Học thuyết tôn giáo của người Sumer có là

Lịch sử Lưỡng Hà là lịch sử của nhiều quốc gia, dân tộc. Thành tựu văn hóa Lưỡng Hà đạt được chính là sự tổng hợp những thành tựu văn hóa của người Sumer, Akkad, Babylon, người Canđê… Trong đó, người Sumer không những là tộc người lập nên những quốc gia đầu tiên mà còn là tộc người đặt nền móng xây dựng nên nền văn hóa Lưỡng Hà. Văn hóa Lưỡng Hà phát triển tương đối toàn diện, phong phú có sự kế thừa và phát triển. Văn hóa Lưỡng Hà đã có những ảnh hưởng tới nền văn hóa của các quốc gia ở Tây Á, văn hóa Hi Lạp và Rôma.

Chữ viết

Chữ viết xuất hiện ở Lưỡng Hà khá sớm, vào khoảng thiên niên kỉ IV TCN và là một trong những thành tựu văn hóa quan trọng nhất của Lưỡng Hà.

Người Sumer đã phát minh ra chữ viết Lưỡng Hà sớm nhất. Đầu tiên người Sumer dùng những hình vẽ – về sau là những nét vạch hợp lại thành ý. Họ dùng một thanh gỗ nhỏ hay sậy vót nhọn 1 đầu, ấn trên phiến đất mềm tạo thành 1 đầu nhọn, đáy bằng, trở ngược thanh gỗ vạch một đường thẳng, trông như mũi tên hay chiếc đinh. Một số chiếc đinh này hợp lại thành từ.

Mỗi tấm đất sét là một trang sách, đó chính là chữ tượng hình của người Ai Cập, những thứ chữ đó có hình tiết như những góc nhọn, nên thường được gọi là chữ hình góc hay hình đinh. Rất nhiều tộc người ở Tây Á thời cổ đại đã sử dụng loại chữ viết này, vì vậy có thể coi chữ viết do người Sumer phát minh ra là thứ chữ mẹ đẻ của nhiều chữ viết cổ khác của người Akkad, Babylon, Hatti, Atxiri, Ba Tư. Sau khi khai quật thành phố Ninivơ – Thủ đô của đế quốc Atxiri, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy một thư viện lớn trong cung điện của vua Atxuabanipan, trong đó lưu trữ tới 2200 cuốn sách. Đó chính là những “trang sách” bằng đất sét, được ghi bằng loại chữ “hình đinh” Sumer.

Nửa đầu thế kỉ XIX, hai nhà ngôn ngữ Đức Gơrôtophen (Grôtefend) và Anh Raolinhxơn (Henry Rawlinson) thông qua văn tự Ba Tư đã đọc được chữ hình đinh này, việc nghiên cứu lịch sử của khu vực Lưỡng Hà thời cổ đại càng đạt được những thành tựu mới.

Văn học

Cơ sở của nền văn học Lưỡng Hà cũng chính là nền văn học do người Sumer sáng tạo, bao gồm nhiều thể loại: văn học truyền miệng, văn học dân gian, thơ, ca và nhất là thể loại anh hùng ca.

Văn học truyền miệng, dân ca có bài ca của người xay lúa, người nấu bếp, người làm bánh mì. Thể loại ngụ ngôn nhân cách hóa các con vật để khuyên răn giáo dục con người cũng khá phổ biến, ví như truyện ngụ ngôn “Cuộc tranh cãi giữa ngựa với bò”.

Truyền thuyết về nạn hồng thủy và cuộc đấu tranh của thần Ninuta với loài quỷ dữ giữ nước đã phản ánh thực tế điều kiện tự nhiên vừa thuận lợi vừa dữ tợn của hai dòng cảng Tigrơ, Ơphơrát. Cũng như cuộc đấu tranh gian khổ của người dân Lưỡng Hà trong công cuộc chế ngự thiên nhiên để tồn tại và phát triển nền kinh tế nông nghiệp của mình. Văn học Lưỡng Hà chịu ảnh hưởng khá đậm nét của hệ thống tư tưởng, tôn giáo. Những bài thánh ca, ngợi khen sức mạnh và ủy quyền tuyệt đối của các thần linh đặc biệt là thần Macđúc – thần chủ của người Lưỡng Hà – khá phổ biến. Trong bài thơ “Emit và Enten”, thần Enhin đã quyết định phần thắng lợi cho người làm ruộng trong cuộc tranh cãi giữa hai người đại diện cho hai nghề trồng trọt và chăn nuôi.

Trong văn học, thần Macđúc luôn luôn được thể hiện là một vị thần tối cao, sáng tạo muôn loài. Thần đã chiến thắng quỷ dữ Tiamát để tạo ra thế giới.

Tác phẩm văn học tiêu biểu nhất của Lưỡng Hà cổ đại là anh hùng ca Gilgamesh, mặc dù vẫn bị bao phủ bởi lớp màng tôn giáo, nhưng anh hùng ca Gilgamesh đã ca ngợi sức mạnh vô địch của con người, ca ngợi cái thiện và thắng lợi tất yếu của cái thiện trước cái ác.

Gilgamesh là vua thành Urúc, một người khỏe mạnh, giàu nghị lực và óc sáng tạo đã kết thân với Enkidu và cùng nhau lập được nhiều chiến công. Tài năng và vẻ đẹp của chàng trai đã làm nữ thần Isơta say đắm, nhưng chỉ được đáp lại bằng sự thờ ơ. Isơta căm tức, tìm cách hại Gilgamesh. Nữ thần đã cho một đàn bò xuống tàn phá đồng ruộng Urúc, nhưng Gilgamesh và bạn chàng là Enkidu đã giết hết đàn bò thần của Isơta, bảo vệ mùa màng. Isơta càng tức giận đã làm cho Enkidu lâm bệnh, chết. Gilgamesh cô đơn, bàng hoàng, đã đi tìm thần thánh để chất vấn về sự sống chết, trường sinh bất tử.

Tôn giáo

Người Lưỡng Hà theo đa thần giáo. Mỗi quốc gia đều có thần chủ của mình. Người Urúc thờ thần Anu, Eriđu thờ thần Eaua.

Ngoài các thần chủ, người Lưỡng Hà còn tôn thờ nhiều thần khác như Thần nước Ea và con trai của thần. Thần Tammu được coi như vị thần dạy bảo cư dân trồng trọt, làm nghề thủ công và là vị thần của lòng nhân ái, bảo vệ mùa màng. Thân Nêgan – Thần địa ngục – được thể hiện như một sinh vật kì dị, có sức mạnh ghê gớm: mặt người, sừng bò, mình sư tử, có cánh. Nữ thần Iara được gọi là thần mẹ, thần bảo hộ nông nghiệp và sinh sản. Thần Mặt trời Samát là thần bảo trợ luật pháp, tòa án.

Cùng với sự xác lập quyền lực tối cao trong toàn khu vực Lưỡng Hà của người Babylon, thời kì Hămmurabi trị vì, Thần Mácđúc đã trở thành vị thần tối cao trong toàn quốc. Bản thân nhà vua cũng được thần thánh hóa, thay mặt thần Mácđúc cai trị muôn dân. Cùng với sự tồn tại của hệ thống tôn giáo phức tạp, đa dạng, tập đoàn tăng lữ Lưỡng Hà cũng đã xuất hiện. Họ có một vị trí quan trọng trong đời sống tinh thần, xã hội của cư dân Lưỡng Hà, điều hành toàn bộ lễ nghi tôn giáo của cư dân. Đồng thời cũng là những quý tộc giàu có nhiều ruộng đất, bóc lột cư dân trong toàn quốc.

Khoa học tự nhiên

Toán học của người Lưỡng Hà phát triển khá sớm. Người Lưỡng Hà sử dụng nhiều phương pháp đếm khác nhau. Từ hệ thống đếm lấy số 5 làm cơ sở, đến hệ thống đếm lấy 60 làm đơn vị. Ngoài ra, người Lưỡng Hà cũng còn sử dụng hệ thống đếm lấy số 10 làm cơ sở (phương pháp Thập tiến vị).

Người Lưỡng Hà cũng đã biết dùng số pi = 3,00 để tính diện tích và chu vi hình tròn. Họ cũng đã phát hiện ra định lí: trong một tam giác vuông, bình phương cạnh huyền bằng tổng bình phương của hai cạnh góc vuông. Người ta đã tìm thấy những cuốn sách ghi lại các bài tập toán học của người Lưỡng Hà theo nhiều phép tính khác nhau như tính sản lượng thu hoạch ở các khoảnh ruộng có diện tích khác nhau; tính thời gian cần thiết để đào 4 cái hồ chứa nước có độ sâu khác nhau…

Về thiên văn học, người Lưỡng Hà đã có những cống hiến hết sức quan trọng. Bầu trời Lưỡng Hà trong sáng suốt 8 tháng trong một năm, do vậy các nhà thiên văn học có điều kiện và có những thu góp đáng kể. Họ đã phát hiện ra hoàng đạo, chia các tinh thể trên bầu trời thành 12 cung gọi là “12 cung hoàng đạo”. Các chòm tinh thể được vẽ và ghi chép lại theo quỹ đạo tương đối chính xác. Người Lưỡng Hà cũng có những kiến thức sâu sắc về sao chổi, sao băng, hiện tượng nguyệt thực, nhật thực. Lịch pháp của người Lưỡng Hà xuất hiện sớm ngay từ thời kì thống trị của các quốc gia Sumer, và theo nguyên tắc âm lịch: 1 năm có 12 tháng, một tháng có 29 hoặc 30 ngày (6 tháng 29 ngày và 6 tháng 30 ngày). Các nhà khảo cổ học cũng tìm thấy 40 tấm bảng đất sét ghi chép khá chi tiết cách chữa một số bệnh thông thường như các bệnh về đường tiêu hóa, hô hấp, mắt, tai, tim, thần kinh… Nội khoa và ngoại khoa đã được phân biệt rõ ràng trong y học Lưỡng Hà.

Kiến trúc, điêu khắc

Mặc dù thiếu đá, gỗ và gạch là vật liệu xây dựng chủ yếu ở Lưỡng Hà, nhưng cư dân Lưỡng Hà đã có những đóng góp lớn lao trong lĩnh vực kiến trúc, điêu khắc.

Nhiều đền miếu có trang trí, chạm khắc sặc sỡ đã được xây dựng. Cung điện của vua Guđêa – vua Lagasơ – và cung điện của vua Nabusôđônôxo – vua xứ Mêđi là 2 công trình kiến trúc đồ sộ của người Lưỡng Hà.

Nổi bật nhất trong nghệ thuật kiến trúc của Lưỡng Hà là thành Babylon và khu vườn treo Babylon được xây dựng trong thời trị vì của Nabusôđônôxo – quốc vương Tân Babylon sau này được coi là một trong 7 kì quan của thế giới cổ đại. Tương truyền khu vườn treo Babylon – khu vườn thượng uyển độc đáo được Nabusôđônêxo xây dựng để chiều ý vương hậu sủng ái của ông. Bà vốn là công chúa xứ Mêđi – xứ sở của rừng núi, cây, cảnh. Toàn bộ vườn treo là một ngọn núi nhân tạo cao 25m được chia thành 4 tầng, nối mỗi tầng là những cầu thang to, rộng. Mỗi tầng được xây dựng theo lối kiến trúc truyền thống – kiến trúc vòm cuốn bằng gạch trên những cột cao, có trang trí. Người ta dùng những tảng đá to phẳng xây khít để tạo nên mặt bằng của thành. Kế đó, người ta trải một lớp cói mỏng, nhựa đường, tiếp đó xây một lớp với 2 hàng gạch được ghép lại với nhau chặt chẽ bằng bột thạch anh, trên lớp gạch ấy là những tấm kim loại và trên cùng, người ta đổ đất để trồng cây. Để tưới cho cây, trong vườn có hệ thống ống dẫn nước được xây dựng. Một luồng nước từ sông Ơphơrát được dẫn lên bể chứa ở mỗi tầng, và hàng trăm nô lệ, hàng ngày vác gầu ra múc nước ở các bể chứa để tưới cho cây cỏ. Vườn treo bốn mùa cây cối xanh tươi. Đứng trên “vườn hoa không trung” ấy có thể bao quát toàn cảnh thành Babylon lộng lẫy.

Đền tháp Ementelauki cũng là một loại hình kiến trúc độc đáo của Lưỡng Hà. Tháp cao 90m, từ xa trông ngọn tháp 7 tầng như một cái thang khổng lồ vươn thẳng lên trời. Tầng dưới cùng là một khối vuông cạnh 90m, cao 30m, gồm nhiều phòng và được quét một lớp sơn màu đen. Tầng 2 hẹp dần theo thế hình tháp sơn màu đỏ. Tầng 3 màu trắng, tầng 4, 5, 6 màu đỏ và tầng 7 màu xanh, có những viền vàng sáng chói, tầng này có mái che và trang trí hình những chiếc sừng to bằng vàng cao vút ở 4 góc. Tầng 7 chính là một ngôi miếu nhỏ trong đó có tượng thần Macđúc bằng vàng.

Lịch sử thế giới cổ đại - NXB Giáo dục,

Những Thần thoại về Đại hồng thủy ấy, tuy được sản sinh trong các nền văn minh khác nhau, nhưng lại giống nhau đến không ngờ. Giả như Đại hồng thủy đúng là ký ức của nhân loại thì nó đang nói với chúng ta điều gì? Nội hàm gì ẩn đằng sau một sự kiện từ thời viễn cổ trên quy mô toàn thế giới? Nó đã đặt ra cho nhân loại thật nhiều hoài nghi và giả thiết…

Học thuyết tôn giáo của người Sumer có là
Học thuyết tôn giáo của người Sumer có là
Noah chuẩn bị con thuyền lớn trước Đại hồng thủy. (Tranh: Dimitrisvetsikas1969, Pixabay, Pixabay License)

Những miêu tả về một trận Đại hồng thủy đã được ghi lại trong các bảng đất sét của người Sumer, truyền thuyết về người Maya ở Trung Mỹ, những câu chuyện của người Muisca tại Colombia, truyền thuyết về Babylon, cổ tích và sử thi Ấn Độ, thần thoại Đại Vũ trị thủy của Trung Hoa, hay thậm chí cả Sơn tinh Thủy tinh của Việt Nam… Người ta tổng hợp có tới khoảng 50 Thần thoại và truyền thuyết về Đại hồng thủy. Tất cả đều rất chi tiết, rõ ràng, mạch lạc, và đều có một mô típ chung rằng khi đạo đức của nhân loại tuột dốc thì thảm họa sẽ xảy ra, và chỉ có người tốt mới sống sót.

Đại hồng thủy có thật không? Câu trả lời là hoàn toàn có thể…

  • Khoảng 10.000 năm trước Công Nguyên, trục Trái đất đã từng thay đổi. Băng tan chảy có thể đã khiến mực nước các đại dương trên toàn thế giới dâng cao. Tuy nhiên một trận Đại hồng thủy như vậy khó có khả năng giết chết toàn bộ nhân loại mà chỉ gây nên lũ lớn.
  • Còn tại Bắc Mỹ, các nhà khoa học cho rằng một đợt nước biển dâng cao bất thường đã xảy ra vào khoảng 8.400 năm về trước, khi hồ lớn Agassiz cổ cạn nước nhanh chóng.
  • Hai nhà địa chất học William Ryan và Walter Pitman thuộc trường Đại học Columbia thì nghiên cứu về một trận Đại hồng thủy lớn đã từng xảy ra tại khu vực Trung Đông vào cuối kỷ Băng Hà khoảng 7.000 năm về trước.
  • Bằng chứng khảo cổ lại cho thấy một lớp trầm tích nằm giữa các lớp đất tại Iraq ngày nay có niên đại khoảng 2.900 năm về trước, là thể hiện của một trận lũ lớn…
  • v.v.

Nhưng những niên đại khác nhau của các nghiên cứu khoa học lại tiếp tục đặt ra cho chúng ta một câu hỏi: Đại hồng thủy xảy ra khi nào? Về vấn đề này, một thầy tế Ai Cập đã từng nói với nhà bác học cổ Hy Lạp Plato rằng, có thể đã có rất nhiều trận Đại hồng thủy xảy ra, từ thời Atlantis chìm xuống đáy biển cho đến tận truyền thuyết về Deucalion trong Thần thoại Hy Lạp. Đó cũng có thể là một lời gợi ý…

Học thuyết tôn giáo của người Sumer có là
Học thuyết tôn giáo của người Sumer có là
Một bức bích họa tại đảo Akrotiri, được một số người cho là mô tả lục địa Atlantis. Liệu những nền văn mình đã mất có thể là câu trả lời cho Đại hồng thủy? (Tranh: Mmtaylor.net, Public Domain)

Từ truyền thuyết của người Sumer đến Kinh Thánh

Năm 1922, nhà khảo cổ người Anh C. Leonard Woolle bắt đầu tiến hành đào bới khảo sát khu vực sa mạc Lưỡng Hà nằm giữa Baghdad và vịnh Ba Tư, kết quả là phát hiện di chỉ thành Ur thuộc vương quốc Sumer cổ đại, và phát hiện ra mộ của vua chúa trong thành này.

Học thuyết tôn giáo của người Sumer có là
Học thuyết tôn giáo của người Sumer có là
Bức tranh khảm tìm thấy tại khu lăng mộ Hoàng gia Ur cho thấy văn minh Sumer đã từng rất phát triển. (Tranh: Alma E. Guinness chụp, Wikipedia, Public Domain)

Woolle và những người trợ giúp ông cũng phát hiện ra một tầng đất sét trầm tích bên dưới ngôi mộ. Tầng đất sét dày đến 2 m này từ đâu mà có? Sau khi nghiên cứu phân tích số đất sét này, Wolle cho rằng chúng thuộc về lớp phù sa trầm tích sau một trận lũ lớn. Woolle cho rằng phát hiện này đã chứng minh sự kiện từng xảy ra: một trận Đại hồng thủy trong lịch sử theo truyền thuyết cổ Lưỡng Hà đã từng xuất hiện…

Sumer là một nền văn minh cổ nằm ở phía Nam Lưỡng Hà, nay thuộc Trung Đông. Nền văn minh Sumer xuất hiện vào khoảng 2.900 năm trước Công Nguyên. Ở khu vực sa mạc Iraq, người ta tìm thấy nhiều bảng đất sét có khắc những chữ hình nêm của người Sumer, ghi chép Thần thoại và truyền thuyết vùng Lưỡng Hà. Trong đó nổi bật là câu chuyện về một trận Đại hồng thủy xảy ra trên trái đất vào thời xa xưa như sau:

Chỉ chưa đến 1.200 năm sau khi con người được Chư Thần tạo ra, dân số đã không ngừng gia tăng do điều kiện sống thật lý tưởng. Cả thế giới tràn đầy những âm thanh hỗn tạp như tiếng bò rống(*). Các vị Thần trên bầu trời bị con người làm phiền. Thần Enlil đứng đầu Chư Thần nói: “Con người quả thật ồn ào đến đinh tai nhức óc, khiến tôi không thể yên tĩnh nổi”.

Học thuyết tôn giáo của người Sumer có là
Học thuyết tôn giáo của người Sumer có là
Vị Thần Mặt trời của người Sumer đang đánh nhau với con quái vật Hỗn độn. Người Sumer tin rằng họ được Thần tạo ra. (Ảnh: Wikipedia, Public Domain)

Từ đó, Thần Enlil đề xuất gây ra một trận bệnh dịch lớn, rồi một trận hạn hán lớn, rồi một trận đói lớn, để con người không còn có thể sinh sôi. Tuy nhiên cứ mỗi khi gặp nguy cơ diệt vong, con người lại tới cầu xin Thần Enki – vị Thần tạo ra những nền văn minh, và Thần đã chỉ cho họ cách để thoát khỏi tai họa, khiến trái đất trở về với trạng thái ban đầu.

Cuối cùng, khi Thần Enlil không còn chịu nổi nữa, Thần thuyết phục Chư Thần gây ra một trận lũ lụt lớn nhằm hủy diệt hoàn toàn con người. Lúc này, Thần Enki lên tiếng phản đối và nói ông không thể nào ra tay với những tạo vật của chính mình. Tuy nhiên mặc cho ý kiến của Enki, các vị Thần vẫn quyết định giáng xuống một trận lũ lớn.

Thần Enki tìm tới Atrahasis, một người hết mức tin tưởng Thần linh. Ngài yêu cầu Atrahasis vứt bỏ tài sản, dỡ nhà để xây dựng một con thuyền lớn, và cứu lấy những loài vật trên mặt đất, mang theo mỗi loài hai con đực cái.

Đại hồng thủy đến… Con người không thể thấy rõ mặt nhau. Đại hồng thủy rống lên như tiếng một con bò lồng lộn. Bầu trời tối đen như mực, không thấy ánh mặt trời. Nữ Thần Nintu khóc than cho con người, và các vị Thần cùng khóc theo…

Sau khi Đại hồng thủy qua đi, Thần Enlil cùng các vị Thần khác nhận ra sai lầm của mình, và hối hận vì việc đã xảy ra. Vào thời khắc ấy, Atrahasis ra khỏi con tàu của mình, và công việc đầu tiên ông làm là cúng tế Chư Thần.

Mặc dù chỉ vừa mới bày tỏ sự hối tiếc của mình, Thần Enlil vẫn rất tức giận với Thần Enki vì đã cho phép một con người còn sống sót. Tuy nhiên, Thần Enki đã trấn an Thần Enlil, rồi mời Chư Thần tới tiếp nhận lễ cúng tế của Atrahasis. Trong buổi lễ, Thần Enki đề xuất rằng Chư Thần sẽ tạo ra loài người mới, ít khả năng sinh sôi hơn, và sẽ có những người phụ nữ không thể mang thai được. Những người phụ nữ làm lễ cúng tế Chư Thần cũng phải là những người còn trinh trắng.

Chư Thần đồng ý với giải pháp của Thần Enki, và tưởng thưởng cho Atrahasis bằng cách đưa ông ta lên Thiên đàng. Trong khi đó, nữ Thần Nintu bắt tay vào việc tạo ra loài người mới…

(*) Đây có thể là cách nói hình tượng cho việc con người đã trở nên sa đọa.

Trên bia đá cổ liệt kê các vị Vua của nền văn minh Sumer có viết về nạn Đại hồng thủy như sau:

  • Sau khi vương quyền(*) tới từ Thiên đàng, nó ở Eridug. Tại Eridug, Alulim trở thành Vua; ngài trị vì trong 28.800 năm.
  • [Phía dưới mô tả 5 đô thành và 6 vị Vua khác]
  • Khi Zimbir sụp đổ, vương quyền được đưa tới Shuruppak.
  • Ubara-Tutu trở thành đức Vua; ông trị vì trong 5 sar và 1 ner(**).
  • Rồi lũ quét qua.
  • Sau khi lũ đã quét qua, vương quyền lại tới từ Thiên đàng, và nó tới Kish.

(*) Người Sumer tin rằng “vương quyền” là do Thần truyền xuống cho con người.
(**) Sar và ner là một đơn vị tính năm của người Sumer. 5 sar 1 ner = 18.600 năm.

Ngày nay, các nhà khoa học cho rằng bia đá cổ của người Sumer mang đậm tính truyền thuyết hơn là tài liệu lịch sử. Nhưng dù sao, chi tiết về trận “lũ quét qua” được ghi lại trên bia đá cổ liệt kê các vị Vua là một minh chứng khác cho niềm tin của người Sumer về trận Đại hồng thủy trong lịch sử.

Học thuyết tôn giáo của người Sumer có là
Học thuyết tôn giáo của người Sumer có là
Tấm bia đá cổ liệt kê các vị Vua của nền văn minh Sumer. (Ảnh: Yu Lei, Wikipedia, Public Domain)

Truyền thuyết của người Sumer còn tương hợp với Trường ca Gilgamesh được tìm thấy trên một tấm bia của người Assyria, một nền văn minh xuất hiện khoảng 2500 năm trước Công Nguyên. Tấm bia này hiện đang được lưu giữ tại Bảo tàng Anh quốc. Câu chuyện của người Assyria cũng miêu tả những trận ôn dịch khủng khiếp hoành hành, và một trận Đại hồng thủy xảy ra.

Nhưng Trường ca Gilgamesh khác biệt ở chỗ vị Thần bảo hộ con người là Thần Ea, và kẻ được Thần Ea chỉ dạy là Utu-napishtim. Sáu ngày sau khi Đại hồng thủy bắt đầu, nước rút dần, và Utu-napishtim đã thả ra cửa một con chim thứ nhất để thử, nhưng nó không bay được xa. Sau đó, ông thả ra ngoài một con chim nhạn, nhưng cũng không có kết quả gì hơn. Cuối cùng, một con quạ đã bay đi mất khi được thả ra ngoài, báo hiệu cho Utu-napishtim là nước đã rút. Ông ra ngoài và làm lễ cúng tế Thần linh…

Câu chuyện giống hệt đã xuất hiện trong Kinh Thánh, với những ghi chép về Noah:

Sau trận mưa dài 40 ngày đêm, Đại hồng thủy diễn ra trong 157 ngày. Và khi nước lũ bắt đầu rút đi, con thuyền của Noah mắc lại trên rặng núi Ararat. Noah mở cửa sổ và thử cho một con quạ ra để xem nước đã rút cạn hay chưa, nhưng con quạ này lại chỉ dám lượn qua lượn lại. Lần tiếp theo, Noah cho một con bồ câu bay ra ngoài. Tuy nhiên nó không tìm được nơi đậu và phải bay trờ về.

Học thuyết tôn giáo của người Sumer có là
Học thuyết tôn giáo của người Sumer có là
Một bức tranh khảm mô tả cảnh Noah thả con chim bồ câu để đoán mực nước rút. (Tranh: Wikipedia, Public Domain)

Noah đợi thêm 7 ngày, rồi cho con bồ câu ra ngoài lần nữa. Khi bay về, con bồ câu ngậm theo một cành ôliu. Noah tiếp tục đợi 7 ngày, rồi lại thả con bồ câu ra, và lần này nó không quay về nữa. Noah bỏ tấm chắn, mở cửa thuyền, đi ra ngoài và thấy mặt đất đang dần khô lại. Ông tạ ơn Chúa trời, và nhận được sự hiển linh của Chúa.

Điều khiến người ta kinh ngạc đó là những câu chuyện tương tự đã được tìm thấy về vùng Lưỡng Hà, một số có gần 5.000 năm lịch sử. Nó cho thấy một niềm tin chung về trận Đại hồng thủy đã từng xuất hiện, và một sự giống nhau đến bất ngờ về câu chuyện con thuyền của Noah, hay Atrahasis, hoặc giả Utu-napishtim…

Quang Minh

Xem thêm:

  • Con tàu Noah ở Thổ Nhĩ Kỳ được quét ảnh 3D

Mời xem video: