ba năm 1967.

Huân chương Lao động hạng Nhì năm 1992. .

Huân chương Độc lập hạng Nhất.

Cùng nhiều huân, huy chương kháng chiến và huy chương vì sự nghiệp giáo dục cho nhiều thầy giáo, cô giáo.

Hiện nay Trường Chu Văn An có một phòng truyền thống trưng bày tranh ảnh, hiện vật và các tư liệu lịch sử của trường tại nhà bát giác. Ngoài ra, trường còn lưu giữ các hiện vật: thành tích thi đua của thầy và trò; bút tích của Bác Hồ khi về thăm trường; hình ảnh của các đồng chí lãnh đạo: Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp... cùng nhiều hiện vật khác.

Tháng 2 năm 1995, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định xây dựng Trường Chu Văn An trở thành “Trường Trung học phổ thông chất lượng cao”.

Căn cứ những giá trị lịch sử - cách mạng như đã nêu ở trên, ngày 23/8/2004, Bộ Văn hoá và Thông tin đã ra quyết định xếp hạng di tích quốc gia Trường Chu Văn An là di tích lịch sử - văn hoá./.

Chu Văn An là một nhà nho, người Thầy thời phong kiến, song những đóng góp của ông còn có nhiều giá trị cho các thế hệ mai sau của đất nước.

1. Thân thế và sự nghiệp của Chu Văn An (1292 - 1370)

Chu Văn An sinh năm Nhâm Thìn (1292) và mất năm Canh Tuất (1370)

còn gọi là Chu An, Chu Văn Trinh, tự là Linh Triệt, hiệu là Tiểu Ẩn, người thôn Văn, xã Quang Liệt, huyện Thanh Đàm, nay là Thanh Trì, Hà Nội. Ngay từ hồi còn trẻ, Chu Văn An đã nổi tiếng là một người cương trực, sửa mình trong sạch, giữ tiết tháo, không cầu danh lợi, chỉ ở nhà đọc sách và dạy học.

Chu Văn An là danh nho, nhà tho, nhà giáo đời Trần. Thượng hoàng Trần Minh Tông đã mời ông làm Tư nghiệp ở Quốc Tử Giám- một chức lãnh đạo ngôi trường cấp cao nhất nước ta. Có lẽ Chu Văn An là người duy nhất trong thời phong kiến nước ta, do việc tự học, tự dạy học mà được triều đình mời ra làm quan - chức quan trông coi việc Quốc học, Quốc giáo. Đến đời Trần Dụ Tông (1314 - 1368) thấy sự suy đồi, ông viết “Thất trảm sớ” xin vua chém 7 gian thần (là cận thần của nhà vua), nhưng không được chấp nhận, ông bèn "treo mũ ở cửa Huyền Vũ" từ quan về quê dạy học nhưng tâm can vẫn đau đáu ưu lo chính sự. Ít lâu sau, ông dời nhà đến ở ẩn tại núi Phượng Hoàng, làng Kiệt Đặng, huyện Chí Linh (Hải Dương). Trần Nghệ Tông lên ngôi có mời ông ra giúp chính sự, ban chức tước nhưng ông chỉ về kinh chúc mừng, rồi quay về dạy học và làm thơ. Không lâu sau đó, ông ốm mất. Vua Nghệ Tông ban tặng tên thụy cho ông là Văn Tri, sai bề tôi đến tế lễ và cho được thờ ở Văn Miếu.

Trong sự nghiệp giáo dục, Chu Văn An là một nhà giáo chân nho. Ông viết bộ sách “Tứ thư thuyết ước” gồm 10 quyển đều đã bị thất lạc. Dù không giữ được tác phẩm nhưng những tư tưởng châm nho của ông đã được các học trò thấm nhuần và có ảnh hưởng lớn trong việc duy trì truyền thống đạo đức Việt Nam trong bối cảnh triều chính thối nát dưới thời Trần Dụ Tông. Trong hoạt động dạy học của mình Chu Văn An đã nỗ lực giảng giải học thuyết kinh điển của đạo Nho, tạo điều kiện cho lí thuyết Nho giáo của Khổng, Mạnh được dần dần độc tôn trước đạo Phật. Các đời vua sùng Nho sau này rất biết ơn thầy Chu Văn An. Về nhân cách nhà giáo, Chu Văn An là một người thầy uy nghi, mẫu mực, khiến lớp học trò phải kính nể, tôn phục. Những học trò đã làm quan to như Phạm Sư Mạnh, Lê Quát, nhưng làm điều sai sót, chưa ổn khi về thăm thầy vẫn bị thầy nghiêm khắc quát mắng.

Trong sự nghiệp văn chương, ông có viết: “Tiểu Ẩn thi tập” và “Quốc ngữ thi tập” nhưng đều không còn giữ được. Người đời sau chỉ còn ghi lại được 11 bài, trong đó có 2 câu được truyền tụng nhất vì thể hiện rõ nhất tư tưởng làm người của Chu Văn An:

Thân dữ cô vân trường luyến tụ

Tâm đồng cổ tỉnh bất sinh lan.

Nghĩa là:

Đời như đám mây lẻ, ngừng mãi trong không gian

Lòng như giếng nước xưa, không bao giờ gợn sóng

Nhìn chung, hiện nay, không có đầy đủ tài liệu để biết một cách cụ thể về quan niệm học thuật và phương pháp giảng dạy, giáo dục của Chu Văn An. Nhưng các chi tiết về tiểu sử, thơ văn của ông đã lưu lại cho hậu thế về một tấm gương lẫm liệt, tiết tháo thanh cao của một vị tôn sư khẳng khái, về uy tín cao thượng để lại cho nhiều thế hệ học trò, được người đười mãi ngợi ca [Bùi Minh Hiền]. Khi ông ra phụ trách trường Quốc Tử Giám, Trần Nguyên Đán đã nói về ông: “Bể học xoay triều sóng, phong tục trở về thuần hậu, trường học lớn trong nước có vị thần như sao Bắc Đẩu, như núi Thái Sơn”. Còn Phan Huy Chú, nhà sử học lớn của Việt Nam đã ca ngợi “Làng nho nước Việt, trước sau chỉ có một ông, các người khác không ai so sánh được”.

Người dân nước ta đã bao đời đều tôn vinh Chu Văn An là “Vạn thế sư biểu” - Người thầy của muôn đời. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, để tưởng nhớ đạo đức và sự nghiệp của ông, nhân dân Thủ đô đã lấy tên ông để đặt tên cho một con đường phố và một ngôi trường Trung học lớn của Hà Nội. Năm 2000 Nhà nước đã tạc tượng ông để thờ tại nhà Thái học - Quốc Tử Giám (Hà Nội) nhằm khuyến khích và phát huy truyền thống văn hiến của dân tộc.

2. Vài nét khái quát về những đóng góp của Chu Văn An đối với nền giáo dục nước nhà

Thật không dễ để trình bày một cách đầy đủ và toàn diện của Chu Văn An đối với nền giáo dục nước nhà, tuy nhiên, chúng ta có thể khái quát một số đóng góp tiêu biểu của Ông dưới đây:

Quan niệm về đạo đức, uy tín và năng lực của người Thầy: Chu Văn An xác định, người Thầy luôn phải là tấm gương sáng về đạo đức, uy tín và tài năng. Suốt cuộc đời, ông cống hiến cho sự nghiệp giáo dục. Ông là một nhà sư phạm mẫu mực, suốt cuộc đời gắn bó, tận tụy với nghề dạy học, không ham công danh phú quý mà quên đi công việc “dạy chữ, dựng người”. Việc có nhiều đối tượng học trò đến xin học (tương truyền có tới hơn ba nghìn người) và trưởng thành dưới mái trường của ông đã thực sự chứng tỏ uy tín và đạo đức của ông. Uy tín ấy vượt ra khỏi cả sự lưu truyền trần thế, khiến cho vua Thủy Tề cũng phải gửi con theo học (theo truyền thuyết). Như thế, tư tưởng hành đạo, noi theo gương sáng của ông Tổ đạo Nho (Khổng Tử) “học không biết chán, dạy người không biết mỏi” (Học nhi bất yếm, hối nhân bất quyện) đã được Chu Văn An hiện thực hóa. Với việc mở trường tư thục dạy học, ông đã góp phần làm cho không khí học tập cuối thời Trần trở nên sôi nổi.

Chu Văn An đã dùng chính thực học và tài đức của mình mà ảnh hưởng tới nền giáo dục đương thời. Suốt cuộc đời của mình, ông đem sự nhiệt tình và tài năng của mình cống hiến cho đất nước. Việc ông không hề có tham vọng đem tài năng thi thố làm quan mà lại được mời ra làm một chức quan trông coi việc giáo dục cho triều đình đã thể hiện rõ tinh thần của Thánh hiền đạo Nho: “Không cầu người biết đến mình mà chỉ lo mình không có tài đức để người ta biết đến”.

Chu Văn An luôn xác định rõ nhiệm vụ của người Thầy. Ông dạy học trò là Tú Sĩ rằng: “Phàm học thành đạt cho mình là để thành đạt cho người, công đức tới dân, ân huệ để lại đời sau, đấy đều là phận sự của nhà Nho chúng ta”. Ở đây, có lẽ tư tưởng của Khổng Tử được Chu Văn An thể hiện một cách rõ ràng và mang tính tiến bộ vượt bậc khi ông coi nhiệm vụ của nhà Nho là phải “công đức tới dân, ân huệ để lại đời sau”.

Về nguyên tắc giáo dục: Chu Văn An luôn chủ trương giáo dục không phân biệt đối tượng. Thời nhà Trần đã có một số trường công do triều đình mở ra như Quốc Tử Giám, trường học ở Phủ Thiên Trường,… nhưng phần lớn các trường này là chỉ dành cho con em quý tộc. Chu Văn An đã mở trường tư thục Huỳnh Cung ở quê nhà để thu nhận học trò nghèo có ý chí trau dồi kinh sử để thi thố tài năng giúp nước. Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Ông ở nhà đọc sách, học vấn tinh thông, nổi tiếng gần xa, học trò đầy cửa, thường có kẻ đỗ đại khoa, vào chính phủ”. Thực hiện tư tưởng “hữu giáo vô loại” của Khổng Tử, ông nhận dạy tất cả những người cầu học: Thái tử con vua (sau này làm vua); các học trò đỗ đạt cao, làm quan trong triều (như Lê Quát, Phạm Sư Mạnh) và biết bao nhiêu học trò khác tuy không thành đạt được như vậy nhưng chí ít cũng thấm đẫm tư tưởng và tinh thần của ông mà đem ảnh hưởng đó tác động đến sự thay đổi của xã hội đương thời. Với tình cảm thương yêu học trò, không phân biệt đối xử, ông nhận được ở họ sự trân trọng, khâm phục và kính yêu. Khi ông mất, nhiều học trò làm nhà bên mộ ông để trọn tình nghĩa thầy trò.

Về nội dung giáo dục: Chu Văn An luôn hướng con người đến lễ nghĩa, nhân hậu và thanh cao. Ông chủ yếu truyền dạy tư tưởng Nho gia cho học trò. Việc ông giảng giải và viết “Tứ thư thuyết ước” đã chứng tỏ cho mục đích cao nhất của ông là “giáo kính, giáo trung, giáo văn”, nghĩa là dạy sự cung kính, dạy sự trung hậu, dạy sự văn nhã. Tuy có ảnh hưởng triết học Phật giáo và Lão giáo nhưng khuynh hướng Nho học ở ông là chủ đạo. Các học trò của ông đều thể hiện rõ tư tưởng “sùng Nho”, “bài Phật” (sùng bái đạo Nho, bài bác Đạo Phật).

Chu Văn An dẫn dắt học trò đi theo con đường hành đạo của một nhà nho chân chính: sống trong thời loạn lạc, dẫu có thất thế cũng không pha màu u uất, xa lánh trần tục một cách hoàn toàn mà vẫn cứng cỏi trụ vững ở đời, trái tim vẫn chung nhịp với thế cuộc bể dâu. Tuy ở ẩn nhưng “Tấc son nào đã như tro nguội/ Nghe nói Tiên hoàng giọt lệ sa”. Hành động ông trở về triều mừng vua Trần Nghệ Tông lên ngôi (sau sự biến Dương Nhật Lễ) đã thể hiện rõ quan điểm sống không xa rời những biến chuyển của lịch sử Triết lí giáo dục hành động của Chu Văn An còn được thể hiện rõ trong phương châm dạy học luôn gắn liền với thực tiễn đời sống của nhân dân. Ông dạy học trò phải biết kính yêu người dân lao động, có trách nhiệm chăm lo đến đời sống của họ. Tương truyền, trong khi dạy học ở trường Huỳnh Cung gặp phải năm trời đại hạn, Thầy Chu nói với một học trò (sau này ông mới biết là Thủy thần) đem tài năng cầu trời làm mưa để cứu dân. Người học trò ấy đã hi sinh thân mình vẩy mực lên trời cầu mưa cứu cho dân qua khỏi đại hạn đói khát. Tuy câu chuyện có tính chất huyền hoặc nhưng nó cũng cho chúng ta thấy sự lưu truyền về cách dạy học gắn với thực tế đời sống của tiên triết Chu Văn An.

Thêm vào đó, trên cơ sở coi trọng học trò, ông giáo dục cho học trò tinh thần dũng cảm, tiết tháo cao thượng, trừ hại giúp dân cứu nước, sẵn sàng hi sinh tính mạng của mình. Điều này thể hiện trong hành động dâng “Thất trảm sớ” của ông. Cho đến nay, không ai biết nội dung bản sớ đó ra sao, ông đòi vua phải chém đầu những tên quyền thần nào nhưng với hành động “Nghĩa động Càn Khôn, nghĩa động Quỷ thần” đó, Chu Văn An đã giáo dục học trò và người đời, cả nhà vua khi đó, một bài học: cần phải nghiêm khắc trừng trị những kẻ nịnh thần, gian tham hại dân hại nước. Chỉ ba chữ “Thất trảm sớ” đã làm cho người đời khâm phục, kính trọng ông và hành động theo ông để giữ tròn tiết tháo của một người có trách nhiệm với đất nước non sông. Theo nhận định của sử thần Ngô Sĩ Liên, tấm gương Chu văn An đã góp phần tích cực cải tạo đạo đức xã hội: “Hãy lấy Văn Trinh mà nói, thờ vua tất thẳng thắn can ngăn, xuất xử thì làm theo nghĩa lí, đào tạo nhân tài thì công khanh đều ở cửa ông mà ra, tiết tháo cao thượng thì thiên tử cũng không thể bắt làm tôi được. Huống chi tư thế đường hoàng mà đạo làm thầy được nghiêm, giọng nói lẫm liệt mà bọn nịnh hót phải sợ. Ngàn năm về sau, nghe phong độ của ông, há không làm cho kẻ điêu ngoa thành liêm chính, người yếu hèn biết tự lập được hay sao? Nếu không tìm hiểu nguyên cớ, thì ai biết thụy hiệu của ông xứng đáng với con người của ông. Ông thực đáng được coi là ông tổ của các nhà nho nước Việt ta mà thờ vào Văn Miếu”.

Về phương pháp giáo dục: Chu Văn An luôn đề cao sự nghiêm khắc trong giáo dục thế hệ trẻ. Sự nghiêm khắc trước tiên phải đến từ những người Thầy. Ông khẳng định: “làm Thầy phải nghiêm”. Sách “Tam tự kinh” - loại sách “khai tâm” của học trò xưa có câu: “Giáo bất nghiêm, sư chi nọa” (Dạy không nghiêm, đạo thầy hỏng). Nghiêm không phải là dữ đòn để cho học trò sợ, mà đối với Chu Văn An, “nghiêm” là thái độ nghiêm trang, mẫu mực trong giáo dục, là việc giảng dạy chặt chẽ, có quy củ, kỷ cương. Đại Việt sử kí toàn thư viết: “Kẻ nào xấu thì ông nghiêm khắc trách mắng, thậm chí la hét không cho vào. Ông là người trong sạch, thẳng thắn, nghiêm nghị, lẫm liệt đáng sợ đến như vậy đấy”. Sự nghiêm nghị, tiết tháo, thanh cao của ông đã thực sự là tấm gương lẫm liệt tỏa sáng cho học trò noi theo. Ảnh hưởng từ tấm gương thực tiễn của ông đối với trí thức đương thời là rất lớn.

Về vấn đề biên soạn tài liệu dạy học: Chu Văn An luôn quan tâm đến việc biên soạn tài liệu để giúp cho người học có được tài liệu học tập. Đây là một điểm mới trong cách quan niệm về nội dung và phương pháp giáo dục của ông. Không chỉ chú trọng nội dung giáo dục về đạo làm người theo tinh thần Nho gia (ông viết “Tứ thư thuyết ước” - đã thất lạc - và có lẽ đây là bộ sách đầu tiên luận giải về Nho giáo một cách có hệ thống) mà Chu Văn An còn biên soạn cả những tài liệu về y học trị bệnh cứu người - “Y học yếu giải tập chu di biên”. Ông cũng viết hai tập thơ “Quốc ngữ thi tập” và “Tiều ẩn thi tập” để bồi bổ thêm tinh thần và kiến thức sâu rộng, toàn diện cho học trò. Việc Chu Văn An viết sách không chỉ đơn giản là để làm tài liệu học tập mà cao hơn cả là qua đó, để gìn giữ và khuếch trương di sản văn hóa của dân tộc (dùng chữ Nôm), khẳng định sự độc lập về văn tự đối với nền văn hóa Hán. Cũng trong các tác phẩm ấy, để thể hiện rõ tính chất dân tộc trong văn hóa, thi ca, ông không hề vay mượn những điển tích ngoại lai mà chỉ miêu tả những gì hiện thực trước mắt, những cảnh đẹp thiên nhiên và con người Đại Việt. Đây là phong cách đặc biệt trong các nhà nho thời Trần mà đi đầu là nhà sư phạm mẫu mực Chu Văn An.

Như vậy có thể nói rằng, Chu Văn An đã để lại cho hậu thế rất nhiều kinh nghiệm giáo dục cho thế hệ trẻ. Những kinh nghiệm giáo dục của Chu Văn An được vận dụng mang lại nhiều ý nghĩa thiết thực qua đó càng khẳng định những đóng góp to lớn của ông đối với sự nghiệp giáo dục nước nhà suốt theo chiều dài lịch sử.