Khi phát xít Đức tấn công Liên Xô tính chất chiến tranh thế giới thứ hai thay đổi như thế nào

Vì sao khi Liên Xô tham chiến tính chất chiến tranh thế giới thứ hai lại thay đổi?

...

Mục lục

  • 1 Tư tưởng
    • 1.1 Tư tưởng của Đức
    • 1.2 Ý thức hệ Xô Viết
  • 2 Hiệp ước Molotov – Ribbentrop
  • 3 Diễn biến
    • 3.1 Các giai đoạn chính
    • 3.2 Kế hoạch Barbarossa của Đức Quốc xã
      • 3.2.1 Binh lực của Liên Xô lúc khai chiến
    • 3.3 Chiến sự năm 1941
      • 3.3.1 Thất bại của Hồng quân tại Belarus
      • 3.3.2 Trận Smolensk, Hồng quân tạm thời chặn đứng được quân Đức
      • 3.3.3 Trận Kiev (1941) – phương diện quân tây nam của Xô Viết bị tiêu diệt
      • 3.3.4 Trận Moskva: Chiến tranh chớp nhoáng của Đức bị thất bại
      • 3.3.5 Sự chiếm đóng và diệt chủng
    • 3.4 Chiến cuộc năm 1942
      • 3.4.1 Kế hoạch tấn công 1942 của Đức
      • 3.4.2 Kế hoạch 1942 của Hồng quân
      • 3.4.3 Đức tấn công tại cánh nam chiến trường
        • 3.4.3.1 Chiến dịch Kavkaz
        • 3.4.3.2 Trận Stalingrad
    • 3.5 Năm 1943: Bước ngoặt của chiến tranh
      • 3.5.1 Trận Kursk
      • 3.5.2 Trận đánh sông Dnepr
    • 3.6 Năm 1944: mặt trận phía đông của Đức sụp đổ
      • 3.6.1 Chiến dịch Bagration
      • 3.6.2 Liên Xô giải phóng toàn bộ lãnh thổ Đông Âu
    • 3.7 Năm 1945: Đức Quốc xã thua trận
      • 3.7.1 Chiến dịch Wisla – Oder
      • 3.7.2 Chiến dịch Berlin, nước Đức đầu hàng
        • 3.7.2.1 Bao vây các khối quân phòng thủ Berlin
        • 3.7.2.2 Berlin thất thủ
  • 4 Mặt trận hậu phương - Sản xuất quân sự của Đức và Liên Xô
    • 4.1 Chiến lược sản xuất
    • 4.2 Số liệu sản xuất chi tiết
  • 5 Sự hỗ trợ của các nước khác
    • 5.1 Hỗ trợ cho Đức
    • 5.2 Hỗ trợ cho Liên Xô
  • 6 Tổn thất của dân thường và tù binh
    • 6.1 Đức
    • 6.2 Liên Xô
  • 7 Lãnh tụ và sự lãnh đạo chiến tranh
  • 8 Tham khảo
  • 9 Chú thích
  • 10 Liên kết ngoài
  • 11 Tham khảo

Tư tưởng

Tư tưởng của Đức

Adolf Hitler đã lập luận trong cuốn tự truyện Mein Kampf cho sự cần thiết của "không gian sinh tồn", theo đó Đức cần phải đánh chiếm các nước ở Đông Âu để mở rộng lãnh thổ cho "chủng tộc Arian thượng đẳng", tức là người Đức. Ông dự kiến giải quyết việc đó như là một cuộc chạy đua tổng thể, bằng cách tiêu diệt hoặc trục xuất hầu hết các cư dân Liên Xô tới Siberia và sử dụng phần còn lại như là lao động nô lệ[23]. Đối với một số nhà lãnh đạo Đức Quốc xã khác (như Himmler[24]) thì cuộc chiến với Liên Xô là một cuộc đấu tranh của xã hội quốc gia chống chủ nghĩa cộng sản và của chủng tộc Aryan chống lại tộc Slav hạ đẳng[25].

Hitler gọi nó trong một điều kiện duy nhất, gọi đó là một "cuộc chiến tranh hủy diệt". Trong Kế hoạch tổng thể phương Đông (Generalplan Ost) được Hitler phê duyệt ngày 25 tháng 5 năm 1940, dân số của Đông Âu và Liên Xô bị chiếm đóng sẽ một phần bị trục xuất sang Tây Siberia, một phần làm nô lệ và cuối cùng là bị tiêu diệt; vùng lãnh thổ chinh phục được sẽ là thuộc địa của Đức hoặc khu định cư của người Đức[26]. Ngoài ra, Đức quốc xã cũng tìm cách để quét sạch lượng lớn dân số người Do Thái của Đông Âu[27] như là một phần của chương trình phát xít nhằm tiêu diệt tất cả người Do Thái ở châu Âu.

Sau thành công ban đầu của Đức ở trận Kiev, Adolf Hitler đã nhìn thấy Liên Xô có nền quân sự yếu kém và chín muồi cho cuộc chinh phục ngay lập tức. Ngày 3 tháng 10 năm 1941, ông tuyên bố: "Chúng ta chỉ cần đá vào cửa và toàn bộ cái cấu trúc mục nát đó sẽ sụp đổ".[28] Như vậy, Đức đã mong đợi một cuộc tấn công kiểu Blitzkrieg sẽ sớm kết liễu Liên Xô và đã không chuẩn bị nghiêm túc cho cuộc chiến tranh kéo dài. Tuy nhiên, sau chiến thắng quyết định của Liên Xô tại trận Moscow, trận Stalingrad và kết quả tình hình quân sự thảm khốc của Đức, Hitler và bộ máy tuyên truyền của Đức Quốc xã đã tuyên bố cuộc chiến tranh là cuộc phòng thủ nước Đức thuộc văn minh phương Tây chống lại "sự phá hoại của đám người Bolshevik" đông đảo đang tiến vào châu Âu.

Ý thức hệ Xô Viết

Nhà nước Xô viết, đứng đầu là Iosif Stalin, lập kế hoạch mở rộng hệ tư tưởng của họ (chủ nghĩa Mác-Lênin) và thúc đẩy sự tiến bộ của cách mạng Cộng sản trên thế giới. Trong thực tế, Stalin không tôn trọng toàn bộ giáo lý chủ nghĩa xã hội của Lenin khi ông xóa bỏ chính sách kinh tế mới của Lenin, đưa nền kinh tế chuyển sang chính sách kế hoạch hóa tập trung và sử dụng nó để biện minh cho sự lớn mạnh về công nghiệp của Liên Xô trong thập niên 1930. Phát xít Đức thì định vị mình như là một hệ thống chống Cộng sản thống nhất, và chính thức hóa vị trí này bằng cách ký vào Hiệp ước chống Quốc tế Cộng sản với Đế quốc Nhật Bản [29] và Italy [30][31] là một tư tưởng tương phản tuyệt đối trực tiếp với học thuyết Xô Viết. Những căng thẳng về ý thức hệ này đã chuyển đổi thành cuộc chiến ủy quyền giữa Đức Quốc xã và Liên Xô [32], khi vào năm 1936, Đức và Phát xít Ý can thiệp vào cuộc Nội chiến Tây Ban Nha, hỗ trợ phe Quốc gia Tây Ban Nha của Franco, trong khi Liên Xô hỗ trợ những người cộng sản và xã hội chủ nghĩa, được dẫn đầu [33] bởi Đệ Nhị Cộng hòa Tây Ban Nha [30].

Việc Anh - Pháp làm ngơ cho Đức sáp nhập Áo và thôn tính Tiệp Khắc đã chứng minh không thể nào để thiết lập hệ thống an ninh tập thể ở châu Âu [34] theo chủ trương của Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Liên Xô Maxim Litvinov [35][36]. Điều này, cũng như sự thất bại của Xô viết trong việc thuyết phục Anh - Pháp ký một liên minh chính trị và quân sự chống Đức [37] đã dẫn đến ký kết Hiệp ước Xô-Đức vào cuối tháng 8, năm 1939 [38]. Hiệp ước này dẫn đến một sự biến đổi mạnh mẽ về tuyên truyền của Liên Xô. Đức Quốc xã không được mô tả như là kẻ thù không đội trời chung nữa, và các phương tiện truyền thông của Liên bang Xô viết đổ lỗi cho Ba Lan, Anh và Pháp cho sự bắt đầu của cuộc chiến. Tuy nhiên đó là về mặt tuyên truyền công chúng, còn trong giới lãnh đạo Liên Xô, họ biết rằng chiến tranh với Đức sẽ sớm xảy ra và cần phải nhanh chóng tăng cường vũ trang cho Liên Xô. Sau khi Đức tấn công thì chính phủ Xô viết đã chuyển hoàn toàn sang khuyến khích việc tiêu diệt chủ nghĩa phát xít.

Hiệp ước Molotov – Ribbentrop

Năm 1938, trước nguy cơ Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra, Liên Xô đã đề nghị lập liên minh chống phát xít với Anh-Pháp và sẵn sàng chuyển 120 sư đoàn bộ binh (mỗi sư đoàn có 10.000 quân), 16 sư đoàn pháo binh, 5.000 pháo hạng nặng, 9.500 xe tăng và khoảng 5.500 máy bay đến biên giới Đức để kiềm chế Hitler; nhưng phái đoàn Anh và Pháp đã không đáp lại đề nghị này.

Lễ ký Hiệp ước Munich giữa Anh, Pháp, Ý và Đức. Hai nước Anh-Pháp công nhận việc Đức sáp nhập Áo, đồng thời gây sức ép buộc Tiệp Khắc phải cắt lãnh thổ cho Đức. Đứng giữa là quốc trưởng Đức - Adolf Hitler

Ngược lại, Anh - Pháp lại nhận lời mời của Ngoại trưởng Đức Ribbentrop và tham gia ký Hiệp ước Munich trong ngày 29, 30 tháng 9 năm 1938 giữa tứ cường Anh, Đức, Pháp, Ý. Kết quả của hội nghị này là một hiệp ước không xâm lược lẫn nhau được ký giữa bốn nước này ngày 30 tháng 9, trong đó Anh-Pháp buộc Tiệp Khắc phải cắt cho Đức một phần lãnh thổ để thỏa mãn yêu cầu của Đức mà không hề đếm xỉa đến Hiệp ước tương trợ mà chính Anh-Pháp đã ký với chính phủ Tiệp Khắc. Ngày 6 tháng 12 năm 1938, Pháp tuyên bố từ bỏ Hiệp ước tương trợ Pháp-Liên Xô để ký với Đức bản tuyên bố thừa nhận hiệu lực hoàn toàn của Hiệp định Munich 1938. Bằng Hiệp ước Munich, Anh và Pháp đã thừa nhận việc Đức Quốc xã thôn tính nước Áo là việc đã rồi, cho phép Hitler đánh chiếm xứ Bohemia và Moravia, chia cắt Tiệp Khắc; đặt Ba Lan và cả Liên Xô trước nguy cơ xâm lược của nước Đức Quốc xã[39]

Tháng 4 năm 1939, trong một nỗ lực cuối cùng để cứu vãn nền an ninh tập thể của châu Âu, Liên Xô mở lại các cuộc thương lượng với Anh và Pháp nhằm tìm kiếm một hiệp định tương trợ thật sự với các nước Tây Âu và Đông Âu. Mặc dù người Nga thực lòng muốn ký một hiệp ước phòng thủ chung càng sớm càng tốt với Anh và Pháp nhưng họ đã vấp phải sự lạnh nhạt của các chính phủ này[40] hiệp định tương trợ mà Liên Xô muốn xây dựng với các nước Tây Âu để ngăn chặn Đức Quốc xã đã không thể được thực hiện.

Ngày 7 tháng 6 năm 1939, hiệp ước không xâm lược lẫn nhau cũng được Đức Quốc xã tiếp tục ký với ba nước Baltic (Estonia, Latvia, Lithuania) và Đan Mạch, những nước có biên giới nằm khá gần Liên Xô. Điều này càng khiến Liên Xô trở nên lo ngại hơn.

Việc Anh, Pháp từ chối lập liên minh với Liên Xô và còn ký với Đức "Hiệp ước không xâm phạm lẫn nhau", đồng thời bỏ mặc đồng minh Tiệp Khắc cho Đức tiêu diệt, tất cả khiến Liên Xô thấy rằng phương Tây không hề thực tâm trong việc ngăn chặn Hitler, mà thực ra họ đang tìm cách lợi dụng cỗ máy chiến tranh Đức để tiêu diệt Liên Xô. Lập trường của các cường quốc phương Tây đưa Liên Xô đứng trước 2 sự lựa chọn: hoặc sẽ bị cô lập và phải một mình chống đỡ với các cuộc tấn công của phát xít Đức; hoặc phải đàm phán với Đức để ký một hiệp ước không xâm lược nhằm tranh thủ thời gian củng cố quân đội. Tình hình cho thấy sự lựa chọn thứ hai là không thể tránh khỏi, và Liên Xô phải tìm cách hòa hoãn với Đức.[41]

Trong vòng 1 năm, tới tháng 8 năm 1939, mối quan hệ Liên Xô – Đức đã có sự thay đổi lớn: từ quan hệ thù địch về tư tưởng và quyền lợi, hai nước liên tiếp ký kết các hiệp ước thương mại, hiệp ước hữu nghị và giúp đỡ lẫn nhau. Trong mối quan hệ an ninh quốc phòng hai nước ký hiệp ước không xâm phạm lẫn nhau và biên bản bí mật phân chia khu vực ảnh hưởng giữa Đức và Liên Xô trên lãnh thổ các quốc gia khác. Xa hơn nữa, hai bên đang tiến hành tham khảo để Liên Xô gia nhập khối liên minh Đức – Ý – Nhật[42]

Mối quan hệ hữu hảo toàn diện Liên Xô – Đức không phải là mối quan hệ của các quốc gia đồng minh có chung quyền lợi chiến lược lâu dài mà chỉ là sự lợi dụng lẫn nhau nhất thời giữa các kẻ thù. Đức muốn rảnh tay ở phía đông để dồn quân tấn công Pháp-Anh, tránh phải chiến đấu trên hai mặt trận. Còn Liên Xô muốn tranh thủ hòa hoãn để có thêm thời gian củng cố quân đội và công nghiệp quốc phòng.

Hiệp ước hòa bình giữa Đức – Liên Xô đảm bảo cho Đức không phải chiến đấu trên hai mặt trận trong chiến tranh thế giới mà Hitler đang trù tính và sẽ sắp xảy ra, đồng thời phía Đức sẽ có nguồn nhập khẩu các nguyên liệu chiến lược từ phía Liên Xô mà không sợ vòng vây trên biển của khối Anh – Pháp phong toả, ngoài ra hạm đội tàu ngầm Đức còn được phép đi ngang qua các căn cứ hải quân Xô viết gần Biển Bắc trong chiến tranh Đại Tây Dương phong toả nước Anh. Các cơ quan mật vụ an ninh của hai nước cũng hợp tác trong việc cung cấp thông tin, dẫn độ các những người Đức chống phát xít và các phần tử kháng chiến Ba Lan giao cho mật vụ Sicherheitsdienst (SD) của Đức: đến tháng 6 năm 1941 phía Liên Xô đã giao cho Đức khoảng 4.000 người trong đó có cả những đảng viên Đảng Cộng sản Đức cùng thân nhân của họ, về phía mình mật vụ SD cũng giao cho phía Liên Xô những người mà NKVD tìm kiếm[43]...

Phía Liên Xô bằng cách ký kết hiệp ước không xâm phạm lẫn nhau và biên bản bí mật đã không gặp trở ngại nào trong việc thu hồi các vùng lãnh thổ cũ của đế chế Nga đang bị Ba Lan chiếm đóng, các quốc gia Baltic, Phần Lan, Bessarabia. Nước này đồng thời muốn tránh mũi nhọn chiến tranh của Đức, hướng nó sang chống khối liên minh Anh – Pháp. Liên Xô cũng đặt hàng và được phía Đức cung cấp cả các hệ vũ khí và phương tiện kỹ thuật hiện đại để hiện đại hoá hải, lục, không quân của mình.

Sĩ quan Hồng quân và Đức trò chuyện trên đất Ba Lan

Theo đúng tinh thần của biên bản bí mật, ngay sau khi Đức tấn công Ba Lan gây chiến tranh thế giới (1 tháng 9 năm 1939), Quân đội Xô Viết tiến quân chiếm lại Tây Belarus, Tây Ukraina từ tay Ba Lan (vùng lãnh thổ mà Ba Lan đã chiếm của họ sau cuộc chiến năm 1921), đòi lại vùng Bessarabia (vùng lãnh thổ mà Romania chiếm của Nga từ năm 1922) để lập nên nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Moldavia (ngày nay là Moldova). Năm 1940, Liên Xô sát nhập ba quốc gia vùng Biển Baltic: Estonia, Latvia, Litva lập nên ba nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa vùng Baltic và gây chiến tranh chống Phần Lan để đòi lại dải đất Karelia (vùng lãnh thổ mà Phần Lan chiếm của Nga từ năm 1922) để lập nên nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Karelia... Bằng việc thu hồi các lãnh thổ của đế chế Nga cũ, Liên Xô đã đẩy biên giới của mình về phía tây được hàng trăm km, Hitler đã bị tước đi các bàn đạp chiến lược rất thuận lợi để tấn công Liên Xô[44]

Thực chất của cuộc chơi chính trị – ngoại giao này được thể hiện rõ qua Adolf Hitler: Hitler không bao giờ từ bỏ lập trường nguyên tắc của mình và luôn coi việc "giải quyết vấn đề người Slav" là mục đích số một của đời mình (sách Mein Kampf). Khi ký kết hiệp ước với Stalin, Hitler đã đạt được hai mục đích: một mặt đã phân hoá được các địch thủ Anh, Pháp, Liên Xô để tránh được việc phải chiến đấu trên hai mặt trận và đã đảm bảo thắng lợi trên chiến trường Ba Lan và châu Âu trong hai năm 1939 và 1940. Mặt khác những hiệp định này đã giúp cho Stalin rằng sẽ tránh được nguy cơ chiến tranh nổ ra sớm với Đức, và sau này yếu tố bất ngờ đã có vai trò rất lớn trong giai đoạn đầu thắng lợi của quân đội Đức trong chiến tranh Xô – Đức. Tất cả những nhượng bộ và giúp đỡ của phía Đức cho Liên Xô theo tính toán của Hitler chỉ là tạm thời và sẽ bị vô hiệu hoá khi chiến tranh chống Liên Xô bắt đầu và các toan tính này của Hitler đã thành công.

Về phía Stalin và ban lãnh đạo Liên Xô, họ không bao giờ tin tưởng vào sự thành thật của Hitler nhưng đã bị đánh lạc hướng về thời điểm cuộc chiến sẽ nổ ra. Họ biết chiến tranh với Đức sẽ nổ ra nhưng cho rằng không thể sớm hơn năm 1942. Thủ tướng Anh Winston Churchill từng cảnh báo trước cho Stalin biết về việc Đức sẽ tấn công Liên Xô, Stalin chỉ nói ngắn gọn: "Tôi không cần lời cảnh báo nào cả. Tôi biết chiến tranh sẽ nổ ra, nhưng tôi tin sẽ có thể làm nó chậm lại nửa năm nữa"[45] Tại cuộc họp Bộ Chính trị ngày 18/11/1940, Stalin đã nói: "Cần phải hiểu tính hai mặt và trò chơi chính trị của Hitler. Hitler là một kẻ tráo trở. Ông ta đã ký hiệp ước hòa bình với Ba Lan, Áo, Tiệp, Bỉ và Hà Lan nhưng đã ngay lập tức xé bỏ chúng. Chắc chắn chúng ta không thể coi hiệp ước này là cơ sở an ninh của chúng ta…"[46].

Sau những yếu kém rất rõ rệt của Hồng quân Liên Xô trong Chiến tranh Liên Xô-Phần Lan và sự thể hiện sức mạnh ghê gớm của quân đội Đức trong các chiến thắng tại chiến trường châu Âu, Stalin không muốn Liên Xô phải đương đầu với cuộc tấn công của Đức khi chưa có đủ thời gian chuẩn bị. Stalin coi những thông tin tình báo về khả năng Đức tấn công chỉ là những đòn hỏa mù để khiêu khích Liên Xô gây chiến trước, ông tránh mọi hành động để có thể bị coi là khiêu khích Đức, không cho phép quân đội áp dụng các biện pháp dự phòng và sẵn sàng chiến đấu... Ban lãnh đạo Liên Xô cho rằng sau khi đánh bại nước Anh thì Đức mới có thể tấn công Liên Xô, đó là tính toán hợp lý nhất đối với Đức để tránh phải giao chiến trên cả hai mặt trận, nhưng tính cách bốc đồng, ưa phiêu lưu của Hitler đã làm đảo lộn tính toán này (Đức đã tấn công sang phía đông dù Anh chưa bị đánh bại). Sự thất bại và thiệt hại to lớn, nguy cơ thất bại của Liên Xô trong giai đoạn thất trận năm 1941 có nguyên nhân rất lớn từ việc Liên Xô đã bị bất ngờ, quân đội đã không chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu do không nhận được bất kỳ mệnh lệnh báo động chiến đấu nào.

Nhưng ở một khía cạnh khác, việc dự đoán thời điểm Đức tấn công là không dễ, nếu đổ lỗi cho Stalin và ban lãnh đạo của ông cũng là không công bằng. Trong cuộc đấu này, Đức là bên chủ động, còn Liên Xô là bên bị động. Trước chiến tranh, Đức liên tiếp tung ra những tin tình báo giả, vô số những thời hạn tấn công đã được "hoạch định" rồi cố tình để lộ ra, làm nhiễu loạn tình báo Liên Xô. Mặt khác, tình báo Anh cũng tung ra những tin tức tương tự nhằm mong Liên Xô sẽ khai chiến với Đức. Nếu Stalin tin theo những dự đoán đó mà manh động thì không chỉ lãng phí thời gian chuẩn bị chiến tranh và huấn luyện quân đội, mà còn có thể khiến chiến tranh nổ ra sớm hơn. Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, khi Nga hoàng ra lệnh tổng động viên, Đức đã ngay lập tức tuyên chiến với Nga, và Stalin không muốn điều đó lặp lại.

Quan trọng hơn, trong giai đoạn 2 năm hòa hoãn có được, Stalin và ban lãnh đạo Liên Xô cũng đã làm được nhiều việc, gây dựng nền móng to lớn cho quân đội Xô viết. Công nghiệp quốc phòng của Liên Xô có bước phát triển lớn. Kể từ 1-1-1939 tới 22-6-1941, Hồng quân đã được trang bị hơn 7.000 xe tăng và nếu chỉ tính riêng năm 1941 thì đã được cung cấp gần 5.500 xe, 29.637 pháo dã chiến, 52.407 súng cối. Cuối năm 1940, sản xuất máy bay Liên Xô đã tăng 70%.[47]. Quân số Hồng quân tăng 2,3 lần; pháo và súng cối tăng 2,1 lần; máy bay chiến đấu tăng 2,4 lần. Nhờ những bước tiến to lớn này, Hồng quân đã trụ vững được trước đòn tấn công mạnh mẽ nhất của Đức, thay vì sụp đổ hoàn toàn như Ba Lan hay Pháp trước đó.

Diễn biến

Các giai đoạn chính

Trong khi các nhà sử học Đức không áp dụng bất kỳ sự chỉ định cụ thể cho các diễn biến tại Mặt trận phía đông, tất cả các sử gia Liên Xô (trước đây) và Nga (hiện tại) chia cuộc chiến tranh chống Đức của họ thành ba giai đoạn:

  • Giai đoạn đầu của Chiến tranh thế giới thứ hai ([Первый период Великой Отечественной войны] lỗi: {{lang-xx}}: văn bản có thẻ đánh dấu in xiên (trợ giúp)): Giai đoạn phòng ngự (từ ngày 22 tháng 6 năm 1941 đến ngày 18 tháng 11 năm 1942), bao gồm:
    • Chiến dịch Hè-Thu 1941 ([Летне-осенняя кампания 1941 г.] lỗi: {{lang-xx}}: văn bản có thẻ đánh dấu in xiên (trợ giúp)): 22 tháng 6 - 4 tháng 12 năm 1941.
    • Chiến dịch Mùa đông 1941-1942 ([Зимняя кампания 1941-1942 г.] lỗi: {{lang-xx}}: văn bản có thẻ đánh dấu in xiên (trợ giúp)): 5 tháng 12 năm 1941 - 30 tháng 4 năm 1942.
    • Chiến dịch Hè-Thu 1942 ([Летне-осенняя кампания 1942 г.] lỗi: {{lang-xx}}: văn bản có thẻ đánh dấu in xiên (trợ giúp)): 1 tháng 5 - 18 tháng 11 năm 1942.
  • Giai đoạn hai của Chiến tranh thế giới thứ hai ([Второй период Великой Отечественной войны] lỗi: {{lang-xx}}: văn bản có thẻ đánh dấu in xiên (trợ giúp)): Giai đoạn hai bên cầm cự (từ ngày 19 tháng 11 năm 1942 đến ngày 31 tháng 12 năm 1943, bắt đầu từ cuộc phản công ở Stalingrad), bao gồm:
    • Chiến dịch Mùa đông 1942-1943 ([Зимняя кампания гг 1942-1943.] lỗi: {{lang-xx}}: văn bản có thẻ đánh dấu in xiên (trợ giúp)): 19 tháng 11 năm 1942 - 3 tháng 3 năm 1943.
    • Chiến dịch Hè-Thu 1943 ([Летне-осенняя кампания 1943 г.] lỗi: {{lang-xx}}: văn bản có thẻ đánh dấu in xiên (trợ giúp)): 1 tháng 7 - 31 tháng 12 năm 1943.
  • Giai đoạn ba của Chiến tranh thế giới thứ hai: ([Третий период Великой Отечественной войны] lỗi: {{lang-xx}}: văn bản có thẻ đánh dấu in xiên (trợ giúp)): Giai đoạn tấn công (từ ngày 1 tháng 1 năm 1944 đến ngày 9 tháng 5 năm 1945), bao gồm:
    • Chiến dịch Đông-Xuân 1944 ([Зимне-весенняя кампания 1944 г.] lỗi: {{lang-xx}}: văn bản có thẻ đánh dấu in xiên (trợ giúp)): 1 tháng 1 - 31 tháng 5 năm 1944.
    • Chiến dịch Hè-Thu 1944 ([Летне-осенняя кампания 1944 г.] lỗi: {{lang-xx}}: văn bản có thẻ đánh dấu in xiên (trợ giúp)): 1 tháng 6 - 31 tháng 12 năm 1944.
    • Chiến dịch tại châu Âu năm 1945 ([Кампания в Европе 1945 г.] lỗi: {{lang-xx}}: văn bản có thẻ đánh dấu in xiên (trợ giúp)): 1 tháng 1 - 9 tháng 5 năm 1945.

Kế hoạch Barbarossa của Đức Quốc xã

Bản đồ ý đồ chiến lược của kế hoạch Barbarossa

Trong tháng 5 năm 1941 quân đội Đức đã triển khai xong đội hình tấn công với 2/3 trên tổng số 7,2 triệu quân nhân đang tại ngũ theo đúng kế hoạch Barbarossa do Adolf Hitler phê duyệt từ 18 tháng 12 năm 1940. Để thực hiện kế hoạch Barbarossa, nước Đức đã huy động 3/4 quân đội Đức cùng với quân đội nhiều nước đồng minh với Đức tại châu Âu, chỉ để lại 1/4 quân số và phương tiện tại Tây Âu và Bắc Phi

Tính đến ngày 21 tháng 6 năm 1941, Quân đội phát xít Đức và đồng minh phe Trục (gồm Phần Lan, Ý, Hungary, România, Croatia, Slovakia và quân Tây Ban Nha của Franco) bao gồm 190 sư đoàn trong đó có 152 sư đoàn Đức, 38 sư đoàn các nước đồng minh với tổng quân số 5,3 triệu người, tập trung dọc theo hơn 2.900km biên giới (1800 dặm) từ bờ biển Baltic phía bắc đến bờ biển Đen phía nam. Lực lượng Đức và đồng minh bố trí từ phía bắc xuống phía nam theo 4 cụm lực lượng như sau:

  • Cụm tập đoàn quân Phần Lan – Na Uy: bố trí tại Phần Lan bao gồm Tập đoàn quân Na Uy của Đức, phối thuộc thêm 7 quân đoàn của Phần Lan (sau lập thành Tập đoàn quân Karelia của Phần Lan). Tổng cộng cánh quân này có 21 sư đoàn và 3 lữ đoàn Đức và Phần Lan được yểm trợ bằng Không hạm đội số 5 của Đức (Luftflotte 5) và không quân Phần Lan. Đối đầu với cụm Phần Lan – Na Uy là Quân khu Leningrad của Liên Xô, sau đổi thành Phương diện quân Bắc (về sau tách thành Phương diện quân Karelia và Phương diện quân Leningrad). Nhiệm vụ của cụm quân Phần Lan – Na Uy này là phòng thủ Phần Lan và Na Uy, phối hợp cùng Cụm tập đoàn quân Bắc tấn công thành phố Leningrad từ hướng bắc, tấn công vào vùng cực chiếm Murmansk căn cứ chính của Hạm đội Biển Bắc của Liên Xô và sau đó chiếm thành phố lớn nhất vùng cực là Arkhangelsk.
  • Cụm tập đoàn quân Bắc: Tư lệnh là Thống chế Wilhelm Ritter von Leeb bố trí tại Đông Phổ gồm 2 tập đoàn quân là tập đoàn quân số 16, số 18 và Binh đoàn thiết giáp số 4, tổng cộng 29 sư đoàn, với sự yểm trợ của Không hạm đội số 1 (Luftflotte 1), có nhiệm vụ tấn công chiếm các nước cộng hoà Xô Viết vùng Baltic, chiếm các cảng tại vùng biển Baltic tiêu diệt các căn cứ của hạm đội Baltic của Liên Xô, chiếm các thành phố Pskov, Novgorod và cuối cùng mục tiêu quan trọng nhất là chiếm Leningrad, Kronstadt. Sau khi chiếm xong Leningrad, sẽ hợp quân cùng quân Phần Lan đánh xuống phía nam phối hợp cùng Cụm tập đoàn quân Trung tâm chiếm thủ đô Moskva. Đối chọi với cụm quân Bắc là Quân khu đặc biệt Pribaltic của Liên Xô, sau đổi thành Phương diện quân Tây Bắc với lực lượng là 25 sư đoàn Xô viết trong đó có 4 sư đoàn xe tăng, 2 sư đoàn bộ binh cơ giới dưới sự chỉ huy của tư lệnh Thượng tướng Fedor Isidorovich Kuznetsov.
  • Cụm tập đoàn quân Trung tâm: Là cụm quân mạnh nhất của Đức, tư lệnh là Thống chế Fedor von Bock: bố trí tại miền trung Ba Lan bao gồm các tập đoàn quân số 4, số 9, 2 binh đoàn thiết giáp số 2 và số 3, tổng cộng 50 sư đoàn (trong đó có 15 sư đoàn xe tăng) và 2 lữ đoàn với sự yểm trợ của Không hạm đội số 2 (Luftflotte 2). Cụm quân này có vai trò quan trọng nhất trong chiến tranh chớp nhoáng theo kế hoạch Barbarossa: đánh chia cắt bao vây khối quân Xô Viết tại Belarus, chiếm Belarus, phát triển tấn công theo hướng Moskva, chiếm thủ đô Xô Viết. Đối đầu với cụm này là Quân khu đặc biệt Miền Tây, sau đổi thành Phương diện quân Tây của Liên Xô, tư lệnh: đại tướng Dmitri Grigorievich Pavlov gồm 24 sư đoàn bộ binh, 12 sư đoàn xe tăng, 6 sư đoàn cơ giới và 2 sư đoàn kỵ binh.
  • Cụm tập đoàn quân Nam: tư lệnh Thống chế Gerd von Rundstedt bố trí tại nam Ba Lan và România phát triển tấn công theo hướng Kiev chiếm Ukraina tiêu diệt khối chủ lực Xô viết tại bờ phải sông Dnepr và phối hợp với quân Romania phát triển tấn công theo bờ Biển Đen chiếm thành phố cảng lớn Odessa, chiếm bán đảo Crimea và Sevastopol căn cứ chính của Hạm đội Biển Đen Xô Viết. Cụm Nam gồm 3 tập đoàn quân là tập đoàn quân số 6 (phối thuộc thêm 2 tập đoàn quân Romania số 3 và số 4), số 11 (phối thuộc thêm Quân đoàn viễn chinh Ý) và số 17 (phối thuộc thêm Binh đoàn viễn chinh Slovak, một phần Cụm quân Kárpát của Hungary), Binh đoàn thiết giáp số 1, tổng cộng 41 sư đoàn và 13 lữ đoàn (trong đó có 9 sư đoàn xe tăng)với sự yểm trợ của Không hạm đội số 4 của Đức (Luftflotte 4) và không quân Romania. Đối chọi với cụm quân Nam là Quân khu đặc biệt Kiev của Liên Xô, sau đổi thành Phương diện quân Tây Nam (tư lệnh thượng tướng Mikhail Petrovich Kirponos) với 32 sư đoàn bộ binh, 16 sư đoàn xe tăng, 8 sư đoàn cơ giới, 2 sư đoàn kỵ binh, và Quân khu đặc biệt Odessa sau đổi thành Binh đoàn Duyên hải (tư lệnh Trung tướng Yakovlev Timofeevich cherevichenko) với 13 sư đoàn bộ binh, 4 sư đoàn xe tăng, 2 sư đoàn cơ giới và 3 sư đoàn kỵ binh.

Nhiệm vụ đặt ra của quân Đức trong chiến tranh chớp nhoáng là trong năm 1941 bằng các đòn đánh mãnh liệt phải bao vây và tiêu diệt các khối quân chủ lực Xô Viết đang bố trí ở biên giới, không cho rút sâu vào nước Nga. Đến trước mùa đông năm 1941 quân đội Đức phải tiến đến được tuyến Arkhangensk – Volga – Astrakhan, và hoàn tất việc đánh bại Liên Xô sau 4 tháng.

Tổng cộng phía Đức và đồng minh có khoảng 5 triệu lính và sĩ quan, tính cả thê đội tấn công và dự bị có khoảng 190 sư đoàn, 5.000 xe tăng và pháo tự hành (trong đó có gần 3.000 chiếc xe hạng trung gồm 976 xe Panzer III, 439 xe Panzer T-IV, khoảng 400 xe StuG-3 và vài trăm xe tăng chiến lợi phẩm tịch thu của Ba Lan, Anh, Pháp, Tiệp Khắc...), 4.950 máy bay. Lực lượng này tập trung dọc theo hơn 2.900km biên giới (1800 dặm) từ bờ biển Baltic phía bắc đến bờ biển Đen phía nam[48].

Khối tấn công mạnh nhất của Đức là cụm tập đoàn quân "Trung tâm" là cụm gần Moskva nhất (lúc gần nhất chỉ còn cách Moscow khoảng 25– 30km), điều này thể hiện quan điểm "đánh nhanh thắng nhanh" của phía Đức. Bằng việc đánh phủ đầu bất ngờ với binh lực vượt trội, Đức dự tính sẽ nhanh chóng đánh bại Liên Xô chỉ trong khoảng 3-4 tháng.

Binh lực của Liên Xô lúc khai chiến

Vào thời điểm này, Hồng quân có 230 sư đoàn[49], tổng cộng Hồng quân có 5.774.000 binh sĩ, 117.600 pháo và súng cối, 25.700 xe tăng, pháo tự hành và xe thiết giáp (95% là xe tăng, xe thiết giáp hạng nhẹ) và 18.700 máy bay các loại. Tuy nhiên, lực lượng này phải đóng quân rải khắp lãnh thổ bao la của Liên Xô, khoảng 2,5 triệu quân đóng ở những nơi rất xa xôi như Trung Á, Siberia, Viễn Đông, hải đảo... để canh gác biên giới và đề phòng Nhật Bản, không thể rút về để tham chiến. Do vậy, Liên Xô chỉ có khoảng một nửa quân đội đóng quân ở phía Tây để đối chọi với Đức. Khối các quân khu Xô Viết dọc biên giới phía tây có tất cả 170 sư đoàn (tại phần lãnh thổ châu Âu có 149 sư đoàn) và 2 lữ đoàn, với khoảng 3 triệu quân và 12.000 xe tăng, xe thiết giáp các loại.

Các sư đoàn bộ binh Liên Xô chưa được bổ sung đầy đủ về quân số và trang bị, công tác huấn luyện đang tiến hành dang dở. Các đơn vị thiết giáp có số lượng xe rất lớn (gấp 2,5 lần Đức), nhưng phần lớn đang trong giai đoạn xây dựng nên rất thiếu phụ tùng, đạn dược và tổ lái. Một tỷ lệ lớn lính tăng mới chỉ được huấn luyện chút ít, trình độ không thể sánh được với lính tăng Đức có dày dạn kinh nghiệm chiến đấu. Về chất lượng, chỉ có 1.861 xe tăng hạng nặng và hạng trung (trong đó có 967 xe tăng kiểu mới T-34 và 508 chiếc KV) là có thể đối chọi với các xe tăng hạng trung của Đức, số còn lại đều là xe tăng hạng nhẹ kiểu cũ có giáp mỏng và hỏa lực yếu như T-26, BT-2, BT-7... Các đơn vị xe tăng Liên Xô cũng bị thiếu phụ tùng sửa chữa, khiến cho hàng ngàn chiếc xe tăng đã không thể tác chiến khi chiến sự nổ ra (ví dụ như sư đoàn xe tăng hạng nặng số 10 bị mất 56 chiếc xe tăng KV thì có tới 34 chiếc bị mất không phải do quân Đức mà do trục trặc kỹ thuật).

Lực lượng pháo binh của các quân khu phía tây có 34.695 pháo và súng cối (không kể cối 50mm), nhưng rất thiếu xe kéo pháo và xe chở đạn. Lực lượng không quân của các quân khu phía tây lúc này chỉ có 1.540 máy bay kiểu mới, còn lại đa số máy bay là những loại kiểu cũ chỉ còn lại số giờ bay rất ít. Kế hoạch xây dựng lại lực lượng không quân: trang bị máy bay mới, hoàn thiện mạng sân bay, cải tiến hệ thống hậu cần, đào tạo phi công,... vẫn đang trong quá trình tiến hành.

Bộ phận mạnh nhất của lực lượng Xô Viết ở khu vực biên giới phía tây là Quân khu đặc biệt Kiev đóng tại Ukraina, điều này thể hiện quan điểm của Liên Xô cho rằng nếu chiến tranh nổ ra đối phương trước tiên sẽ phải đánh chiếm những vùng quan trọng sống còn về kinh tế. Và kết quả là Phương diện quân Tây tương đối yếu của Xô Viết tại Belarus đã gặp phải lực lượng chủ lực tấn công mạnh nhất của Đức và đã thất bại nhanh chóng vì đã bị các mũi xe tăng Đức áp đảo, chia cắt, bao vây, tiêu diệt lớn, mở toang cửa ngõ cho quân Đức đi vào trung tâm nước Nga thẳng tiến đến thủ đô Moskva.

Trong hai năm đầu của cuộc chiến 1941-1942, do thiếu pháo chống tăng, Hồng quân còn huy động khoảng 60.000 con chó chống tăng phục vụ trong các đơn vị Hồng Quân để chống lại xe tăng Đức.[50][51]

Về phía quân đội Đức Quốc xã, sau 5 năm chinh phạt khắp châu Âu, quân đội này được coi là có trình độ và kinh nghiệm chiến đấu dày dạn nhất thế giới ở thời điểm đó. Cộng thêm ưu thế về quân số, Chiến dịch Barbarossa được dự định sẽ đánh bại triệt để Liên Xô chỉ trong 3-4 tháng. Trong những ngày đầu của cuộc xâm lược, với ưu thế áp đảo của quân Đức, nhiều người cho rằng Liên Xô sẽ thất bại còn sớm hơn thế. Khi xe tăng và quân Đức tiến sâu lãnh thổ của Liên Xô trong một cuộc tấn công gồm ba mũi đột kích, hầu hết các nhà phân tích nước ngoài bắt đầu dự đoán rằng Liên Xô sẽ thất bại chỉ sau vài tuần hoặc thậm chí vài ngày[52]

Chiến sự năm 1941

Lúc 3 giờ 30 phút sáng ngày 22 tháng 6 năm 1941 không quân Đức đồng loạt tấn công các thành phố, doanh trại, căn cứ quân sự trong tầm từ biên giới Liên Xô đến sâu 300km trong nội địa. Chiến tranh đánh nhanh thắng nhanh của Đức bắt đầu. Ngay trong các giờ đầu tiên của các đợt tấn công bất ngờ hơn 1.200 máy bay chiến đấu Xô Viết đã bị phá huỷ ngay trên sân bay mà chưa kịp cất cánh, không quân Xô Viết gần như tê liệt, phía Đức đã làm chủ tuyệt đối bầu trời. Sau các đợt tấn công bằng không quân và pháo binh, các mũi xe tăng Đức tấn công mãnh liệt chia cắt các đơn vị Xô Viết. Chiến sự diễn ra trên mặt trận rộng lớn từ Biển Bắc đến Biển Đen.

Quân dự bị động viên của Liên Xô tiến ra mặt trận, Moscow 23/6/1941. Bảng trên cây bên trái ảnh có gi dòng chữ: "Chính nghĩa thuộc về chúng ta. Kẻ thù sẽ bị tiêu diệt. Chiến thắng sẽ thuộc về chúng ta" (Ảnh của RIA NOVOSSTI)

Tại cánh bắc chiến trường Xô – Đức: khu vực biển Baltic cụm tập đoàn quân Bắc của Đức tấn công ồ ạt. Tại đây phương diện quân tây bắc của Liên Xô rối loạn, phương diện quân này bao gồm 3 tập đoàn quân số 8, 11 và 27. Do cụm tập đoàn quân Bắc chỉ có 1 tập đoàn quân xe tăng số 4 cùng với 2 tập đoàn quân bộ binh 16 và 18, nên quân Đức không thể tổ chức bao vây tiêu diệt gọn các tập đoàn quân số 8 và 11 của Liên Xô. Tập đoàn quân số 8 Xô Viết dùng quân đoàn xe tăng số 12 phản kích nhưng bị đánh tách khỏi khối lực lượng Xô Viết còn lại, bị dồn ép rút lui qua Litva, Latvia về phía biên giới Estonia và cuối cùng bị ép ra biển gần Tallinn thủ đô của Estonia. Thành phố Tallinn khi đó là căn cứ chính của hạm đội Baltic sắp mất. Hạm đội Baltic của Liên Xô phải vội vã di tản về Kronstadt thuộc Leningrad mang theo cả tập đoàn quân 8 về phòng thủ thành phố này. Toàn bộ các nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Baltic đã rơi vào tay quân Đức. Phương diện quân tây bắc bị giải thể, tập đoàn quân 11 Xô Viết may mắn không bị bao vây, bị đánh lui về phía Staraia Russa và cùng với tập đoàn quân 27 đã rút lui từ trước cầm cự tại đây đồng thời kết hợp cùng phương diện quân Tây phản kích để kìm hãm đà tiến công của địch và lùi dần về phía Leningrad. Và cuối cùng cụm tập đoàn quân Bắc của Đức chiếm đầu mối đường sắt Tikhvin, quân Đức tiến đến bờ nam hồ Ladoga cắt rời Leningrad khỏi miền đất còn lại. Hồng quân bị ép chặt về vành đai tử thủ cuối cùng sát thành phố.

Leningrad, trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá, công nghiệp, thành phố lớn thứ hai của Liên Xô đã bị cô lập hoàn toàn và tưởng như không thể giữ nổi: phía bắc là quân Phần Lan, phía nam là quân Đức, phía tây là biển Baltic, phía đông là hồ lớn Ladoga, nhưng với sự kháng cự kiên cường, anh dũng quyết tâm bảo vệ Leningrad của quân đội Xô Viết cùng Hạm đội Baltic, liên quân Đức – Phần Lan cuối cùng đã phải dừng bước tại đây, không đánh chiếm được Leningrad quân Đức và Phần Lan buộc phải bao vây phong toả thành phố. Đến cuối năm 1944 sau 871 ngày bị vây hãm, Leningrad mới được giải toả với 62 vạn dân thành phố đã bị chết đói[53], thành phố này sau đó được mang tên Thành phố Anh hùng.

Tại cánh nam của mặt trận Xô – Đức: cụm tập đoàn quân Nam của Đức tấn công Phương diện quân tây nam của Xô Viết tại Ukraina. Cũng giống như cụm tập đoàn quân Bắc, quân Đức chỉ có một tập đoàn quân xe tăng số 1 và hai tập đoàn quân bộ binh số 6 và số 17 đã không thể tổ chức thành hai gọng kìm để bao vây và tiêu diệt các tập đoàn quân Xô Viết. Tại đây Hồng quân có lực lượng mạnh và có đội ngũ chỉ huy tốt gồm các tập đoàn quân 5, 6, 12 và 26. Trong những ngày đầu chiến tranh dưới áp lực quá lớn của quân Đức phương diện quân tây nam tuy đã bị tổn thất rất nặng nề nhưng đã không hoảng loạn, kháng cự có tổ chức, không cho đối phương đánh thọc sâu bọc sườn bắt buộc quân Đức tấn công chính diện một cách khó khăn, phương diện quân này vừa chống đỡ vừa liên tục dùng các quân đoàn xe tăng số 8, 15, 22, 9, 19 phản kích và lùi dần về phía Kiev một cách có tổ chức, bảo vệ được lực lượng. Một bộ phận khác là tập đoàn quân số 9 hay tập đoàn quân Duyên hải bị đẩy về phía Biển Đen đã cùng Hạm đội Biển Đen cố thủ vững chắc thành phố cảng Odessa từ 5 tháng 8 đến 16 tháng 10 năm 1941. Vào tháng 10 năm 1941 khi quân Đức tràn vào bán đảo Crimea đe dọa thành phố Sevastopol, lãnh đạo Xô viết cho rút bỏ Odessa và rút lực lượng ở đây về bảo vệ Sevastopol căn cứ chính của Hạm đội Biển Đen Xô Viết. Trận đánh phòng thủ Sevastopol là một trận đánh phòng thủ rất nổi tiếng trong cuộc chiến tranh này: với lực lượng thua kém rất nhiều quân địch lực lượng Xô Viết của tập đoàn quân Duyên Hải dưới quyền chỉ huy của thiếu tướng Ivan Efimovich Petrov – người hùng phòng thủ Odessa và Sevastopol, kết hợp cùng hoả lực của Hạm đội Biển Đen đã phòng thủ kiên cường thành phố. Và mãi đến tận 4 tháng 7 năm 1942, trong cuộc tổng tấn công mùa hè của quân Đức tại cánh nam chiến trường Xô – Đức 1942 Sevastopol mới thất thủ. Sự chống trả kiên cường của phương diện quân tây nam và các cuộc phòng thủ Odessa, Sevastopol và Kiev đã kìm hãm sức mạnh công phá ban đầu của quân Đức tạo thời gian cho Liên Xô huy động lực lượng dự bị để chiến đấu lâu dài và đã ngăn cản được quân Đức tràn vào vùng công nghiệp nặng Donbass và vùng Kavkaz trung tâm dầu mỏ của Liên Xô.

Nhưng những sự kiện quyết định nhất diễn ra chủ yếu tại mặt trận Belarus nơi đối đầu giữa cụm tập đoàn quân Trung tâm của Đức chống lại Phương diện quân Tây của Hồng quân.

Thất bại của Hồng quân tại Belarus

Tình hình tại phương diện quân Tây của Liên Xô thực sự là một thảm họa. Tại đây Hồng quân có 4 tập đoàn quân 3, 4, 10, 13 được bố trí bất hợp lý, lại phải chống chọi với hai tập đoàn quân xe tăng số 2, số 3 và hai tập đoàn quân bộ binh số 4 và số 9 của Đức. Chỉ trong vòng một tuần lễ cụm tập đoàn quân Trung tâm của Đức trong chiến dịch Belostok-Minsk đã bao vây và tiêu diệt gần hết lực lượng của phương diện quân Tây của Hồng quân. Ngay trong đêm 22 tháng 6 năm 1941 hai tập đoàn quân xe tăng Đức số 2 và số 3 từ hai phía nhắm vào Brest và Grodno đánh vào sườn của phương diện quân Tây. Các mũi tấn công của xe tăng Đức có cường độ cực mạnh và tốc độ tiến công cực cao lên tới 80km/ngày-đêm. Tập đoàn quân xe tăng số 2 Đức của đại tướng Heinz Guderian đánh tan các quân đoàn xe tăng Xô Viết số 14, 17 và các đơn vị bộ binh của tập đoàn quân Xô Viết số 4. Tập đoàn quân xe tăng Guderian cùng với tập đoàn quân xe tăng Đức số 3 của đại tướng Hermann Hoth đe dọa bao vây các tập đoàn quân số 3, số 10 của Liên Xô. Hồng quân tại Belarus rối loạn và hỗn loạn rút lui, nhưng tốc độ rút lui thậm chí không nhanh bằng đà tiến quân của địch.

Xe tăng KV-I của Liên Xô bị phá hủy trong tháng 9 năm 1941

Trong ngày 24 tháng 6 phương diện quân Tây gắng gượng tổ chức phản kích bằng hai quân đoàn cơ giới số 6 và 11 và quân đoàn kỵ binh số 6 nhằm vào tập đoàn quân bộ binh số 9 của Đức. Cuộc phản công được tổ chức kém và sai hướng nên bị tiêu diệt mà không có kết quả. Ngày 27 tháng 6 hai tập đoàn quân xe tăng Đức của Heinz Guderian và Hermann Hoth đã đánh tan sự kháng cự của tập đoàn quân số 13 của Xô Viết và hợp vây hai tập đoàn quân số 3, số 10 Xô Viết tại phía tây thành phố Minsk. Ngày hôm sau hai tập đoàn quân Đức số 4 và 9 đã hợp vây được tại phía đông Belostok.

Tới lúc này, chỉ huy Phương diện quân vội vã ra lệnh cho các đơn vị rút lui song phần lớn đã không thoát kịp khỏi vòng vây. Phương diện quân Tây đã rơi vào hai vòng vây lớn và mau chóng bị tiêu diệt. Ngày 29 tháng 6 thủ đô Minsk của Belarus thất thủ, ngày 30 tháng 6 phần lớn lực lượng quân đội Xô Viết bị bao vây đã bị tiêu diệt hoặc bị bắt làm tù binh. Trong tổng số 62,5 vạn binh lính và sĩ quan của phương diện quân Tây của Hồng quân, chỉ trong một tuần chiến tranh đầu tiên đã bị mất 42 vạn tại Belarus, chỉ còn hơn 20 vạn kịp thoát khỏi vòng vây để lập tuyến phòng thủ mới.

Tuy nhiên các đơn vị xe tăng của Đức không thể tiến nhanh về phía Smolensk như dự kiến bởi phía sau phương diện quân Tây là phương diện quân Dự bị của Liên Xô vừa thành lập khá mạnh với các tập đoàn quân 19, 20, 21, 22 cùng với các tập đoàn quân vừa rút lui số 11 và 13. Sự chống cự của các đơn vị này đã kìm hãm sức tiến công của các tập đoàn quân xe tăng Đức trong nhiều ngày. Phương diện quân Dự bị bắt đầu dùng các đơn vị xe tăng phản công có tổ chức kiềm chế bước tiến của các đơn vị xe tăng Đức. Khoảng ngày 6-9 tháng 7, các quân đoàn xe tăng số 5 và số 7 cùng các quân đoàn bộ binh của Xô Viết đã mở cuộc phản kích rất mạnh tại Vitebsk và Orsha, chặn đứng tạm thời bước tiến các đơn vị xe tăng số 2, số 3 của Đức, bảo vệ thành công hai thành phố này. Các đơn vị Đức buộc phải dừng lại đợi tăng viện để tiếp tục tiến đánh Smolensk.

Tăng hạng nặng KV-II của Liên Xô

Thảm bại của Quân đội Xô Viết tại Belarus trước hết là tại đây bộ chỉ huy Đức xác định là điểm đánh chính nên đã tập trung binh lực vào đây. Trên mặt trận này ưu thế về quân số và vũ khí của Đức đều hơn hẳn. Hai tập đoàn quân xe tăng Đức như hai gọng kìm thép đã tiến hành tiến công thọc sâu vũ bão, chia cắt và bao vây gây cho Liên Xô những tổn thất cực kỳ to lớn. Yếu tố bất ngờ của quân Đức cũng đóng vai trò lớn, ngoài các yếu tố trên Hồng quân còn bộc lộ các điểm yếu to lớn của trước kiểu chiến tranh đánh nhanh thắng nhanh hiện đại của đối phương:

  • Trang bị và trình độ của Hồng quân quá ít và lạc hậu so với quân Đức: mức độ cơ giới hóa thấp hơn quân Đức dẫn đến tốc độ di chuyển, tập hợp, công kích và rút lui chậm chạp, không thể kịp với tốc độ tấn công bằng thiết giáp cơ giới của địch. Mạng thông tin lạc hậu, chậm trễ kém hiệu quả. Trong các đơn vị có rất ít các phương tiện thông tin vô tuyến. Vào thời điểm bắt đầu tấn công quân báo Đức tung các toán biệt kích giả dạng lính biên phòng và lính của Bộ nội vụ NKVD đi đánh phá các tuyến dây thông tin hữu tuyến tấn công các cơ cấu chỉ huy, liên lạc làm rối loạn rất trầm trọng công tác chỉ huy từ trên xuống và hiệp đồng thống nhất của các đơn vị. Các phương tiện xe tăng, thiết giáp của Liên Xô quá lạc hậu (chỉ trừ hai loại xe tăng KV-1 và T-34 được xem là tốt nhất thế giới thời bấy giờ nhưng lại quá ít so với xe tăng Đức) và Hồng quân rất thiếu các phương tiện chống tăng. Vũ khí cá nhân của binh sĩ có số lượng áp đảo là súng trường Mosin bắn phát một, mẫu của năm 1891, trong khi lính Đức đã trang bị khá nhiều súng máy đa năng và súng tiểu liên...
  • Phần lớn chỉ huy của Xô Viết từ sĩ quan cấp thấp đến Tổng tham mưu trưởng, Bộ trưởng Quốc phòng, đến Tổng tư lệnh tối cao có tư duy chiến tranh lạc hậu hơn tầng lớp sĩ quan tướng lĩnh Đức, không thể dự đoán nổi tính chất, cường độ, mật độ tấn công cơ động phủ đầu mãnh liệt ngay từ giờ phút đầu của đối phương. Cũng như chỉ huy các nước Anh, Pháp, Ba Lan... họ vẫn tư duy chiến tranh theo kiểu cũ, nặng về chiến tranh trận địa. Quân đội Xô Viết cho rằng quân Đức sẽ mở đầu chiến tranh bằng các trận đánh trận địa thăm dò, vì vậy đã hoàn toàn bất ngờ, choáng váng, mất sự chỉ huy, không theo kịp diễn biến chiến sự.
  • Quan điểm sai lầm trong việc xây dựng các khu vực phòng thủ: trong năm 1939-1940, Liên Xô đã di rời các khu vực phòng thủ chiều sâu từ biên giới cũ đến biên giới mới khi quân đội Xô Viết tiến vào miền tây Ucraina và tây Belarus. Các khu phòng thủ quá sát biên giới có hình dạng kéo dài hàng ngang không có chiều sâu phòng ngự đã làm giảm ý nghĩa phòng thủ: rất dễ dàng bị đối phương đánh thọc sâu bọc sườn và bao vây ngay từ ban đầu. Hình thế chiến dịch bất lợi này đã được Bộ tổng tham mưu Xô Viết nhiều lần khuyến cáo nhưng vì các lý do chủ quan và khách quan đã không kịp bố trí lại.
  • Trình độ sĩ quan chỉ huy thấp: tầng lớp sĩ quan chỉ huy Hồng quân sau đợt thanh lọc chính trị chưa tích lũy đủ kinh nghiệm, kiến thức và bản lĩnh chỉ huy. Đặc biệt bị ám ảnh bởi nỗi sợ bị thanh lọc nên tính chủ động, quyết đoán của cán bộ chỉ huy bị bó buộc: các cấp chỉ huy không dám ra quyết định, phần nhiều trông chờ vào mệnh lệnh của cấp trên... Các cấp chỉ huy Xô Viết nhất là tại phương diện quân Tây và Tây bắc trong những ngày đầu đã bị rối trí, chỉ huy mò mẫm, thiếu phối hợp, kém hơn nhiều so với đối phương.
  • Học thuyết quân sự giáo điều: theo học thuyết quân sự của Stalin, quân đội của giai cấp vô sản là vô địch, bách chiến bách thắng, chỉ có tấn công tích cực, xem nhẹ phòng ngự, đề cao quá mức yếu tố tinh thần – chính trị. Trước chiến tranh đã có nhiều sĩ quan tướng lĩnh Xô Viết tìm cách học tập nghiên cứu kinh nghiệm tổ chức, huấn luyện, trang bị, cơ cấu lực lượng vũ trang, chiến thuật, chiến lược tiên tiến của Đức, nhưng các cố gắng đó bị coi là "thân phát xít". Điều lệnh chiến đấu của Hồng quân khi đó quy định rằng khi chiến tranh nổ ra, toàn bộ lực lượng quân sự Xô viết ngay lập tức sẽ phải tổng tấn công giáng trả vào đất địch và chiến tranh sẽ diễn ra trên đất kẻ thù. Học thuyết này không đúng với thực tế so sánh lực lượng của các bên đối kháng khi đó. Cụ thể tại Belarus, trong những giờ phút chiến tranh ban đầu, thay vì phải nhanh chóng rút lực lượng ra khỏi các khu phòng thủ đã mất tác dụng tránh để bị quân Đức đánh thọc sâu và bao vây, các đơn vị tiếp giáp phải tìm cách phản kích kìm chân địch để thiết lập tuyến phòng ngự chiều sâu, Hồng quân lại tập hợp chuẩn bị tổng phản công đánh sang đất địch.

Kết quả: thảm họa của phương diện quân Tây đã mở thông đường cho quân Đức thẳng tiến vào trung tâm nước Nga. Phía trước cụm tập đoàn quân Trung tâm giờ đây là hướng Moskva. Với trách nhiệm vì đã để xảy ra sự bại trận lớn tại Belarus, đại tướng tư lệnh Dmitry Grigorievich Pavlov (từng là Anh hùng Liên Xô), cùng tham mưu trưởng phương diện quân Klimovskik, và nhiều tướng lĩnh bộ chỉ huy phương diện quân đã bị cách chức và bị tòa án quân sự tuyên án tử hình vì những yếu kém của họ và không phải của họ.

Trận Smolensk, Hồng quân tạm thời chặn đứng được quân Đức

Từ đầu tháng 7 đến cuối tháng 9 năm 1941 đã xảy ra một chuỗi trận đánh liên hoàn mà trận Smolensk và việc tiêu diệt phương diện quân tây nam của Xô Viết tại khu vực Kiev là những sự kiện lớn trong chuỗi trận đánh lớn này.

Sau các thắng lợi rất lớn ban đầu, quân đội Đức đã chiếm được các Nước cộng hoà Baltic, Belarus, Moldavia, phần đất của Nga và Ukraina trên bờ tây sông Tây Dvina và sông Dnepr. Chiến tuyến lúc đó dựa theo hai con sông này. Đến lúc này mặt trận đã quá dài, quân Đức không thể đảm bảo đủ mật độ quân lực trên một mặt trận quá lớn nên đã "không thể đồng thời tấn công tổng lực trên tất cả các hướng" mà phải lựa chọn tấn công trọng điểm theo thời gian. Điều đó cho thấy: dù có đạt được thắng lợi cực lớn ban đầu nhưng việc đánh thắng Liên Xô trong chiến tranh chớp nhoáng là quá sức đối với nước Đức Quốc xã. Trong khi đó tiềm lực Xô Viết thật khó đánh giá, mặc dù đã tổn thất rất nặng nề, mất hơn 1 triệu quân trong tháng đầu tiên, nhưng quân số Hồng quân không ngừng tăng lên. Trên hướng Smolensk là hướng chiến lược phía tây, Bộ tổng tư lệnh tối cao Xô Viết điều động thê đội 2 của lực lượng dự bị chiến lược lập phương diện quân Dự bị phía sau phương diện quân Tây đang phòng thủ. Liên Xô định xây dựng tuyến phòng thủ vững chắc nhiều tầng lớp theo tuyến Velikie Luki – Nevel – Vitebsk – Orsha – Moghilev – Gomel dựa trên hai con sông lớn Tây Dvina và Dnepr.

Hồng quân Liên Xô thuộc Tập đoàn quân 20 phòng thủ tại Dorogobuzh, Smolensk. Ngày 1 tháng 10 năm 1941. (Ảnh:RIA Novosti)

Trận Smolensk: Ngày 8 tháng 7 năm 1941 sau khi tập trung đủ quân Bộ chỉ huy tối cao Đức ra lệnh cho cụm tập đoàn quân Trung tâm dùng hai tập đoàn quân xe tăng số 2 và số 3 và một bộ phận tập đoàn quân xe tăng số 4 của tập đoàn quân Bắc cùng hai tập đoàn quân bộ binh số 2 và số 9 tấn công đánh tiêu diệt khối quân Xô Viết phòng thủ hướng Smolensk để mở ra đường ngắn nhất tiến chiếm thủ đô Moskva trong hành tiến. Trong 10 ngày từ 10 đến 20 tháng 7 Quân Đức tấn công mãnh liệt cánh phải và chính diện phương diện quân Tây Xô Viết và chọc thủng phòng tuyến sông Tây Dvina tiến sâu được 200km chiếm các thành phố Moghilev, Smolensk, Orsha, Yelnya, Kritchev, bao vây các tập đoàn quân 13, 16, 20 Xô Viết tại khu vực Smolensk. Dù chỉ mới sau thảm bại thất thủ Belarus vài ngày nhưng sức kháng cự của Hồng quân đã khác: quân Đức gặp sự phản kháng mãnh liệt tăng lên từng ngày, các đơn vị Liên Xô bị lọt vào vòng vây liên tục kháng cự và phản kích.

Từ 23 tháng 7 đến 7 tháng 8, Quân đội Xô Viết lấy lực lượng từ phương diện quân Dự bị tổ chức phản công mạnh mẽ với ý đồ hợp vây khối quân Đức tiên phong tại khu vực Smolensk. Cuộc phản công không tiêu diệt được khối quân đối phương nhưng đã giải cứu được các tập đoàn quân 16 và 20 và chặn đứng được sự phát triển tấn công của cụm tập đoàn quân Trung tâm của Đức về phía Moskva. Các trận đánh vẫn tiếp diễn tại vòng cung Yelnya: Từ ngày 20 tháng 8 đến 9 tháng 9, tập đoàn quân 24 của Xô viết phản công tại Yelnya: cuộc chiến diễn ra đẫm máu, cuối cùng quân Đức phải rút khỏi Yelnya và quay sang tập trung tấn công xuống phía nam để bao vây Kiev. Phương diện quân Tây của Hồng quân chịu thương vong rất lớn nhưng đã lập được phòng tuyến ổn định tại phía tây dẫn đến Moskva. Quân Đức đã không thể chiếm Moskva trong hành tiến.

Trận Smolensk kéo dài hai tháng đã làm rối kế hoạch chiến tranh đánh nhanh thắng nhanh của Đức. Với sức kháng cự ngày càng tăng của phía Liên Xô thì giờ đây mục tiêu chiếm Moskva và tiến đến tuyến Arkhangelsk – Astrakhan trước mùa đông là khó hoàn thành. Tại trận Smolensk, lần đầu tiên vũ khí mới của Liên Xô là dàn hoả tiễn Cachiusa đã xuất trận. Quân đội Liên Xô đã qua cơn choáng ban đầu và bắt đầu chiến đấu ngày càng có tổ chức. Đối với Đức mặt trận phía đông không còn là chiến thắng dễ dàng nữa.

Trận Smolensk vẫn tiếp diễn và chiến sự dần chuyển xuống phía nam. Các diễn biến tiếp sau của trận đánh này dẫn đến đột biến tại mặt trận của phương diện quân tây nam của Hồng Quân.

Trận Kiev (1941) – phương diện quân tây nam của Xô Viết bị tiêu diệt

Trong trận Smolensk, khi không thể đột phá trực tiếp về phía đông qua hướng Smolensk – Moskva, quân Đức tấn công dò tìm điểm yếu trong tuyến phòng thủ của Hồng quân, điểm yếu đó là phương diện quân Trung tâm của Xô Viết trên hướng Gomel 300km phía nam Smolensk. Cuối tháng 7 cụm tập đoàn quân Trung tâm của Đức chọc thủng phòng tuyến của phương diện quân Trung tâm của Xô Viết ào ạt tấn công theo hướng Bắc – Nam về phía Gomel và chiếm thành phố này ngày 20 tháng 8 năm 1941. Quân Đức đe doạ nghiêm trọng sườn phải và lưng của phương diện quân tây nam Xô Viết đang phòng thủ hướng Kiev. Với triển vọng đánh vào lưng và bao vây tiêu diệt cụm quân Xô Viết tại Kiev, Hitler ra lệnh cho cụm quân Trung tâm tạm dừng tấn công trên hướng Moskva điều một nửa lực lượng của cụm quân này là tập đoàn quân xe tăng số 2 của Guderian và tập đoàn quân bộ binh số 2 đánh xuống phía nam bên bờ Đông sông Dnepr kết hợp cùng cụm tập đoàn quân Nam của Đức bao vây tiêu diệt phương diện quân tây nam đang phòng thủ khu vực Kiev. (xem trận Kiev, 1941)


Ngay từ cuối tháng 7 năm 1941 trước hiểm hoạ đột phá tại phía nam mặt trận, Bộ tổng tham mưu Xô Viết kiên quyết đề nghị bỏ Kiev đưa toàn bộ lực lượng sang bờ Đông sông Dnepr lập tuyến phòng thủ mới, nhưng Stalin là lãnh đạo tối cao không chấp nhận. Kiev có giá trị rất lớn cả về kinh tế lẫn tâm lý: đây là nơi tập trung nhiều khu công nghiệp và nông nghiệp trù phú của Liên Xô, lại là vùng "đất tổ" nơi phát tích ra nước Nga. Do vậy, nếu còn hy vọng thì Stalin muốn cố gắng hết sức để giữ vùng này, ông lập tức bãi chức Tổng tham mưu trưởng của đại tướng Georgy Konstantinovich Zhukov, điều chuyển Zhukov sang làm chỉ huy mặt trận phòng ngự Leningrad và ra lệnh tử thủ và phản công giữ vững Kiev.[54].

Trong tháng 8 các nỗ lực phản công của phương diện quân Briansk của Liên Xô đánh vào sườn trái tập đoàn quân xe tăng số 2 và tập đoàn quân số 2 của Đức đều thất bại. Phương diện quân này tổn thất rất lớn và còn tạo ra lỗ hổng lớn trong phòng ngự. Đến ngày 10 tháng 9 tập đoàn quân xe tăng số 2 của Guderian từ phía bắc đánh xuống bên bờ Đông sông Dnepr đã chiếm được Chernigov và Konotop. Sau đó đánh đòn quyết định nhắm về phía về Lokhvitsa.

Trong thời gian đó từ 12 tháng 7 tới 10 tháng 8 tại mặt trận Kiev chiến sự giữa cụm tập đoàn quân Nam của Đức và phương diện quân tây nam Xô Viết đang xấu đột biến cho Hồng quân: các tập đoàn quân xe tăng số 1 và tập đoàn quân bộ binh số 6 Đức không thể tiến vào được Kiev từ phía tây và tây bắc đã thọc xuống phía nam Kiev kết hợp cùng tập đoàn quân 17 đánh thọc sườn vào hậu phương các tập đoàn quân 6, 12, 18 của Xô Viết. Các mũi tiến quân này phối hợp với quân Romania đã hoàn toàn bao vây và tiêu diệt các tập đoàn quân 6, 12 Xô Viết tại Pervomaisk- Uman. Thừa thắng từ ngày 11 tháng 8 đến 10 tháng 9 cụm tập đoàn quân Nam tấn công vũ bão đã chiếm một vùng rộng lớn tại phía nam Kiev: Krivoi Rog rồi Nikolaiev sau đó vượt sông Dnepr sang bờ đông chiếm Dnepropetrovsk, Zaporozhie và Kremenchuk.

Sau khi đột phá tại phía nam Kiev tập đoàn quân xe tăng số 1 của Paul Ludwig Ewald von Kleist thuộc cụm tập đoàn quân Nam của Đức từ bàn đạp Kremenchuk phía bờ Đông sông Dnepr đã tiến lên phía bắc. Ngày 15 tháng 9 tại Lokhvitsa tập đoàn quân xe tăng này đã gặp tập đoàn quân xe tăng số 2 của Guderian từ phía bắc đánh xuống, hợp vây hoàn toàn phương diện quân tây nam của Liên Xô.

Phương diện quân tây nam Xô Viết dù đã kháng cự rất quyết liệt từ ngày đầu chiến tranh và đã cầm cự có tổ chức được lâu dài giờ đây đã bỏ lỡ cơ hội rút lui, các tập đoàn quân Xô Viết của phương diện quân này đã rơi vào vòng vây siết chặt của quân Đức, lại bị ngăn cách bởi sông lớn Dnepr và đã bị tiêu diệt gọn. Khoảng 65 vạn quân Xô Viết đã tử trận hoặc bị bắt làm tù binh, trong đó có hầu hết các tư lệnh và chỉ huy các tập đoàn quân của phương diện quân này. Thượng tướng Mikhail Petrovich Kirponos, tư lệnh phương diện quân bị tử thương khi một viên đạn cối của quân Đức nổ ngay cạnh ông. Trung tướng V. I. Tupikov tham mưu trưởng Phương diện quân tử trận tại làng Ovdievsk. Ủy viên hội dồng quân sự phương diện quân, Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Ukraina đã tử trận tại khu rừng Sumeykovo. Chính ủy phương diện quân tây nam Yevgheni Pavpovich Rykov bị quân Đức bắt và hành quyết tại Lokhvitsa.[55]. Trong khi đó, quân Đức chịu thương vong khoảng 128.000 quân. Đây là một trong những chiến dịch thắng lợi to lớn nhất của quân Đức trong thế chiến II. Ngày 19 tháng 9 năm 1941, Kiev thất thủ. Chỉ có khoảng 100 ngàn quân của Phương diện quân tây nam Xô Viết thoát khỏi vòng vây, họ cố gắng thiết lập tuyến phòng thủ mới ở bờ đông sông Dnepr.

Binh sĩ Liên Xô bị quân Đức áp giải tới trại tù binh

Sau này có nhiều ý kiến cho rằng quyết định của Adolf Hitler phái một nửa lực lượng của cụm tập đoàn quân Trung tâm xuống phía nam tiêu diệt Kiev đã bỏ lỡ cơ hội đánh chiếm Moskva trước mùa đông. Tuy nhiên theo nguyên soái G.K Zhukov của Liên Xô thì quyết định này là đúng đắn cho quân Đức và sẽ phải xảy ra theo đúng quy luật quân sự và tình thế chiến trường khi đó[56], vì nếu quân Đức không tiêu diệt được Phương diện quân tây nam thì mũi tấn công của cụm tập đoàn quân Trung tâm vào Matxcova sẽ bị hở sườn phải và rất dễ bị Phương diện quân tây nam tấn công từ phía sau. Và vì nhận thức được khả năng này Bộ tổng tham mưu Xô Viết đã đề nghị Stalin sớm bỏ Kiev rút sang bờ đông sông Dnepr phòng ngự, nhưng đề nghị này G.K Zhukov đã không được Stalin chấp nhận vì những lý do đã nêu ở trên.

Nhưng thất bại to lớn của quân đội Xô Viết tại Kiev còn có một khía cạnh khác, nó tác động lên tâm lý của lãnh tụ hai bên làm ảnh hưởng đến kết cục chiến tranh sau này: Tổng chỉ huy tối cao của Liên Xô Stalin sau các thất bại tại Belarus và Kiev đã nhận thức được hạn chế về kiến thức quân sự của cá nhân mình và đã biết chú ý lắng nghe ý kiến của Bộ tổng tham mưu và các tướng lĩnh Xô Viết. Trong khi đó Hitler đã quá tự tin vào thiên tài quân sự và khả năng không thể sai lầm của mình nên càng ngày càng bỏ qua các ý kiến của các tướng lĩnh Đức, điều này đã ảnh hưởng đến quá trình điều hành chiến tranh sau này của hai bên.

Trận Moskva: Chiến tranh chớp nhoáng của Đức bị thất bại

Từ ngày 30 tháng 9 năm 1941 đến đầu tháng 1 năm 1942 đã diễn ra Trận Moskva, là trận đánh lớn trong chiến tranh Xô – Đức và Chiến tranh thế giới thứ hai có tầm quan trọng bậc nhất cả về quân sự, chính trị cũng như tâm lý. Trận chiến này đã chứng tỏ chiến tranh đánh nhanh thắng nhanh của Đức đã thất bại, nước Đức Quốc xã buộc phải chấp nhận tiến hành chiến tranh tiêu hao kéo dài với đối thủ là cường quốc rộng lớn nhất thế giới, đông dân với tiềm lực ngày càng được huy động. Đây là điềm báo trước thất bại của Đức trong toàn bộ cuộc chiến tranh.

Sau thất bại to lớn của quân đội Xô Viết tại Ukraina, mối đe doạ bị Hồng quân tấn công vào sườn phải cụm tập đoàn quân Trung tâm không còn. Phía Đức trong tháng 9 năm 1941 đã dừng tấn công trên hướng Moskva để chuẩn bị kỹ cho chiến dịch cơn bão (Typhoon) nhằm đánh chiếm thủ đô Xô Viết. Quân đội Đức đã tăng cường bổ sung cho cụm tập đoàn quân Trung tâm trong trận đánh này một lực lượng rất lớn: điều tập đoàn quân xe tăng số 2 của Heinz Guderian và tập đoàn quân bộ binh dã chiến số 2 vừa đánh thắng trận Kiev về, điều tập đoàn quân xe tăng số 4 của đại tướng Erich Hopner duy nhất của cụm Bắc xuống cho cụm Trung tâm. Lúc này cụm tập đoàn quân Trung tâm có ba tập đoàn quân bộ binh số 2, 4, 9 và ba tập đoàn quân xe tăng số 2, 3, 4 tổng cộng khoảng 75 sư đoàn và 1,8 triệu binh sĩ với 1.700 xe tăng, 14.000 pháo và súng cối, 1.400 máy bay tức là khoảng 34% quân số và 68% số xe tăng của Đức trên chiến trường khi đó. Bộ chỉ huy tối cao Đức dành cho chiến dịch này tầm quan trọng đặc biệt như bước quyết định để chấm dứt chiến tranh để giành thắng lợi.

Người dân Moskva được huy độnh tham gia đào hào chống tăng, tháng 10 năm 1941

Đối với Liên Xô đây là thời kỳ nguy ngập nhất trong toàn bộ lịch sử từ ngày thành lập. Nguy cơ thất trận của Liên Xô đến lúc này là quá to lớn: tuy đất nước rộng lớn, dân số nhiều nhưng quân số không động viên kịp cho số bị thương vong và bị bắt. Các cơ sở kinh tế lớn trên các vùng lãnh thổ phía tây đất nước trước đây chiếm đa phần tỷ trọng trong kinh tế đất nước nay đã bị Đức chiếm hoặc đang được tháo dỡ di chuyển sang phía đông và chưa thể cho ra sản phẩm. Quân số thiếu mà vật chất tiền của để tiếp tục chiến tranh cũng ở mức độ nguy kịch. Sự giúp đỡ về kinh tế, vũ khí của khối đồng minh Anh – Mỹ cho Liên Xô (chương trình Lend-lease của Chính phủ Hoa Kỳ) thì lại chưa đến (những chuyến hàng đầu tiên của Mỹ chỉ kịp đến Liên Xô vào tháng 12/1941). Liên Xô huy động tối đa mọi nguồn lực có thể cho việc bảo vệ thủ đô, bao gồm cả việc động viên nhân dân Moscow tham gia hỗ trợ quân đội (đào hào, vận tải, cứu thương...)

Hitler đã chuẩn bị một kế hoạch chiến tranh hủy diệt đối với Moskva. Trong một cuộc họp tại Bộ tham mưu cụm tập đoàn quân Trung tâm, Hitler đã tuyên bố: "Thành phố sẽ bị vây chặt, không một lính Nga, không một dân thường - đàn ông, đàn bà, trẻ em có thể trốn thoát. Mọi ý đồ rời khỏi thành phố sẽ bị đè bẹp bằng sức mạnh. Mọi sự chuẩn bị đã sẵn sàng để làm chìm ngập Moskva và vùng phụ cận. Nơi hôm nay là Moskva sẽ là một cái hồ lớn mãi mãi nhấn chìm thủ đô của bọn Nga!".

Để bảo vệ Moskva quân đội Xô Viết cho thiết lập ba tuyến phòng thủ: tuyến Rzhev – Viazma – Briansk cách thủ đô khoảng 200–500km, tuyến Volokolamsk – Mozhaisk – Kaluga cách Moskva thoảng 100–150km và tuyến cuối cùng là vành đai xung quanh thành phố. Quân đội Xô Viết bố trí ba phương diện quân Tây, Dự bị và Briansk để phòng thủ Moskva: tổng cộng gần 1,25 triệu quân, 1.000 xe tăng, gần 700 máy bay, 7.600 pháo và súng cối. Cho đến thời điểm tấn công quân Đức có lực lượng vượt trội cả về quân số, trình độ huấn luyện tác chiến, số lượng và chất lượng vũ khí.

Kế hoạch của quân Đức trước tiên hợp vây tiêu diệt các đơn vị Xô Viết tại tuyến Rzhev – Viazma – Briansk mở đường cho 2 mũi lao nhọn từ Bắc và Nam tiến đến bao vây Moskva tại Orekhovo-Zuevo khoảng 60km về phía đông Moskva. Sau khi vây hãm Moskva, sẽ dùng không quân, xe tăng và bộ binh đánh chiếm thành phố.

Trận đánh bắt đầu vào ngày 30 tháng 9 năm 1941 và chia làm nhiều giai đoạn khốc liệt. Trong 10 ngày đầu tháng 10 năm 1941, quân Đức đập tan tuyến phòng thủ Rzhev – Viazma – Briansk của Hồng quân, bao vây tiêu diệt khoảng nửa triệu quân của ba phương diện quân Xô Viết. Tuyến phòng thủ vòng ngoài của Moskva đã bị đánh tan.

Cuộc duyệt binh tại Quảng trường Đỏ ngày 7 tháng 11 năm 1941, đây là cuộc duyệt binh duy nhất mà các loại vũ khí được nạp đầy đủ đạn dược bởi ngay sau lễ duyệt binh, các đơn vị Hồng quân sẽ tiến thẳng ra chiến trường.

Ngày 15/10/1941, quân Đức chỉ cách Moskva 27km. Tình hình đã trở nên nguy cấp, Stalin hỏi Đại tướng Zhukov: "Anh có tin là chúng ta giữ được Moskva không? Tôi hỏi anh điều này với nỗi đau lớn. Anh hãy nói một cách chân thành với tư cách người đảng viên". Zhukov trả lời: "Nhất định chúng ta giữ được, nhưng chúng ta cần tăng cường ít nhất 2 quân đoàn và 200 xe tăng!". Stalin đồng ý và lập tức triệu tập cuộc họp Hội đồng Quốc phòng. Ông đã yêu cầu từng người trả lời câu hỏi: "Tử thủ hay rút chạy?". Tất cả đều thể hiện sẵn sàng chiến đấu.

Stalin đã ra lệnh cho Malenkov và Serbakov viết "Bản nghị quyết của Hội đồng Quốc phòng về kế hoạch bảo vệ Moskva". Stalin ra lệnh điều quân dự bị từ Siberi về giải nguy cho Moskva, đồng thời chuẩn bị sơ tán các cơ quan chính phủ và đoàn ngoại giao ra khỏi Moskva. Thi hài Lênin đã được bí mật di chuyển đến Kubisev. Toàn bộ nhân dân Moskva được lệnh tổng động viên, sẵn sàng tham gia chiến đấu cùng Hồng quân.

Tình thế Moskva nguy ngập, quân đội Xô Viết vội vã điều nốt các lực lượng dự bị cuối cùng củng cố tuyến phòng thủ thứ hai và áp dụng các biện pháp kiên quyết nhất để bảo vệ thủ đô... Buổi tối ngày 6 tháng 11, tại nhà ga xe điện ngầm Mayakovsskaia đã diễn ra cuộc mít tinh kỷ niệm 24 năm Cách mạng tháng 10 Nga. Sáng ngày 7 tháng 11 năm 1941 để nâng cao tinh thần cho chiến sĩ và toàn dân Liên Xô trong cuộc đấu tranh một mất một còn với kẻ thù nguy hiểm, Hội đồng Quốc phòng Nhà nước và Bộ Tổng tư lệnh tối cao Quân đội Liên Xô vẫn tổ chức cuộc duyệt binh hàng năm theo truyền thống tại Quảng trường đỏ. Tại cuộc duyệt binh này, chính I. V. Stalin thay mặt Đảng Cộng sản và Nhà nước Xô Viết kêu gọi quân và dân Liên Xô tiếp tục anh dũng chiến đấu, tiêu diệt quân thù, bảo vệ Tổ quốc Liên Xô, giải phóng cho các dân tộc bị phát xít nô dịch.

Trong tháng 10 các nỗ lực phòng thủ đã cho kết quả: quân đội Xô Viết trong chiến đấu đã tạo được tuyến phòng thủ chiều sâu dày đặc, cộng với việc quân Đức không thể bổ sung kịp thời cho các tổn thất rất to lớn trong quá trình chiến đấu, các điều kiện thời tiết cũng đã giúp cho phía Liên Xô làm chậm tốc độ và sức công phá của các cuộc tấn công của Đức. Và cuối cùng qua ba đợt tấn công càng ngày càng khó khăn đến đầu tháng 12 năm 1941, cuộc tấn công của Đức đã hụt hơi và bị chặn đứng tại ngay cửa ngõ Moskva. Vào ngày 2/12/1941, Sư đoàn Thiết giáp số 5 của Đức đã dừng lại ở ngôi làng Dmitrov và Jokroma, áp sát và cách Moscow 14km, cách Kremlin đúng 24km, đây là điểm xa nhất mà quân Đức tiến được trong cuộc chiến.

Tổ lái xe tăng của D. Lavrienko giữa hai trận đánh, ngoại ô Moskva, 1-10-1941. Lavrienko đã tiêu diệt được 52 xe tăng Đức trước khi hy sinh trong chiến dịch này.

Trước đó, bộ chỉ huy Đức đã phạm phải một sai lầm nghiêm trọng: chủ quan với những thắng lợi lớn ở mặt trận, ngày 16 tháng 8 năm 1941, Thống chế lục quân Đức Wilhelm Keitel đề nghị cắt giảm nỗ lực sản xuất quân sự vào mùa thu năm 1941 vì chắc chắn rằng Đức sẽ đánh bại Liên Xô trước mùa đông, và Hitler đồng ý. Hậu quả là Đức đã không chuẩn bị đầy đủ trang bị cho một chiến dịch trong mùa đông. Cùng với số chết trận, binh lính Đức còn bị bị tê cóng và bệnh dịch do thời tiết lạnh.

Một số sư đoàn Đức rơi rụng chỉ còn 50% thực lực.[57] Sư đoàn Thiết giáp số 6 của tướng Raus báo cáo mỗi ngày có khoảng 800 ca cóng lạnh. Nhiệt độ thấp nhất đo được trong toàn bộ kế hoạch này là -53 độ C (khu vực tây bắc Moscow vào ngày 26 tháng 1 năm 1942) trong khi trang thiết bị của Đức bắt đầu hỏng hóc khi nhiệt độ xuống -20 độ C. Bình luận cả về sình lầy (mùa Thu) và tuyết lạnh (mùa Đông), Tướng Zhukov của Nga nói rất đơn giản rằng: quân Đức đáng ra phải hiểu rõ về thời tiết, nhưng họ đã không lo ứng phó với nó. Trong trường hợp này, thời tiết đóng một vai trò quan trọng (nhưng không phải là quan trọng nhất) giải thích tại sao Hồng quân Liên Xô – với hơn 1 triệu binh sĩ hy sinh trong giai đoạn đầu của kế hoạch Barbarossa kéo dài 2 tháng – không chỉ có thể giữ vững Moscow, mà còn tiến hành các đợt phản công mạnh mẽ. Quân Đức vì chủ quan khinh địch, tin rằng sẽ sớm chiến thắng nên đã không chuẩn bị kỹ cho cuộc chiến trong mùa đông, đây là sai lầm chiến lược của họ (và "chủ quan khinh địch" cũng là một dạng sai lầm nghiêm trọng nhất trong bất kỳ một cuộc chiến tranh nào).

Rõ ràng phía Đức đã không đánh giá hết được đối phương Xô Viết: lòng yêu nước, sự tin tưởng, trung thành của con người Xô Viết; tính kỷ luật kiên cường của Hồng quân; tiềm năng tổng động viên của nhà nước Xô Viết; tiềm năng kinh tế của Liên Xô; sự giúp đỡ của đồng minh; điều kiện tự nhiên rất đặc trưng của nước Nga. Kết quả: Đến đầu tháng 12 năm 1941 các nỗ lực tấn công cuối cùng của Đức đã hụt hơi trong khi đó các lực lượng dự bị hùng hậu của Hồng quân đã được huy động để phản công. Lúc này phía Xô viết vẫn còn tới 3 tập đoàn quân dự trữ để phản công còn phía Đức thì không còn lấy lực lượng dự trữ nào.

Bộ binh trượt tuyết Xô Viết phản công. Đây là kiểu bộ binh đặc biệt của Liên Xô, có kỹ năng tác chiến mùa đông vượt trội so với lính Đức

Thời điểm đầu tháng 12 năm 1941 là thời điểm kịch tính bản lề của trận đánh khi quân Đức đã suy kiệt không thể tấn công thêm. Sự không tham chiến của Nhật đã cho phép Liên Xô điều động các sư đoàn dự bị đầy sức sống, trang bị tốt từ các quân khu Viễn Đông và Siberia. Các lực lượng này đã kịp đến và tập hợp tại chiến trường đã sẵn sàng tham chiến, binh khí kỹ thuật của Liên Xô cũng được bảo đảm giành ưu thế đối với quân Đức nhất là ưu thế về không quân ném bom. Và đặc biệt, một lợi thế cực kỳ to lớn là quân đội Xô Viết đã được trang bị và huấn luyện kỹ chiến thuật tác chiến trong mùa đông (bao gồm trượt tuyết, giày đi tuyết, áo ngụy trang, cách giữ ấm cơ thể), đây là điều mà quân Đức chưa được chuẩn bị. Ngày 5 tháng 12 năm 1941 ngay sau khi cuộc tấn công của Đức đã hết hơi, cuộc tổng phản công tại Moskva của Hồng quân bắt đầu.

Quân đội Xô Viết ào ạt tấn công, cuộc phản công đã diễn ra thắng lợi. Tuy nhiên quân đội Xô Viết khi đó còn chưa hội đủ các điều kiện để tiến hành tấn công theo chiều sâu để bao vây tiêu diệt khối chủ lực của địch, cuộc tấn công của Hồng quân mang tính chất tấn công chính diện đẩy lùi quân địch ra xa khỏi Moskva. Lực lượng Đức đã suy kiệt sau các nỗ lực tấn công Moskva bất thành lại đang trong đội hình tấn công không có hệ thống phòng ngự chiều sâu, ở hình thế lõm sâu vào vị trí đối phương, lại không quen chiến đấu trong mùa đông khắc nghiệt và hoàn toàn không hề dự đoán khả năng quân địch tấn công.

Mặc dù đã có lệnh của Hitler không lùi một bước, quân Đức đã bị hất ra xa ra khỏi Moskva từ 150 đến 300km. Hơn 500.000 quân Đức bị tiêu diệt, hàng chục sư đoàn bị tiêu diệt và tiêu hao.

Chiến lược đánh nhanh thắng nhanh (hay còn gọi là chiến tranh chớp nhoáng) của Đức đã thất bại hoàn toàn. Sau trận đánh này, cho dù Liên Xô chỉ tạm thời giành thế thượng phong, nước Đức Quốc xã đã buộc phải chấp nhận tiến hành chiến tranh tiêu hao kéo dài với đối thủ là cường quốc rộng lớn nhất thế giới, đông dân với tiềm lực chiến tranh ngày càng được huy động mạnh hơn. Đây là một chiến thắng bước ngoặt của quân đội Liên Xô trong suốt cuộc chiến.

Sự chiếm đóng và diệt chủng

Đội hành quyết SS đang giết người Do Thái tại Ukraina

Ngay từ trước khi chiếm được lãnh thổ đối phương, Tổng kế hoạch Đông của Đức đã vạch kế hoạch phân chia và Đức hoá các vùng lãnh thổ phía đông: các lãnh thổ được ưu tiên số một để Đức hoá là các khu vực phì nhiêu giàu có của Liên Xô như tỉnh Leningrad, bán đảo Crimea, tỉnh Kherson (cửa sông Dnepr), khu vực Biển Đen, khu vực Memel – Narv (Bắc Belarus và vùng Baltic)... Kế hoạch Đức hoá bao gồm việc đưa những người Đức đến định cư và tiêu diệt, xua đuổi dân bản địa Slav một cách có hệ thống: Cục các lãnh thổ phía đông của SS trực thuộc Heinrich Himmler đã lập kế hoạch xua đuổi và tiêu diệt khoảng 50 triệu dân địa phương trong vòng 30 năm, số còn lại để làm nhân công nô lệ cho 10 triệu người Đức sẽ di cư đến.

Tại Belarus cũng như tại Ba Lan dưới nhiều nguyên nhân, dân số bị chết lên đến tỷ lệ 1/6 đến 1/5 dân số trước chiến tranh là hệ quả trực tiếp của chính sách này.

  • Các vùng lãnh thổ Liên Xô bị chiếm đóng bị đặt dưới sự điều hành của quân đội và lực lượng SS Đức. Chính quyền dân sự các cấp được lấy tên và hình thức như của Đức nhưng có quyền hạn rất hạn chế và chịu sự quản lý của quân đội Đức và SS, toà án dân sự chỉ xử các vụ án dân sự và án hình sự vặt vãnh không liên quan đến an ninh, quân đội như trộm cắp vặt, bất hoà trong cộng đồng... Mọi việc lớn đều do quân quản và SS quyết định: mọi sự phản kháng, bất tuân, trốn tránh mệnh lệnh hoặc thi hành không tích cực của dân địa phương đều sẽ bị bắn bỏ không cần xét xử hoặc treo cổ để làm gương. Chính quyền quân quản Đức đặt ngoài vòng pháp luật các đảng viên cộng sản, đoàn viên Komsomol và các thành viên các tổ chức chính trị của chính quyền Xô Viết trước đây: các phần tử này phải ra trình diện và là đối tượng bị tiêu diệt trước tiên. Trên chiến trường khi bắt được tù binh, các đảng viên cộng sản, cán bộ chính trị, đoàn viên Komsomol sẽ được lọc ra và hành quyết tại chỗ.
  • Nông dân Nga phải giao nộp sản phẩm nông nghiệp cho quân đội Đức tới mức độ họ chẳng còn được gì, mùa vụ của họ không được thu hoạch nếu không có sự cho phép của quân Đức. Để phục vụ nhu cầu của mình Quân đội Đức tịch thu lương thực, đàn gia súc, ngựa kéo, quần áo ấm và nhà của dân địa phương để làm chỗ trú chân. Trong các năm 1943, 1944 khi rút lui quân Đức đốt sạch nhà cửa phá hoại các công trình công cộng của các thành phố xóm làng...Các cuộc cướp bóc tận gốc này gây nên chết đói và chết rét cho hàng triệu người nhất là nông dân ở các vùng bị chiếm. Theo các đánh giá khác nhau số dân thường Xô Viết bị chết vì nguyên nhân này ở mức 7 triệu người.
  • Dân địa phương phải đi làm lao động cưỡng bức những công việc phục vụ quân đội và chính quyền chiếm đóng có khi với 14-16 giờ một ngày trong thời gian rất dài. Ngoài ra để đảm bảo nhân công lao động duy trì chiến tranh Đức bắt hơn 5,2 triệu những người đang độ tuổi lao động chủ yếu là đàn bà, con gái cưỡng bức họ sang Đức và các nước khác để làm nhân công họ được gọi là đội quân lao động phương đông. Sau chiến tranh trong số này hồi hương 2,6 triệu, ở lại Phương Tây 45 vạn còn số còn lại hơn 2 triệu người đều đã chết.
  • Đặc biệt hơn cả là chính sách tàn sát và diệt chủng của Đức Quốc xã đối với dân thường nhất là đối với một số sắc tộc đầu bảng là người Di Gan và người Do Thái quân đội Đức và SS tiến hành lùng bắt và sát hại hàng loạt các nhóm dân này bằng các cuộc tàn sát tại chỗ hoặc đưa họ vào các trại tập trung để tiêu diệt dần. Trong việc tận diệt người Do Thái, người Di Gan ở một số nơi quân Đức nhận được sự giúp đỡ của dân bản xứ địa phương vì lòng căm thù sắc tộc và tôn giáo. Dân thường của các dân tộc khác trong vùng chiếm đóng cũng là đối tượng liên tục bị tàn sát. Việc tiêu diệt con người của phát xít Đức đã đạt đến "quy mô vận hành công nghiệp" với "vận trù học" và hợp lý hoá quá trình giết người để có thể tiêu diệt được nhiều nhất, ít phí tổn và được lợi nhất.
  • Quân đội Đức thi hành chính sách con tin và "lá chắn" đối với dân thường: trong những vùng bị chiếm đóng một binh sĩ Đức bị dân hoặc những người kháng chiến bí mật giết thì sẽ có 10 – 20 dân thường bị hành quyết để trả thù. Một chiến thuật rất thường gặp của Quân Đức để tránh sự tấn công của du kích và Hồng quân là lấy thường dân phụ nữ, trẻ em và tù binh làm lá chắn: các chuyến tàu hoả chở quân Đức thường kéo theo vài toa tù binh hoặc dân thường để làm lá chắn.

Khi Đức tấn công, đã có những dân tộc bất mãn với chính quyền Xô Viết như người Chechen và người Thổ tại Kavkaz, người Tartar ở Crimea, các dân tộc tại Baltic bị Liên Xô xâm lược năm 1940, người Kozak tại Ukraina và vùng sông Đông và các dân tộc chống Xô Viết khác đã vui mừng chào đón quân Đức như những người giải phóng. Người thuộc các nước vùng Baltic đáng tin cậy nhất thì được tham gia các lực lượng Waffen-SS Đức, các dân tộc thiểu số như người Kozak thì tham gia lực lượng Don Cossack (Kozak sông Đông), còn các tù binh người Ukraina và Nga có tinh thần chống Xô Viết thì được biên chế trong Quân đội Giải phóng nước Nga-RNNA do tướng Andrei Vlasov chỉ huy. Sau khi chiến tranh kết thúc, chính quyền Xô Viết đã trục xuất các dân tộc này khỏi lãnh thổ châu Âu của Liên Xô và buộc họ di cư đến vùng Trung Á.

Đối với tù binh Xô Viết cách đối xử cũng là tiêu diệt dần dần một cách có hệ thống, chỉ một bộ phận rất nhỏ tù binh Xô Viết để tìm cách tồn tại đã gia nhập Quân đội giải phóng Nga của trung tướng Xô Viết đã đầu hàng Andrey Andreyevich Vlasov còn những tù binh còn lại bị lao động khổ sai với cường độ huỷ diệt trong các trại tập trung và bị hành quyết thường kỳ. Trong số 5,5 triệu binh sỹ hoặc thường dân Xô Viết bị quân Đức bắt, đã có 3,5 triệu người chết trong các trại tập trung của Đức Quốc xã.

Sự tàn bạo của Đức Quốc xã đối với lãnh thổ bị chiếm đóng đã đẩy người Nga đến chỗ chết nên đó là nguyên nhân để gắn kết họ chống lại chính quyền chiếm đóng. Một số lực lượng trước đây căm thù Xô Viết cũng tạm gác lại mâu thuẫn để đấu tranh chống lại quân Đức. Sự tàn ác của quân Đức đã làm gia tăng phong trào du kích, kháng chiến trong các vùng bị chiếm và là một nguyên nhân tạo tâm lý cho nhiều binh sĩ Hồng quân thà chiến đấu đến cùng chứ quyết không chịu bị bắt làm tù binh.

Chiến cuộc năm 1942

Từ trận phản công tại Moskva đến tháng 4 năm 1942 quân Đội Xô Viết tạm thời giành được quyền chủ động và đã tấn công trên khắp các mặt trận. Quân Đức cần phải phòng ngự chiến lược để chuẩn bị lại một cách kỹ lưỡng cho chiến tranh dài lâu và quân Đức đã phòng ngự thành công để chờ đến mùa hè năm 1942. Các cuộc tấn công của Xô Viết trong thời gian này có đẩy lùi quân Đức nhưng với tổn thất rất lớn và kết quả rất hạn chế: gần như không tạo được đột biến trên mặt trận, Hồng quân chỉ tiến xa một cách tương đối tại hướng Kharkov của phương diện quân tây nam và hướng Rostov tại phương diện quân Nam và Hồng quân cũng không đạt được một trận thắng lớn nào đánh tiêu diệt đối với quân Đức phòng ngự.

Đến tháng 4 năm 1942 chiến tuyến cơ bản ổn định tại tuyến Leningrad – Rzhev – Viazma – Oryol – Kursk – Kharkov – Rostov – Crimea trong đó khúc lồi Rzhev – Viazma chỉ cách Moskva khoảng 150km vẫn luôn là hiểm hoạ tạo bàn đạp cho quân Đức tấn công Moskva lần nữa.

Mùa hạ 1942 là thời điểm để tác chiến thuận lợi, hai bên chuẩn bị cho các trận đánh nhau to sắp tới và Đức Quốc xã cũng đã huy động xong lực lượng để giành lại quyền chủ động tấn công chiến lược.

Kế hoạch tấn công 1942 của Đức

Tuy Kế hoạch Barbarossa bị đổ vỡ hoàn toàn nhưng giới cầm quyền Đức Quốc xã vẫn còn nhiều tiềm năng lớn. Việc các nước đồng minh Anh, Mỹ không mở mặt trận thứ hai theo như thỏa thuận ngày 1 tháng 1 năm 1942 tại Washington đã làm cho quân đội Đức Quốc xã tự do điều động hơn 50 sư đoàn từ nước Đức, từ Pháp, Bỉ, Hà Lan và Đông Âu sang chiến trường Xô-Đức; chỉ để lại ở Tây Âu, Nam Âu, Bắc Phi và nước Đức không quá 20% quân số.[58][59] Đến tháng 5 năm 1942, trên mặt trận Xô-Đức kéo dài từ biển Barents đến biển Đen, quân đội Đức Quốc xã đã khôi phục lại được ưu thế về quân số và phương tiện gồm 217 sư đoàn, 20 lữ đoàn với 6,2 triệu quân. Trong đó có 178 sư đoàn, 8 lữ đoàn và 4 tập đoàn quân không quân người Đức; 81 vạn quân thuộc các nước đồng minh của Đức. Đạo quân khổng lồ này vẫn có 3.230 xe tăng, gần 57.000 khẩu pháo và súng cối, hơn 3.400 máy bay chiến đấu.

Adolf Hitler và bộ chỉ huy tối cao Đức quyết định trước hết cần phải làm Liên Xô suy yếu bằng cách chiếm các vùng quan trọng sống còn về kinh tế và nhân lực. Bộ Tổng tư lệnh quân đội Đức Quốc xã vạch kế hoạch mới để tiếp tục tấn công Liên Xô với mật danh Kế hoạch Xanh, sử dụng 102 sư đoàn tấn công trên vùng thảo nguyên miền Nam Liên Xô, bổ đôi mặt trận Xô Đức, cắt đứt và đánh chiếm các mỏ dầu ở Baku, đánh chiếm vựa lúa mỳ ở hạ lưu sông Volga và vùng Kuban. Đây là nỗ lực chiến lược quân sự của nước Đức Quốc xã với mục tiêu làm cho Nhà nước Xô Viết vừa thất bại về quân sự, vừa suy yếu nghiêm trọng về tiềm lực kinh tế, tiến tới tiêu diệt Liên Xô.[60][61]

Tháng 4 năm 1942, Đại bản doanh của Hitler đã ra bản huấn thị số 41 quy định đòn tấn công chính của quân Đức mùa hè 1942 là nhằm vào mặt trận tây nam Liên Xô. Mục tiêu là vùng sông Đông và Kavkaz - những trung tâm sản xuất lương thực và dầu mỏ quan trọng của Liên Xô. Nếu mục tiêu trên thành công, quân Đức sẽ triển khai lực lượng lên phía bắc đánh vu hồi Moskva, triển khai lực lượng xuống phía nam chiếm toàn vùng Krym. Theo kế hoạch của Đức Quốc xã đòn tấn công sẽ diễn ra tại cánh nam mặt trận Xô – Đức đánh vào hai phương diện quân tây nam và phương diện quân Nam của Xô Viết để thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược:

Diễn biến chiến sự tại khu vực Voronezh - Vorosilovgrad từ tháng 5 đến tháng 7 năm 1942
  • Một mũi đột phá thẳng đến Kavkaz chiếm các đèo ngang và xông đến thành phố Baku trên bờ biển Kaspi chiếm trung tâm dầu mỏ Kavkaz cắt nguồn năng lượng phục vụ chiến tranh của Liên Xô.
  • Một mũi khác tấn công trận tuyến sông Đông Để tiến đến Stalingrad trên sông Volga chiếm vùng đồng bằng sông Đông và vùng phía nam nước nga là nguồn lúa mì chính của đất nước chiếm các nguồn điện và than tại miền nam nước Nga. Tiến đến sông Volga cắt mạch vận tải bắc – nam của Liên Xô theo dòng sông này đây là tuyến vận tải quan trọng để chuyển dầu mỏ từ phía nam và viện trợ của đồng minh cho Liên Xô qua Iran. Sau đó phát triển tiếp theo là chiếm toàn bộ hạ lưu sông Volga. Về mặt quân sự cánh quân này đồng thời còn làm nhiệm vụ bảo vệ sườn trái cho cánh quân Đức đánh Kavkaz.
    Trong quá trình thực hiện kế hoạch chiến cuộc 1942, Bộ chỉ huy Đức có sự chuyển hướng chiến lược lấy Stalingrad làm hướng tấn công chính và điều bớt lực lượng từ hướng Kavkaz về tăng cường, dần dần Stalingrad trở thành trọng tâm chiến sự của chiến tranh trong năm 1942.

Để thực hiện các kế hoạch chiến lược này phía Đức ra lệnh phòng ngự chiến lược tích cực tại tất cả các mặt trận khác tại cánh bắc và trung tâm mặt trận Xô – Đức, dồn lực lượng chủ lực xuống phía nam. Tại cánh nam mặt trận Bộ tư lệnh tối cao Đức cải tổ chỉ huy: bãi bỏ cụm tập đoàn quân Nam từ hồi đầu chiến tranh và thành lập hai cụm tập đoàn quân mới là "cụm tập đoàn quân A" để tấn công chiến dịch Kavkaz bao gồm tập đoàn quân xe tăng số 1, số 4 và hai tập đoàn quân dã chiến của Đức số 11 và 17, tập đoàn quân số 8 của Ý, cụm này do thống chế Wilhelm List chỉ huy. Để thực hiện nhiệm vụ tiến công về phía sông Đông và sông Volga Đức cho thành lập "cụm tập đoàn quân B" gồm tập đoàn quân xe tăng số 4 (cuối tháng 7 được điều từ cụm A sang), hai tập đoàn quân dã chiến số 2 và số 6 của Đức, tập đoàn quân số 2 của Hungary sau này có thêm tập đoàn quân số 3 và 4 của Romania, cụm này do thống chế Fedor Von Bock được điều chuyển từ cụm tập đoàn quân Trung tâm về chỉ huy.

Đến đầu tháng 6 năm 1942 các việc triển khai lực lượng về phía nam của Đức đã cơ bản hoàn thành.

Kế hoạch tấn công miền nam Liên Xô của Bộ tư lệnh tối cao Đức Quốc xã chứa đựng nhiều yếu tố chủ quan và quân Đức đã hành động trái với nguyên tắc tập trung binh lực của nghệ thuật quân sự: quân Đức thực hành tấn công theo hai hướng tách rời nhau rất xa là điều kiện để bị đối phương bao vây tiêu diệt sau này. Các tướng lĩnh Đức đã cảnh báo Hitler nhưng ý kiến này đã không được Führer chấp nhận.

Kế hoạch 1942 của Hồng quân

Đầu tháng 3 sau các thắng lợi tạm thời trong giai đoạn tấn công đầu năm 1942, tại Bộ tổng tư lệnh tối cao Xô Viết đã có sự chủ quan và đánh giá thấp, quá đơn giản về quân đội Đức một đối thủ đầy bản lĩnh, kỷ luật, nguy hiểm cho đến ngày cuối cùng và luôn chứa đựng sự bùng phát không thể ngờ. Trong khi Bộ tổng tham mưu đứng đầu là Tổng tham mưu trưởng Boris Mikhailovich Shaposhnikov cùng phó tổng tư lệnh tối cao G.K Zhukov có quan điểm thận trọng, đề nghị trong mùa hè 1942 chỉ tấn công tại khúc lồi Rzhev – Viazma còn trên toàn mặt trận sẽ phòng ngự chiến lược để tích luỹ lực lượng dự bị còn đang rất thiếu của quân đội Xô Viết. Nhưng Tổng tư lệnh tối cao Stalin muốn tấn công trên toàn mặt trận để đánh bại quân đội Đức ngay trong năm 1942 và ý kiến cuối cùng của Tổng tư lệnh tối cao đã hình thành kế hoạch chiến lược của Hồng quân trong năm này. Đó là tổng tấn công trên toàn tuyến mặt trận tại Crimea, Leningrad, Rzhev, Demiansk, Smolensk, Lgov – Kursk. Đồng thời Bộ tư lệnh tối cao và Bộ Tổng tham mưu đều nhất trí rằng hướng hoạt động chủ đạo của quân Đức trong năm 1942 sẽ vẫn là tại khu vực trung tâm mặt trận trên hướng Moskva. Lãnh đạo quân sự Xô Viết cũng không nhận được tin tức tình báo gì cảnh báo sự tập trung binh lực lớn của Quân đội Đức tại cánh nam chiến trường.

Do đó kế hoạch chiến lược 1942 của Xô Viết được hiện thực hoá bằng hàng loạt các trận tấn công của quân đội Xô Viết cho đến tháng 6 năm 1942 như các chiến dịch Demiansk, chiến dịch Krym-Sevastopol (1941-1942) và chiến dịch Barvenkovo-Lozovaya... Do thiếu sự hiểu biết cần thiết và chủ quan về đối thủ, lại không có lực lượng dự bị cho tham vọng quá lớn, các chiến dịch tấn công đầu hè 1942 của quân đội Xô Viết đều đã thất bại: hoặc thương vong quá lớn mà không đạt được kết quả như tại khúc lồi Rzhev-Viazma và tại Demiansk, hoặc bị quân Đức phản công đánh tan như chiến dịch Crimea và Kharkov. Và do dự đoán sai hướng hoạt động của quân địch nên khi quân Đức tấn công quy mô lớn tại cánh nam chiến trường mùa hè 1942 thì tại đó Hồng quân lại không có lực lượng dự bị để đối phó, kết quả là quân Đức tiến công được rất xa chiếm được vùng lãnh thổ rất rộng lớn.

Đức tấn công tại cánh nam chiến trường

Xem chi tiết Chiến dịch Barvenkovo-Lozovaya, Chiến dịch Krym-Sevastopol (1941-1942), Chiến dịch Voronezh (1942), Chiến dịch Kavkaz, chiến dịch Blau.

Cuộc tấn công mùa hè của Đức được mào đầu bằng hai chiến thắng lớn trước quân đội Xô Viết Chiến dịch Krym-Sevastopol (1941-1942) và chiến dịch Barvenkovo-Lozovaya.

  • Chiến dịch Krym-Sevastopol (1941-1942): ngay từ tháng giêng 1942 Quân đội Xô Viết tại Bán đảo Taman từ phía Kavkaz đổ bộ sang bán đảo Kerch của Crimea ba tập đoàn quân và thành lập phương diện quân Crimea tư lệnh trung tướng D.T. Kozlov để giải cứu thành phố Sevastopol đang bị Đức bao vây. Trong 3 tháng phương diện quân này ba lần tấn công về phía Sevastopol nhưng đều bị chặn lại và phải chuyển sang phòng ngự. Ngày 8 tháng 5 tập đoàn quân 11 Đức tại Crimea của đại tướng Erich von Manstein với lực lượng ít hơn, phát hiện điểm yếu trong phòng ngự của đối phương tại cánh nam giáp biển đã kiên quyết chủ động tấn công và sau 12 ngày đã đánh tan phương diện quân Crimea, buộc Hồng quân phải bỏ Kerch, rút chạy vội vã sang bán đảo Taman. Quân Đức bắt 11 vạn tù binh và toàn bộ vũ khí khí tài của Hồng quân. Trận đánh này đã thể hiện rõ nét tài năng cầm quân của Manstein, một trong những vị chỉ huy giỏi nhất của Đức Quốc xã. Vì thất bại của phương diện quân Crimea, đến 4 tháng 7 năm 1942, Sevastopol đã thất thủ sau gần 1 năm cố thủ.
Hồng quân bị bắt tại chiến dịch Kharkov
  • Chiến dịch Barvenkovo-Lozovaya: là chiến thắng lớn của tập đoàn quân số 6 tư lệnh đại tướng Friedrich Paulus kết hợp cùng tập đoàn quân xe tăng số 1 của Paul Ludwig Ewald von Kleist chống lại phương diện quân tây nam do nguyên soái Liên Xô Semyon Konstantinovich Timoshenko chỉ huy. Ngày 12 tháng 5 năm 1942, không hề biết gì về lực lượng lớn của Đức tập trung tại cánh nam chiến trường, Hồng quân tổ chức chiến dịch lớn Kharkov, phương diện quân tây nam tấn công hai mũi về hướng thành phố Kharkov. Sau 4 đến 5 ngày tấn công Hồng quân đã tiến sâu được 50 – 60km tại mũi tấn công chính. Ngày 17 tháng 5 tập đoàn quân số 6 Đức tấn công mãnh liệt vào sườn phải và cánh quân Kleist đánh vào sườn trái mũi tấn công chính của Hồng quân. Ngày 23 tập đoàn quân số 6 và cánh quân Kleist đã gặp nhau tại khu vực bàn đạp Barvenkovo đã bao vây chặt mũi tấn công chính của Hồng quân, đồng thời tập đoàn quân số 6 Đức cũng bao vây được mũi tấn công thứ hai của đối phương. Ngày 29 tháng 5 toàn bộ lực lượng tấn công của phương diện quân tây nam đã bị tiêu diệt gọn với tổn thất khoảng 20 vạn binh sĩ và vũ khí, khí tài.

Các trận Crimea và Kharkov là các thắng lợi rất lớn đầu tiên của Đức trong năm 1942 mở đầu cho đợt tấn công mùa hè của quân đội Đức.

Chiến dịch Kavkaz

Sau các chiến thắng tại Crimea và Kharkov, quân đội Đức tổ chức tổng tấn công quy mô rất lớn tại phía nam chiến trường. Đầu tiên là chiến dịch Voronezh đầu tháng 7 phá tung trận tuyến sông Đông của Hồng quân sau đó cụm tập đoàn quân B của Đức triển khai tấn công tại trung lưu sông Đông theo hướng đông về phía sông Volga để chiếm Stalingrad và sau đó là trận Stalingrad nổi tiếng.

Thiếu tá A. G. Yeryomenko, Chỉ huy Trung đoàn bộ binh 220, Sư đoàn bộ binh 4 dẫn đầu đội hình phản công của Hồng quân tại thành phố Voroshilovgrad ngày 12 tháng 6 năm 1942

Còn cụm tập đoàn quân A từ 25 tháng 7 lấy bàn đạp là hạ lưu sông Đông từ khu vực Rostov tấn công phương diện quân Nam Xô Viết theo hướng đông – nam và sau đó theo hướng nam tràn vào Bắc Kavkaz và tiến đến dãy núi Kavkaz theo kế hoạch phải chiếm được các đèo ngang để đột phá tới biển Kaspi chiếm Baku và để đánh thông ra bờ biển đen.

Chiến dịch này mang mật danh của Đức là chiến dịch Edelweiss theo ý đồ của Bộ tổng tư lệnh tối cao Đức đây phải là hành động quân sự có tầm quan trọng chiến lược số 1 của chiến cuộc mùa hè năm 1942. Nhưng do sự chỉ đạo chiến lược thiếu nhất quán của Hitler và quan trọng hơn cả quân Đức đã đánh giá sai lực lượng của mình và đối phương nên chiến dịch này trong quá trình thực hiện đã không còn được coi là ưu tiên số 1 của Bộ tổng tư lệnh tối cao Đức, lực lượng của nó được đưa sang hướng chiến trường Stalingrad là hướng phụ trợ nay thành hướng chủ lực. Chiến dịch bế tắc trong tấn công vào các mục tiêu chính và cuối cùng trong năm 1943 khi quân đội Xô Viết phản công quân Đức phải rút lui khỏi Kavkaz mà không đe dọa được gì cho nguồn dầu lửa Kavkaz của Liên Xô và các mục tiêu chính trị của chiến dịch cũng không hoàn thành.

Cuộc tấn công ban đầu của chiến dịch kavkaz của Đức rất thuận lợi. Tại phía nam chiến trường Xô – Đức hoá ra không hề có lực lượng dự bị nào đáng kể của quân đội Xô Viết, và điều đặc biệt địa hình ở đây là các thảo nguyên rộng lớn rất thưa dân của các tỉnh Stavropol và Krasnodar và Kuban rất thuận lợi cho các tập đoàn quân xe tăng số 1 và số 4 của Đức tấn công cơ động. Vào cuối tháng 7 Hitler ra lệnh điều tập đoàn quân xe tăng số 4 sang cụm B để tăng cường tấn công Stalingrad, tuy mất một nửa số xe tăng nhưng tốc độ tấn công của Đức cũng vẫn rất cao: trong vòng một tháng đến cuối tháng 8 quân Đức chiếm một vùng rất rộng lớn dài rộng hàng 500 – 600km. Quân đội Xô Viết tại chiến trường này hoàn toàn không có tuyến phòng thủ nào và Hồng quân cũng không định lập tuyến cố thủ đánh nhau với xe tăng Đức trên thảo nguyên: quân Đức như đi vào chỗ không người, Hồng quân chỉ cố gắng dùng các đơn vị kỵ binh cơ động nhẹ tập kích các cơ cấu hậu cần của Đức để cản tốc độ tấn công của quân Đức và cũng không có đơn vị lớn nào của Xô Viết bị tiêu diệt.

Pháo binh Đức bắn phá các vị trí của quân đội Liên Xô trên dãy Kavkaz

Bộ tổng tư lệnh tối cao Hồng quân đã chọn tuyến cố thủ rất xa về phía nam tại tuyến sông Terech đi qua Chesnia ngày nay, tựa lưng vào dãy núi lớn Kavkaz với các căn cứ điểm tựa chính là Makhachkala, Groznyi và Orzhonikidze. Các đơn vị Xô Viết trật tự kéo về tuyến sông Terech, Hồng quân chốt chặn tất cả các đèo ngang qua dãy núi lớn Kavkaz đón đợi quân Đức. Khi đã chiếm hết vùng thảo nguyên và đồng bằng Bắc Kavkaz, đụng phải tuyến Terech quân Đức đã chững lại và không có cách gì xuyên phá được tuyến phòng thủ của phương diện quân Ngoại Kavkaz Xô Viết của tư lệnh đại tướng Ivan Vladimirovich Tiulenev. Mọi cố gắng của Đức nhằm xuyên phá tới biển Kaspi hoặc đánh thông ra bờ Biển Đen đều thất bại: ở đây xe tăng - thiết giáp vô dụng vì bị kẹt giữa các ngọn núi, quân số đông cũng không có đủ diện tích để triển khai, trong khi kỹ năng của bộ binh sơn cước người bản địa của Xô Viết vượt xa đối phương. Chiến dịch Kavkaz của Đức đã bế tắc, chiến tuyến bình ổn tại tuyến Novorossisk – đông bắc Tuapse – đèo Marukh – Elbrus – Nalchik – Mozdok...

Tháng 1 năm 1943, khi có nguy cơ bị vây chặt tại Kavkaz, quân Đức tại đây đã bắt đầu rút bỏ hầu hết lãnh thổ Kavkaz rút lui về cố thủ bán đảo Taman lập "phòng tuyến xanh" tại đây. Giữa tháng 9 năm 1943 Hồng quân chọc thủng "phòng tuyến xanh" chiếm Novorossisk, quân Đức rút hết về bán đảo Crimea.

Sau này có nhiều ý kiến cho rằng tại Kavkaz quân Đức thất bại vì phải chia bớt lực lượng cho hướng Stalingrad của cụm tập đoàn quân B. Nhưng trên thực tế xe tăng, thiết giáp Đức và quân số chỉ có ý nghĩa khi tấn công trên đồng bằng bắc Kavkaz. Khi tiếp cận dãy núi Kavkaz, những lực lượng này không còn hiệu quả nữa, quân Đức chỉ có thể tấn công bằng bộ binh leo chậm chạp trên những sườn núi hẹp và dốc. Với lợi thế địa hình, quân phòng thủ Xô Viết rất bình tĩnh, tự tin bẻ gãy mọi nỗ lực đột phá của quân Đức. Về thực chất, đánh chiếm Kavkaz là nhiệm vụ quá cao đối với Bộ tổng tư lệnh tối cao của Hitler, kể cả khi Đức tập trung mọi lực lượng vào đây.

Ngay trước và sau khi Đức tấn công Kavkaz, Stalin để đề phòng sự nổi dậy theo quân Đức tại hậu tuyến Xô Viết của một số tộc người thiểu số chống Xô Viết như người Thổ và người Chechens Kavkaz, người Tartar Crimea, nên đã ra lệnh di cư cưỡng bức các tộc người này sang Trung Á, chỉ sau khi Stalin chết họ mới quay về quê hương bản quán. Các vấn đề sắc tộc này luôn gay gắt cho Liên Xô và Nga sau này và cũng là một nguyên nhân gây mâu thuẫn sắc tộc sâu sắc, tạo nên cuộc chiến tranh Nga - Chesnia vào cuối thế kỷ XX.

Trận Stalingrad
Sơ đồ phản công Stalingrad

Từ 22 tháng 6 đến 6 tháng 7 năm 1942 quân Đức mở đầu tấn công lớn tại phía nam chiến trường bằng trận Voronezh: tập đoàn quân xe tăng số 4 của Hermann Hoth đánh tan và đẩy lùi lực lượng của phương diện quân tây nam và phương diện quân Voronezh, chiếm Voronezh. Quân Đức đã đánh thủng được phòng tuyến Sông Đông của quân đội Xô Viết tiến đến bờ sông Đông loại bỏ được mối nguy hiểm bị Hồng quân đánh vào sườn trái từ bàn đạp này.

Bắt đầu từ đầu tháng 7 năm 1942 cụm tập đoàn quân B của Đức với lực lượng chủ lực là tập đoàn quân dã chiến số 6 của đại tướng Paulus phát triển tấn công ào ạt tại vùng trung lưu Sông Đông về phía đông hàng trăm km hướng đến phía sông Volga. Ngày 17 tháng 7 năm 1942 các đơn vị tiên phong của Tập đoàn quân số 6 Đức đã giao chiến với các đơn vị phòng thủ Stalingrad tại tuyến phòng thủ sông Chir và sông Shimla trận đánh lớn nhất trong lịch sử các cuộc chiến bắt đầu. Ban đầu phía Đức chỉ có 13 sư đoàn với 27 vạn quân, đến đỉnh điểm trận đánh Đức đã huy động vào đây 80 sư đoàn với hơn 1 triệu quân, phía Liên Xô cũng điều quân dự bị đến, chiến trường Stalingrad trở thành trọng tâm của mặt trận: có trên 2,3 triệu quân cả hai bên tham chiến vào lúc cao điểm, quy mô vượt cả trận Moskva.

Lại một lần nữa người Nga kêu gọi "Tổ quốc lâm nguy". Một mặt Bộ tổng chỉ huy Xô Viết liên tiếp ném thêm các đơn vị mới thành lập vào chiến đấu để hãm đà tiến công của địch, mặt khác áp dụng mệnh lệnh "Không lùi một bước". Các công tác Đảng và chính trị được thi hành tại chiến hào để nâng cao tinh thần cho binh sĩ và kỷ luật được siết chặt: bất cứ một chiến sĩ, sĩ quan nào tự ý rút lui mà không có mệnh lệnh hoặc văn bản công vụ đều bị bắt giữ hoặc xử bắn ngay tại trận.

Để ngăn chặn tập đoàn quân số 6 của địch đang tiến đến Stalingrad từ phía tây và tây bắc, phía Xô Viết cho thành lập Phương diện quân Stalingrad từ (28 tháng 9 đổi tên thành phương diện quân Sông Đông) gồm 3 tập đoàn quân 21, 62, 63. Để chống lại tập đoàn quân xe tăng số 4 của Đức tấn công từ phía nam và tây nam Hồng quân cho thành lập phương diện quân Đông Nam (từ 28 tháng 9 đổi tên thành phương diện quân Stalingrad) gồm các tập đoàn quân 51, 57, 64. Hai phương diện quân Xô Viết này vừa chống đỡ và lùi dần về phía thành phố ngăn không cho quân Đức ào tới bờ sông Volga.

Trong thời gian từ cuối tháng 7 đến cuối tháng 9, chiến sự đặc biệt ác liệt và đẫm máu cả trên mặt đất và trên không: cả hai bên đã chiến đấu hết sức dũng cảm và quên mình. Quân Đức một mặt theo lệnh của Führer (Lãnh tụ, tức Hitler) phải chiếm bằng được thành phố mang tên Stalin biểu tượng của quân thù, mặt khác họ hiểu được tầm quan trọng phải chiếm thành phố làm chỗ trú chân cho mùa đông đang đến gần. Quân Đức tiến công rất mãnh liệt và dũng cảm. Quân đội Xô Viết cũng tử thủ rất anh hùng và kiên cường vì họ đã được lệnh giữ thành phố bằng mọi giá, bởi mất Stalingrad thì coi như mất toàn bộ miền Nam nước Nga. Cuộc chiến ở đây là đỉnh cao không khoan nhượng, cả hai bên đều không chấp nhận bắt tù binh.

Tù binh Đức và các nước đồng minh phe Trục Quân đội Liên Xô bị bắt trong Trận Stalingrad, 1942

Ngày 23 tháng 8 sau khi tập đoàn quân 6 Đức đột phá được tới bờ sông Volga ở phía bắc thành phố, tình thế của quân phòng thủ tưởng như hết hy vọng. Họ đã bị bao vây tất cả các phía, mà sau lưng là sông lớn Volga nhưng tập đoàn quân 62 và 64 Hồng quân vẫn đứng vững, hơn nữa bắt đầu từ giữa tháng 9 quân Đức đã đi được vào thành phố, quân đội Xô Viết tiếp tục phòng thủ quên mình trong thành phố. Từng ngôi nhà, từng tầng hầm để chiếm được đều phải đánh nhau đẫm máu giành đi giật lại nhiều lần, các bên giành giật từng tấc đất. Đồng thời Liên Xô liên tục tiếp viện cho quân phòng thủ từ phía Volga: các đơn vị liên tiếp được đưa vào chiến đấu, cho dù vượt sông vào thành phố đi liền với thương vong rất lớn. Trong trận đánh phòng thủ Stalingrad, nổi bật nhất là tập đoàn quân 62 – Tư lệnh: Trung tướng Vasily Ivanovich Chuikov của phương diện quân Stalingrad. Đơn vị này đã đứng vững trong thành phố xen kẽ với quân Đức, bảo vệ từng căn phòng, từng góc phố đã bị hoàn toàn phá huỷ. Ngày 15 tháng 10 quân Đức ngay trong thành phố đột phá tới sông Volga tại phía nam nhà máy Baricada, nhưng cũng chính vào lúc này sức mạnh tiến công của tập đoàn quân 6 đã cạn kiệt. Chiến sự đi vào ổn định - quân Đức đã đi quá xa nguồn tiếp tế của mình và việc đánh nhau trong thành phố đã làm quân Đức đã mất hết lợi thế tấn công cơ động và hoả lực.

Việc đánh chiếm thành phố vẫn tiếp tục cho đến 18 tháng 11 năm 1942 nhưng không thành công. Mùa đông khắc nghiệt của nước Nga đã đến, quân Đức đã bị sa lầy - họ không thể chiếm thành phố mà mùa đông đã tới, với lại họ ở quá xa các lực lượng tiếp ứng của mình. Tình hình quân Đức thực sự đã nguy ngập chí ít thì cũng báo hiệu cái gì đó như mùa đông năm 1941.

Trong khi phía Đức đang sa lầy trong việc chiếm thành phố thì Hồng quân đã tập trung một lực lượng lớn sẵn sàng phản công. Kế hoạch tấn công đã được Bộ tổng tư lệnh quân đội Xô Viết soạn thảo kỹ lưỡng có tính đến những kinh nghiệm xương máu trong hơn một năm thất thế của quân đội Xô Viết. Trong việc soạn thảo kế hoạch này có dấu ấn cá nhân rất lớn của Đại tướng Georgi Konstantinovich Zhukov và thượng tướng Aleksandr Mikhailovich Vasilevsky. Và lần này, cũng như mùa đông 1941 trong trận phản công tại Moskva, các lực lượng nòng cốt để phản công lại là các sư đoàn mới tinh, giàu sức sống của các quân khu Siberia và Viễn Đông được điều tới. Ngày 19 tháng 11 năm 1942, quân đội Xô viết tổng phản công bằng hai mũi thọc sâu bằng xe tăng kết hợp cùng bộ binh cơ giới đánh vào hai sườn của tập đoàn quân số 6 của Paulus. Việc lựa chọn điểm đột kích cũng rất hợp lý: đánh vào các vị trí bố phòng của các đơn vị Hungary, Ý và Romania là các đơn vị có sức chiến đấu và tinh thần kém xa so với quân Đức. Chỉ sau 3 đến 4 ngày tiến công, các lực lượng Xô Viết đã gặp nhau tại khu vực Kalach và đã hợp vây hoàn toàn tập đoàn quân này. Có khoảng 330.000 quân Đức của 22 sư đoàn thuộc tập đoàn quân số 6 và một phần tập đoàn quân xe tăng số 4 của Đức đã rơi vào vòng vây siết chặt.

Xác xe tăng Đức bị tiêu diệt trên chiến trường Stalingrad

Đồng thời với vòng vây phía trong, quân đội Xô Viết cũng tiến nhanh về phía tây và tây nam để thành lập luôn vòng vây phía ngoài sẵn sàng đánh quân giải cứu. Adolf Hitler ra lệnh cho tư lệnh cụm tập đoàn quân "Sông Đông" mới thành lập của Thống chế Erich von Manstein, bằng mọi cách giải vây cho tập đoàn quân số 6. Mọi nỗ lực giải vây của Bộ chỉ huy Đức đều thất bại. Các mũi xe tăng Đức gặp phải vòng vây bên ngoài rất rắn chắc và linh hoạt của đối phương và đã không thể gặp được quân bị vây dù chỉ còn cách 40–45km, đồng thời Liên Xô phát động các chiến dịch tấn công tại các mặt trận khác để thu hút lực lượng dự bị của Đức. Phía bên trong vòng vây, tập đoàn quân số 6 của quân Đức đã từ chối tối hậu thư đầu hàng, tuy kháng cự dũng cảm nhưng thiếu tiếp tế, bị cô lập, lại bị đối phương chia cắt thành hai phần không liên lạc được với nhau nên sức yếu dần bị tiêu diệt gần hết. Đến 2 tháng 2 năm 1943 bộ phận còn lại đã đầu hàng. Hơn 20 vạn lính Đức tử trận chỉ trong 1 tháng cuối cùng của trận đánh, Thống chế Paulus và gần 10 vạn lính Đức còn lại bị bắt làm tù binh.

Đây đã là bước ngoặt của chiến tranh: khoảng một triệu quân Đức đã bị mất trong một trận đánh tiêu diệt lớn, các bộ phận còn lại của quân Đức vội vã tháo lui khỏi miền Kavkaz để tránh bị bao vây. Không còn ai còn nghi ngờ vào chiến thắng cuối cùng của Liên Xô nữa.

Sau khi bao vây và tiêu diệt được khối quân Đức tại Stalingrad cuộc tấn công của Hồng quân phát triển thành tổng tấn công trên toàn mặt trận Xô – Đức trong các tháng đông – xuân 1942 – 1943. Lại một lần nữa quyền chủ động tấn công chiến lược lại về tay quân đội Xô Viết.

Năm 1943: Bước ngoặt của chiến tranh

Sau thất bại ở trận Stalingrad và phải rút quân khỏi Chiến dịch Kavkaz, mục tiêu đánh bại Liên Xô của kế hoạch Blau hoàn toàn phá sản. Mặc dù vẫn duy trì ở mặt trận Xô-Đức 204 trong tổng số 298 sư đoàn nhưng chất lượng quân đội Đức Quốc xã không còn như những năm 1941-1942. Thương vong đến hơn 3 triệu quân chỉ trong vòng 1 năm rưỡi đã lấy đi của quân đội này những đơn vị thiện chiến cùng với một số tướng lĩnh dày dạn kinh nghiệm trận mạc như Walther von Reichenau, Carl-Heinrich von Stülpnagel, Eugen Ritter von Schobert, Friedrich Paulus. Chỉ tính riêng từ tháng 1 đến tháng 3 năm 1943, thương vong của phe Đức ở Mặt trận phía đông lên tới 689.260 người, trong khi chỉ bổ sung được 370.700 người. Trước hoàn cảnh đó, quân đội Đức Quốc xã đã phải điều động sang chiến trường Xô- Đức 68 sư đoàn không thuộc thành phần lục quân như không quân dã chiến, quân bảo vệ, quân dự bị và cả quân của các nước đồng minh của Đức như Ý, Tây Ban Nha, Phần Lan, Rumania, Hungary.[62] Trong bản báo cáo ngày 9 tháng 3 năm 1943, Thượng tướng Heintz Guderian, Tổng thanh tra các lực lượng xe tăng Đức đã viết: "Tiếc rằng hiện giờ, chúng ta không còn một sư đoàn nào có đầy đủ sức chiến đấu"..

Bước sang năm 1943, tổng động viên được Đức đẩy mạnh, thậm chí cả những người trên 50 tuổi cũng bị gọi vào quân đội. Vào mùa hè năm 1943, quân số quân đội Đức Quốc xã tại mặt trận phía đông đã là 4,8 triệu quân, chiếm 71% tổng quân số của quân đội Đức Quốc xã. Ngoài ra, quân đội các nước chư hầu của nước Đức Quốc xã cũng có 525.000 quân. Tổng số đơn vị phía Đức trên mặt trận Xô - Đức tháng 6 năm 1943 có 232 sư đoàn, trên 54.000 pháo và súng cối, trên 5.800 xe tăng và pháo tấn công, gần 3.000 máy bay và 277 tàu chiến. Mặc dù đã rút nhiều binh đoàn lớn từ Tây Âu, Đông Âu và ngay trong nước Đức để điều sang mặt trận phía đông nhưng quân đội Đức Quốc xã vẫn không thể nào đạt đến quân số như mùa thu năm 1942 trước thời điểm diễn ra trận Stalingrad.

Đến thời điểm này, so sánh lực lượng đã nghiêng về phía Hồng Quân cả về số lượng lẫn chất lượng:

  • Quân số Hồng Quân không ngừng được tăng cường. Nhờ dân số đông, lãnh thổ lớn, Liên Xô không gặp khó khăn trong việc huy động thanh niên trong độ tuổi nghĩa vụ quân sự. Trong khi đó để duy trì quân số hàng triệu người cho cuộc chiến có tốc độ sát thương quá cao, Đức Quốc xã trong những năm cuối chiến tranh đã phải mở rộng độ tuổi nghĩa vụ quân sự đến 45 tuổi. Và vào cuối chiến tranh, Đức đã không còn đủ nhân lực phải huy động cả thiếu niên đi chiến đấu. Điều này làm cho không những số lượng mà chất lượng binh sĩ của quân Đức trong những năm cuối chiến tranh giảm sút rất trầm trọng.
Máy bay cường kích Il-2 của Liên Xô - sát thủ của các đoàn xe tăng Đức
  • Nền công nghiệp chiến tranh của Xô Viết từ giữa năm 1942 đã ổn định và phát triển rất nhanh và mạnh tại miền đất nước bên kia dãy Ural. Năm 1943, sản lượng vũ khí của Liên Xô đã ngang bằng với Đức và vẫn tiếp tục tăng tốc mạnh mẽ cho tới hết chiến tranh, đã cung cấp cho quân đội số lượng vũ khí ngày càng nhiều với số lượng vượt xa mức vũ trang của quân Đức. Nhiều loại vũ khí mới của Liên Xô so với Đức cũng vượt trội về tính năng chiến đấu như các loại xe tăng hạng trung, hạng nặng T-34, KV (Kirovets), IS-2 (Iosif Stalin), các loại máy bay tiêm kích, cường kích như Yak, La, Il, và các loại pháo binh... Khi đã có số lượng lớn vũ khí để đáp ứng các nhu cầu tác chiến hiện đại quân đội Xô Viết cũng tổ chức thành các tập đoàn quân không quân, tập đoàn quân xe tăng và cơ giới lớn và các tập đoàn quân binh chủng hợp thành.
  • Trình độ tác chiến của sĩ quan, binh lính của Xô Viết đã trưởng thành trên cơ sở kinh nghiệm xương máu của những thất bại và thành công, kết hợp cùng với các tinh hoa quân sự học được của đối phương. Các sĩ quan, tướng lĩnh Hồng quân đã nắm vững các vấn đề cơ bản của chiến tranh hiện đại như chiến dịch không quân tranh đoạt và duy trì quyền làm chủ trên không; tác chiến phối hợp quân, binh chủng không quân – pháo binh – bộ binh – thiết giáp; chiến dịch tấn công chiều sâu; chiến dịch phòng ngự chiều sâu; hậu cần trong các chiến dịch tấn công và phòng ngự...
  • Binh lính Hồng quân đã từng trải qua các giai đoạn khó khăn nhất của thất bại nay chiến đấu ở thế mạnh lại càng tự tin tinh thần chiến đấu, kỷ luật rất cao.

Từ năm 1943 và về sau quân đội Xô Viết đã khác xa về chất so với những năm đầu chiến tranh: Hồng quân có số lượng đông đảo, trang bị hiện đại, trình độ tổ chức hoàn hảo, kỷ luật và tinh thần chiến đấu rất cao. Những thay đổi về chất này đã đảm bảo bước ngoặt cho chiến tranh giành quyền làm chủ chiến trường về phía Hồng quân. Từ năm 1943 đến cuối chiến tranh, quân đội Xô Viết luôn chiến đấu trong thế mạnh áp đảo đối với quân Đức và tiến tới thắng lợi cuối cùng.

Trận Kursk

Xe tăng T-44 (Liên Xô) và xe tăng Panther (Con Báo) của Đức, những đối thủ xứng tầm trong Chiến tranh Xô- Đức

Sau trận Stalingrad và đợt tổng tấn công đông-xuân năm 1942 – 1943 của Xô Viết. Bộ chỉ huy tối cao Đức quyết định mùa hè năm 1943 sẽ tổ chức trận đánh tiêu diệt khối chủ lực lớn của Hồng quân để xoay chuyển tình thế giành lại thế chủ động tấn công chiến lược từ tay quân đội Xô Viết, chiến dịch được mang mật danh "Citadel" (Pháo đài). Phía Đức gửi gắm hi vọng thắng lợi của chiến dịch vào thời tiết mùa hè và các loại vũ khí lần đầu tiên ra trận: xe tăng "Con Báo", "Con Cọp" và pháo tự hành diệt tăng "Ferdinand" (Con Voi) lần đầu tiên được chế tạo với hỏa lực và vỏ giáp vượt trội. Điểm quyết chiến là khu vực trung tâm mặt trận tại vòng cung Kursk vì ở đây hình dạng chiến tuyến mặt trận rất thuận lợi cho một chiến dịch tấn công bao vây: phòng tuyến của quân đội Xô Viết tạo thành một vòng cung lồi ăn sâu về phía quân Đức: có đáy vòng cung là đường nối 3 thành phố Oryol – Kursk – Belgorod. Thành phố Oryol (Орёл) ở phía bắc và Belgorod (Белгород) ở phía nam vòng cung và nằm trong tay quân Đức, còn Kursk (Kypck) là thành phố trung tâm nằm trong lòng hậu phương quân phòng thủ Xô Viết. Quân Đức dự định bằng hai mũi tiến công từ Belgorod và Oryol đánh thẳng đến Kursk cắt khúc lồi vòng cung Kursk, bao vây và tiêu diệt số quân Xô Viết bố trí tại đây.

  • Cánh quân phía bắc là của cụm tập đoàn quân Trung tâm do thống chế Đức Günther von Kluge chỉ huy theo kế hoạch sẽ từ Oryol đánh thẳng xuống phía nam theo phương Oryol – Kursk, chiều sâu đột phá khoảng 100km.
  • Cánh nam từ Belgorod là lực lượng của cụm tập đoàn quân Nam do thống chế Erich von Manstein sẽ đánh lên phía bắc theo phương Belgorod – Kursk chiều sâu đột phá khoảng gần 200km.
Bản đồ diễn biến chiến sự trận Kursk từ 4 tháng 7 đến 1 tháng 8 năm 1943

Các lực lượng quân Đức tại toàn mặt trận là 50 sư đoàn trong đó có 15 sư đoàn xe tăng, tổng cộng khoảng 95 vạn quân, 2.700 xe tăng, 10.000 pháo và súng cối, 2.050 máy bay. Đây là các đơn vị xung kích mạnh nhất của Đức lúc đó tập trung lại. Cánh nam mạnh hơn là mũi tấn công chính có 9 sư đoàn xe tăng thiện chiến và sung sức nhất của Đức trong đó có 3 sư đoàn xe tăng SS – "Đầu lâu chết", "Adolf Hitler" và "Đế chế". Do các khúc mắc trong khâu chuẩn bị nên kế hoạch tiến công đã bị lùi lại khoảng 2 tháng và yếu tố bất ngờ đã không còn. Tình báo Xô Viết đã biết trước về ý định và thời điểm tiến công và quân đội Xô Viết đã tích cực phòng bị.

  • Phía quân đội Xô Viết đối mặt với khối quân cánh bắc của Đức là phương diện quân Trung tâm – tư lệnh: đại tướng Konstantin Konstantinovich Rokossovsky, đại diện đại bản doanh: nguyên soái Georgi Konstantinovich Zhukov).
  • Đối mặt với cánh nam của Đức là phương diện quân Voronezh – tư lệnh: đại tướng Nikolai Fyodorovich Vatutin, đại diện đại bản doanh: nguyên soái Aleksandr Mikhailovich Vasilevsky.
  • trong hậu tuyến phòng ngự có phương diện quân Thảo nguyên của tư lệnh: Thượng tướng Ivan Stepanovich Koniev làm dự bị chiến dịch và để phản công sau này.

Số lượng quân đội Xô Viết phòng ngự tại khu vực vòng cung Kursk lên đến khoảng 1,2 triệu binh sĩ, 20.000 pháo và cối, 3.600 xe tăng và pháo tự hành, 2.370 máy bay. Ngoài ra còn có 700.000 binh sĩ và 2.000 xe tăng làm lực lượng dự bị. Các lực lượng bộ binh, pháo binh và không quân về phía Liên Xô đều vượt trội hơn về số lượng so với phía Đức, tuy nhiên về xe tăng thì quân Đức có nhiều xe tăng hạng nặng hơn.

Quân đội Xô Viết chủ trương chủ động chuyển sang phòng ngự dựa vào trận tuyến phòng thủ chống tăng có chiều sâu nhiều tầng nhiều lớp bẻ gãy và tiêu hao mũi nhọn xe tăng thiết giáp của đối phương sau đó chuyển sang phản công. Để chống lại lực lượng tiến công của Đức phía Liên Xô đã biến vòng cung Kursk thành một trận địa phòng ngự chống tăng vô cùng kiên cố có nhiều tầng lớp có chiều sâu hơn 100km dày đặc các vật cản, mìn chống tăng, hàng rào, mìn chống bộ binh và hệ thống liên hoàn các vị trí pháo chống tăng, bộ binh phòng ngự bố trí theo chiều sâu với nhiều tuyến chiến hào. Ngay phía sau là các tập đoàn quân xe tăng và bộ binh cơ giới làm nhiệm vụ dự bị sẵn sàng cơ động trám lỗ bị quân địch chọc thủng.

Ngày 5 tháng 7 năm 1943 trận đánh bắt đầu: Ngay khi quân Đức còn đang chuẩn bị tấn công, Hồng quân dùng pháo binh cấp tập phủ đầu vào các vị trí bàn đạp tấn công của Đức. Đòn pháo binh phản chuẩn bị này đã rất hiệu quả: quân Đức đã chịu tổn thất rất lớn và phải hoãn tiến công lại nhiều giờ và khi tiến công không còn độ sắc bén vốn có nữa.

Bộ binh cơ giới SS của Đức cùng Xe tăng Tiger tiến về Kursk. Xe tăng Tiger nặng 56 tấn với pháo 88mm có ưu thế hơn xe tăng hạng trung T-34 chỉ nặng 30 tấn và có pháo 76,2mm.

Cuộc tiến công của Đức sau đó đã diễn ra rất vất vả không còn sắc nhọn xuyên phá như vốn có của quân đội Đức trước đây nữa. Trong 1 tuần ở cánh bắc của thống chế Kluge chỉ thâm nhập được vào trận địa địch 15–20km và có chỗ còn bị đối phương phản công đánh bật trở lại. Tại cánh nam quân Đức sắc bén hơn nhưng cũng không tạo nên được đột phá. Sau 1 tuần cũng chỉ tiến sâu được 40–50km. Cuộc chiến diễn ra rất căng thẳng trên mặt đất và trên không.

Ngày 11 tháng 7 hai phương diện quân Tây và Bryansk của quân đội Xô Viết bắt đầu phản công. Đây là các lực lượng phía bắc tiếp giáp với vòng cung Kursk đe doạ đánh vào sườn trái cánh quân Kluge, cánh Bắc của thống chế Kluge đã ngừng tấn công và chuyển sang phòng ngự. Để tạo đột phá cho chiến dịch và giải gánh nặng cho cánh bắc của thống chế Kluge, ngày 12 tháng 7 quân Đức tung toàn lực xe tăng thiết giáp còn lại vào trận tại cánh nam của thống chế Manstein. Xe tăng Đức đã chọc thủng được phòng thủ của phương diện quân của Vatutin và tiến lên phía bắc hướng đến Kursk. Đứng trước tình hình quân Đức chọc thủng phòng tuyến, cùng ngày Bộ chỉ huy Xô Viết quyết định tung quân dự bị là tập đoàn quân xe tăng số 5 của tư lệnh: trung tướng Pavel Alekseyevich Rotmistrov và tập đoàn quân cận vệ số 5 của trung tướng Aleksey Semenovich Dzadov của phương diện quân Thảo nguyên vào chiến đấu để vô hiệu hoá mũi xe tăng đang định thọc sâu của quân Đức.

Các đơn vị xe tăng hai bên lăn xả vào nhau tại làng Prokhorovka trận đánh trở thành trận đấu xe tăng lớn nhất trong lịch sử chiến tranh của nhân loại, trận đấu tăng này có khoảng 1.200 xe tăng và pháo tự hành diệt tăng của hai phía tham gia đánh nhau hỗn loạn. Đến cuối ngày phía Đức thiệt hại hơn 300 xe tăng và phía Liên Xô khoảng 500 xe nhưng quân Đức đã kiệt sức không còn lực lượng dự bị để có thể phát triển tiến công được nữa. Hơn nữa vào lúc này quân Đồng minh Anh – Mỹ đã đổ bộ vào Ý, Hitler buộc phải rút bớt các lực lượng xe tăng sang mặt trận Ý và ra lệnh chấm dứt tấn công tại vòng cung Kursk.

Đến lúc này trận Kursk tuy chưa chấm dứt nhưng phía Đức về cơ bản đã thất bại phải lui về phòng thủ từ bỏ tham vọng giành quyền chủ động tiến công và bao vây tiêu diệt cụm quân Kursk của đối phương. Đến đây bắt đầu giai đoạn phản công của quân đội Xô Viết.

Liên tiếp trong hơn 1 tháng tiếp theo quân đội Đức phải giật gấu vá vai các lực lượng vất vả chống đỡ trước sức tiến công của Hồng quân. Tuy đã bỏ tiến công chuyển sang phòng ngự nhưng quân Đức cũng không đủ lực lượng để chống lại các phương diện quân Xô Viết phản công theo một kế hoạch đã được định trước. Đó là các chiến dịch tấn công mang tên Kutuzov và Rumyantsev với sức mạnh áp đảo đối phương. Lần lượt Belgorod (5 tháng 8), Oryol (5 tháng 8) và cuối cùng 23 tháng 8 quân đội Xô Viết chiếm Kharkov, thành phố lớn thứ 2, cố đô của Ukraina thì chiến dịch tiến công của họ mới dừng lại. Chấm dứt giai đoạn phản công và cả trận chiến vòng cung Kursk.

Từ nay trở đi quyền chủ động chiến lược đã nằm chắc trong tay quân đội Xô Viết, cho đến cuối chiến tranh chỉ có phía Xô Viết tấn công chiến lược còn Đức quốc Xã bị động chống đỡ cho tới ngày bị đánh bại hoàn toàn.

Trận đánh sông Dnepr

Xem chi tiết: Trận đánh sông Dnepr, chiến tranh đường ray

Cuối tháng 8 năm 1943, ngay sau trận Kursk, Hồng quân triển khai chiến dịch tấn công chiến lược tại cánh nam chiến trường Xô – Đức nhằm giải phóng Ukraina đó là trận đánh sông Dnepr.

Trận sông Dnepr tháng 8 – tháng 12 năm 1943

Về phía Đức, sau thất bại tại Kursk quân đội Đức suy yếu toàn diện, để tránh cho khối liên minh phát xít khỏi tan rã, Hitler ra lệnh bằng mọi giá giữ vững những vùng đất còn lại, trong đó Ukraina là ưu tiên số một. Tại đây quân Đức củng cố tuyến phòng thủ được gọi là "bức tường phía đông" dựa vào đoạn trung lưu và hạ lưu sông Dnepr. Tuyến phòng thủ Dnepr của quân Đức có chiều dài trên 1.400km từ Navlia ở phía bắc đến Taganrog ở phía nam. Bảo vệ "bức tường phía đông" là lực lượng Đức gồm tập đoàn quân số 2 thuộc cụm tập đoàn quân Trung tâm của thống chế Kluge; và các tập đoàn quân xe tăng số 1, số 4, các tập đoàn quân bộ binh số 6 và số 8 của cụm tập đoàn quân Nam của thống chế Manstein. Tổng cộng quân Đức trong trận sông Dnepr có 62 sư đoàn trong đó 14 sư đoàn xe tăng và cơ giới: khoảng hơn 1,2 triệu quân, 13.000 pháo và súng cối, 2.100 xe tăng và pháo tự hành, 2.100 máy bay.

Để chọc thủng tuyến phòng thủ sông Dnepr của Đức, phía Liên Xô huy động lực lượng tới 2,6 triệu quân, hơn 51.200 pháo và súng cối, 2.500 xe tăng và gần 3.000 máy bay của 5 phương diện quân:

  • Phương diện quân Trung tâm của đại tướng Rokossovsky tấn công theo hướng Chernigov – Gomel – Narovlia.
  • Phương diện quân Voronezh của đại tướng Vatutin tấn công theo hướng Kiev.
  • Phương diện quân Thảo nguyên của đại tướng Koniev tấn công theo hướng Poltava – Kremenchug
  • Phương diện quân tây nam của đại tướng Malinovsky theo hướng Dnepropetrovsk.
  • Phương diện quân Nam của thượng tướng Tolbukhin theo hướng Melitopol – Crimea.

Với ưu thế áp đảo về mọi mặt, cuối tháng 8 năm 1943, cả năm phương diện quân Xô Viết tấn công đồng loạt trên diện rộng từ Navlia đến Taganrog trên một mặt trận dài 1.400km. Tuy quân Đức chống cự rất ác liệt nhưng không đủ lực lượng để có thể cản nổi cuộc tấn công. Bộ tổng chỉ huy Đức ngày 15 tháng 9 năm 1943 phải ra lệnh rút toàn bộ lực lượng sang bờ phải sông Dnepr dựa vào "bức tường phía đông" để cố giữ phần đất Ukraina bên bờ phải con sông cùng phần đất sát Biển Đen và bán đảo Crimea, lấy con sông lớn Dnepr làm tuyến phòng thủ.

Trận đánh sông Dnepr bước vào giai đoạn ác liệt nhất. Để không cho đối phương có thời gian kịp củng cố, Hồng quân ào ạt vượt sông trong hành tiến trên toàn mặt trận dài hơn 700km: các đơn vị phát huy tất cả các phương tiện vượt sông có thể. Đến cuối tháng 9 Hồng quân đã chiếm hàng chục điểm bàn đạp trên bờ phải sông Dnepr. Trong tháng 9, tháng 10 năm 1943 là các trận đánh đẫm máu nhằm thủ tiêu và mở rộng bàn đạp trên sông Dnepr: quân Đức tập trung mọi lực lượng cố gắng đẩy quân đội Xô Viết xuống sông. Các trận đánh giành giật các bàn đạp rất ác liệt, phía Hồng quân tuy với thương vong rất nặng nề vẫn giữ và bành trướng được bàn đạp bên phía bờ phải con sông.

Đến đầu tháng 11, khi đã tích luỹ đủ lực lượng trên các bàn đạp tấn công bên bờ phải, phương diện quân Ukraina 1 (trước đây là phương diện quân Voronezh) của đại tướng Vatutin bắt đầu tấn công đánh chiếm Kiev, thủ đô Ukraina (xem chiến dịch tấn công Kiev, 1943). Ngày 6 tháng 11 năm 1943, Hồng quân chiếm Kiev và phát triển tấn công về phía Zhitomir. Nhưng ngay sau đó, từ 8 tháng 11 và đến tận cuối tháng 12 năm 1943, quân Đức tăng cường các đơn vị xe tăng từ các mặt trận khác cho tập đoàn quân xe tăng số 4 và phản công mạnh mẽ vào sườn phía nam của phương diện quân Vatutin và định tấn công chiếm lại Kiev. Phương diện quân Vatutin phải chuyển sang phòng ngự và lui về phòng thủ Kiev, phía Liên Xô tăng cường quân dự bị và cuối cùng đã chặn đứng cuộc phản công của tập đoàn quân xe tăng số 4 của Đức.

Đến cuối tháng 12 năm 1943, trận đánh sông Dnepr đã kết thúc. Hồng quân đã giải phóng hoàn toàn lãnh thổ phía bờ trái, đã đứng vững chân chiếm một vùng rộng vài trăm km, sâu hơn 100km bên bờ phải sông Dnepr trong đó có Kiev thủ đô Ukraina, đã cắt rời và cô lập lực lượng Đức tại Crimea. Đây là lần đầu tiên một chiến dịch tổng tấn công chiến lược rất lớn vào mùa hè của Xô Viết đã thắng lợi. Với thắng lợi của trận sông Dnepr thì việc quân Đức mất toàn bộ Ukraina và Crimea vào tay Xô Viết chỉ còn là vấn đề thời gian ngắn.

Năm 1944: mặt trận phía đông của Đức sụp đổ

Cho đến đầu tháng 1 năm 1944, quân Đức vẫn còn chiếm đóng các vùng lãnh thổ Liên Xô là ba nước cộng hoà Baltic, phần lớn lãnh thổ Belarus, Ukraina, Moldavia, Crimea, Karelia, và các tỉnh Kalinin, Leningrad. Quân số của phía Đức trên chiến trường phía đông còn khoảng hơn 5 triệu quân gồm 198 sư đoàn Đức và các lực lượng của đồng minh Ý, Hungary, Romania, Phần Lan, trang bị gần 55.000 đại bác và súng cối, 5.400 xe tăng và pháo tự hành, hơn 3.000 máy bay. Mặc dù đây vẫn là một lực lượng rất hùng hậu nhưng so sánh lực lượng trên chiến trường đã xấu đi nghiêm trọng cho phía Đức. Các thất bại của Đức trên chiến trường làm trầm trọng thêm tình hình chính trị tại bản thân nước Đức Quốc xã cũng như tại các nước đồng minh của Đức. Mặc dù với những nỗ lực rất to lớn, sản xuất quốc phòng của Đức tiếp tục tăng trưởng cho đến tận tháng 7 năm 1944, nhưng toàn bộ nền kinh tế đã sa vào những khó khăn không thể giải quyết nổi. Đặc biệt Đức gặp khó khăn rất lớn với vấn đề nhân lực: chỉ riêng trong thời gian từ tháng 6 năm 1943 đến tháng 1 năm 1944, phía Đức đã mất hơn 1,2 triệu binh lính và sĩ quan có kinh nghiệm chiến đấu, đến đầu tháng 1 năm 1944, tổng động viên của Đức chỉ thay thế được cho dưới 3/4 con số này nhưng với chất lượng chiến đấu kém xa.

Phía quân đội Xô Viết, cho đến tháng 1 năm 1944, có quân số lên tới 6.425.000 người, 83.600 đại bác và súng cối, 10.200 máy bay chiến đấu, 5.300 xe tăng và pháo tự hành. Chưa kể đến các đơn vị Ba Lan, Tiệp Khắc, Rumani, Nam Tư, Pháp có khoảng 100.000 người tham gia chiến đấu trên lãnh thổ Liên Xô. Ưu thế của Hồng quân càng ngày càng áp đảo và Liên Xô hoàn toàn có thể một mình đánh thắng được liên minh phát xít của Đức Quốc xã trên chiến trường châu Âu.

Phương diện quân Ukraina 1 vượt sông Dniepr

Từ tháng 12 năm 1943 đến tháng 6 năm 1944, chiến trường chính vẫn là cánh Nam mặt trận. Nối tiếp trận đánh sông Dnepr, quân đội Xô Viết phát động một loạt chiến dịch tấn công bên bờ phải sông Dnepr đó là các chiến dịch Zhitomir-Berdichev, chiến dịch Kirovograd, Korsun-shevchenkovsky, Rovno-Lutsk, Nikopolsko-Krivoi rog, Proskurov-Chernovsi, Uman-Botoshani, Bereznegovatoe-Snigirevka, Polesie và chiến dịch tấn công Odessa. Các chiến dịch tấn công này diễn ra trên mặt trận rộng 1.300 đến 1.400km và đều thắng lợi ở các mức độ khác nhau, đã đánh tan các lực lượng đối kháng của Đức và đồng minh tại cánh Nam chiến trường. Tiềm lực quân sự của nước Đức Quốc xã đã bị tiêu hao rất lớn trong các chiến dịch này, không chỉ ở số lượng tài sản quân sự bị phá hủy mà một loạt các nhà máy công nghiệp ở Ukraina còn lại trong tay quân Đức cũng bị Quân đội Liên Xô chiếm lại, đặc biệt là khu công nghiệp Krivoy Rog - Nikolayev. Hồng quân đã giải phóng hầu hết Ukraina, đã đến được chân dãy núi Karpat và thâm nhập vào România, đe dọa đánh chiếm nguồn cung ứng dầu mỏ cực kỳ quan trọng của Đức Quốc xã tại România.

Tại các khu vực khác của chiến trường Xô – Đức chiến dịch Leningrad-Novgorod đã giải phóng hoàn toàn tỉnh Leningrad và một phần tỉnh Kalinin, trong mùa xuân năm 1944, toàn bộ bán đảo Crimea đã về tay quân đội Xô Viết.

Tính chung từ ngày 1 tháng 6 năm 1943 đến ngày 1 tháng 6 năm 1944, tổn thất của lực lượng vũ trang của Đức ở mặt trận Liên Xô lên tới 3.705.500 quân[63] Đến giữa năm 1944, tổng quân số chính quy của Đức ở mặt trận Liên Xô đã sụt xuống dưới mức 4 triệu. Chất lượng của quân Đức cũng sụt giảm nghiêm trọng: số binh lính và sỹ quan có nhiều kinh nghiệm chiến đấu đã tổn thất gần hết, quân Đức lúc này chủ yếu là tân binh chưa có nhiều kinh nghiệm chiến đấu.

Ngày 6 tháng 6 năm 1944, liên quân đồng minh chống phát xít Hoa Kỳ – Anh – Pháp tự do – Canada đã tiến hành chiến dịch đổ bộ lớn nhất trong lịch sử nhân loại vào Normandie miền Bắc nước Pháp để mở mặt trận thứ hai. Tình hình của nước Đức Quốc xã đã xấu lại càng xấu hơn: từ nay quân đội Đức bị kẹp giữa hai mặt trận, không còn có thể tự do điều lực lượng dự bị từ phía tây sang phía đông như trong các năm trước đây nữa và quân số Đức không thể đủ để căng ra trên hai mặt trận. Nước Đức đứng trước triển vọng bại trận mau chóng.

Chiến dịch Bagration

Ngày 22 tháng 6 năm 1944 Quân đội Xô Viết mở đầu đợt tấn công mùa hè bằng chiến dịch Bagration đây là chiến dịch đã giải phóng hoàn toàn Belarus, một phần lớn đất đai ba nước cộng hoà Baltic, đông bắc Ba Lan và tiến đến tận Đông Phổ. Chiến dịch này được coi là chiến thắng lớn nhất của Hồng quân trong chiến tranh đã tiêu diệt gần hết khối quân mạnh nhất của Đức là cụm tập đoàn quân Trung tâm.

Cụm Tập đoàn quân Trung tâm dưới quyền thống chế Ernst Busch từ 28 tháng 6, 1944 là thống chế Walther Model gồm tập đoàn quân xe tăng số 3, các tập đoàn quân dã chiến số 2, số 4 và số 9, tổng cộng 34 sư đoàn, gồm hơn 1 triệu quân (tính cả tăng viện), tuy rất mạnh và phòng thủ trên khu vực phòng ngự kiên cố được chuẩn bị từ lâu năm với các lợi thế phòng thủ đáng kể, nhưng từ khi cụm tập đoàn quân Nam của Đức thua trận lùi sâu về phía tây sau các chiến dịch tấn công của Liên Xô kể từ trận đánh sông Dnepr sườn phía nam của cụm Trung tâm đã không còn được che chắn và hình thế chiếm đóng của cụm quân này trở nên bất lợi.

Để chống lại hệ thống phòng ngự của cụm tập đoàn quân Trung tâm, phía Liên Xô huy động 4 phương diện quân bố trí từ Bắc xuống Nam là:

  • Phương diện quân Pribaltic 1 của đại tướng I.K. Bagramian
  • Phương diện quân Byelorussia 3 của đại tướng I.V. Chernyakhovsky
  • Phương diện quân Byelorussia 2 của thượng tướng G.F. Zakharov
  • Phương diện quân Byelorussia 1 của đại tướng K.K. Rokossovsky

Tổng cộng lực lượng Xô Viết là 1 tập đoàn quân xe tăng, 6 quân đoàn xe tăng độc lập, 3 quân đoàn cơ giới, 20 tập đoàn quân, tổng cộng 166 sư đoàn với 2,4 triệu quân và các lực lượng xe tăng, pháo binh và không quân đều áp đảo quân Đức. Trái với dự tính của Bộ chỉ huy tối cao Đức sẽ chờ cuộc tấn công lớn của Xô Viết tại phía nam chiến trường tại Ukraina hoặc Moldavia, cuộc tấn công chiến lược của Liên Xô đã diễn ra tại trung tâm mặt trận là Belarus.

Trong 12 ngày từ 22 tháng 6 đến 4 tháng 7 năm 1944, các phương diện quân Xô Viết chia thành 6 mũi đồng loạt tấn công bao vây các khối quân Đức tại ngoại vi tuyến phòng thủ tại Moghilev, Vitebsk và đặc biệt tại "cái túi" Bobruisk. Quân Đức liên tiếp rơi vào các vòng vây và mau chóng bị tiêu diệt. Sau đó Hồng quân phát triển tấn công cơ động bằng hai mũi xe tăng thiết giáp mạnh từ phương diện quân Belorussia 1 của Rokossovsky và phương diện quân Belorussia 3 của Chernyakhovsky, các tập đoàn quân xe tăng Xô Viết đã hợp vây tại Minsk. Ngày 3 tháng 7 thủ đô Minsk của Belarus thất thủ, các lực lượng của cụm tập đoàn quân Trung tâm của Đức rơi vào vòng vây rất lớn tại phía đông thành phố Minsk. Đến 11 tháng 7 năm 1944 khối quân Đức bị bao vây tại đây đã bị tiêu diệt, hơn 10 vạn quân Đức bị bắt.

Quân đội Liên Xô giải phóng Plotsk, ngày 1 tháng 7 năm 1944

Trong tháng 7 và tháng 8, Hồng quân phát triển tấn công trên diện rộng truy đuổi các đơn vị Đức đã bị đánh tan và đang rút chạy, các nỗ lực của Bộ chỉ huy Đức đem quân trám lỗ hổng phòng ngự rộng đến 400km đều bị đánh bại. Hồng quân giải phóng phần lớn lãnh thổ các nước cộng hoà Baltic, toàn bộ lãnh thổ Belarus và tiến sâu vào Ba Lan cho đến tuyến sông Wisla và tiếp cận với lãnh thổ Đức tại Đông Phổ. Quân đội Xô Viết đã vào cửa ngõ đất Đức.

Khi Hồng quân chỉ còn cách thủ đô Warszawa của Ba Lan một con sông Wisla, ngày 1 tháng 8 năm 1944, chính phủ kháng chiến Ba Lan đang lưu vong tại Luân Đôn vốn mâu thuẫn sâu sắc với Liên Xô, đã tổ chức khởi nghĩa tại thủ đô Warszawa sau lưng quân Đức. Chính phủ này dự tính rằng khi Hồng quân tiến vào thủ đô Ba Lan thì tại đó đã có chủ, đặt Liên Xô trước thực tế phải công nhận chính phủ này; còn nếu khởi nghĩa có nguy cơ thất bại, họ sẽ kêu goi Liên Xô giúp đỡ và như vậy cũng được khối Đồng Minh coi như là góp công chống Đức.

Quả nhiên, quân khởi nghĩa tại thủ đô Warszawa nhanh chóng bị quân Đức đè bẹp. Nhưng trái với dự tính của những người khởi nghĩa, quân đội Xô Viết dừng tấn công tại hướng Warszawa và không vượt sông Wisla để tiếp ứng quân Liên Xô đã tiến quá xa lực lượng hậu cần, không còn đủ sức đánh vượt sông. Cuộc khởi nghĩa đã bị quân Đức đàn áp cực kỳ khốc liệt, ngoài hàng vạn số quân khởi nghĩa bị chết, bị thương, bị bắt, quân SS thẳng tay tàn sát người Ba Lan giết hại 25 vạn dân và san bằng thủ đô Warszawa.

Cuộc tấn công của Hồng quân phát triển đến 29 tháng 8 năm 1944 và chỉ dừng lại để chờ lực lượng hậu cần tiến theo kịp. Quân đội Xô Viết đã tiến sâu được 500 – 600km với diện rộng 1.100km, đã tiêu diệt hoàn toàn 17 sư đoàn và 3 lữ đoàn Đức, gây tổn thất trên 50% quân số cho 50 sư đoàn Đức khác. Cuộc tấn công này của Hồng quân đã tạo điều kiện để triển khai tiếp các đòn tấn công liên hoàn tại phía nam và phía bắc chiến trường Xô – Đức và đến cuối năm 1944 đã giải phóng hoàn toàn lãnh thổ Xô Viết và bắt đầu quá trình giải phóng Đông Âu.

Liên Xô giải phóng toàn bộ lãnh thổ Đông Âu

Quân đội Liên Xô chiến đấu trên đường phố Lvov, 1944

Với thất bại rất to lớn ngay từ những ngày đầu tiên của chiến dịch Bagration, mặt trận của Đức tại lãnh thổ Xô Viết đã hoàn toàn mất độ vững chắc ổn định. Nhân đà thắng lợi tại Belarus khi các lực lượng Đức bị hút về chiến trường này, ngay trong khi trận Belarus đang diễn ra, phía Xô Viết phát động liên tiếp các đòn tấn công chiến lược nữa tại cánh nam và cánh bắc chiến trường Xô – Đức, đã giải phóng hoàn toàn lãnh thổ Xô Viết, loại các đồng minh của Đức ra khỏi chiến tranh, và mở rộng đường tiến vào Đông Âu đó là các chiến dịch Lvov-Sandomierz, Iaşi-Chişinău tại phía nam chiến trường, chiến dịch Baltic tại vùng ba nước cộng hoà Baltic, chiến dịch Viborg-Petrozavodsk và Petsamo-kirken tại dải đất Karelia.

  • Chiến dịch Lvov–Sandomierz từ 13 tháng 7 đến 29 tháng 8 năm 1944, phương diện quân Ukraina 1 của nguyên soái Xô Viết I.V. Konev với lực lượng 2 tập đoàn quân xe tăng, 7 tập đoàn quân bộ binh (tổng cộng: 1.200.000 lính, 1.979 xe tăng, 11.265 khẩu pháo) đã đánh tan cụm tập đoàn quân Bắc Ukraina của đại tướng Đức Josef Harpe với 900.000 quân, 800 xe tăng, 6.300 đại bác và súng cối.
    Sau các trận đánh rất ác liệt, Hồng quân chọc thủng tuyến phòng thủ Đức tại Ternopol và phát triển tấn công bao vây, tiêu diệt 8 sư đoàn Đức tại Broda. Cụm tập đoàn quân Bắc Ukraina của Đức bị đánh tan, bị tách thành hai mảnh và bị giải tán: một bộ phận rút lui về phía Ba Lan vượt sông Wisla và phần thứ hai chạy sâu về phía Karpat vào lãnh thổ România. Phương diện quân Konev tách một bộ phận thành phương diện quân Ukraina 4 giao cho đại tướng I.E. Petrov truy kích theo hướng Karpat, còn phương diện quân Ukraina 1 tiếp tục tấn công vào Ba Lan về phía sông Wisla và đã vượt sông tạo bàn đạp trên bờ tây tại hướng Sandomierz. Quân Đức tại mặt trận Wisla tăng cường quân dự bị, phản công mãnh liệt để thủ tiêu bàn đạp quyết hất Hồng quân xuống sông. Sau các trận đánh rất dữ dội phương diện quân của Konev vẫn giữ và mở rộng được bàn đạp Sandomierz. Cuối tháng 8, chiến sự đi đến lắng dịu và ngày 29 tháng 8, 1944 thì chiến dịch chấm dứt.
Quân đội Liên Xô giải phóng Bucarest (România)

Chiến dịch Lvov – Sandomierz đã giải phóng hoàn toàn phần đất Ukraina còn lại trong tay Đức Quốc xã đuổi xa đối phương vào Romania và Ba Lan, đã chiếm đông nam Ba Lan và Hồng quân đã đứng vững chân trên bờ Tây con sông Wisla.

  • Chiến dịch Iaşi-Chişinău từ 20 đến 29 tháng 8 năm 1944: là chiến dịch thắng lợi rất to lớn của Hồng quân với hiệu suất chiến đấu rất cao chỉ trong 9 ngày hai phương diện quân Ukraina 2 của đại tướng Malinovsky và Ukraina 3 của đại tướng Tolbukhin tổng cộng 1.341.200 lính, 1.874 xe tăng và pháo đã tiêu diệt cụm tập đoàn quân Nam Ukraina của liên quân Đức – Romania dưới quyền chỉ huy của đại tướng Johannes Friesner có 47 sư đoàn, 5 lữ đoàn với tổng cộng 500.000 lính Đức, 405.000 quân Romania, 170 xe tăng. Trong 9 ngày, Hồng quân đã tiêu diệt 25 vạn quân địch và bắt gần 30 vạn tù binh, giải phóng hoàn toàn Moldavia, quân đội Xô Viết ào ạt kéo vào Romania làm tan rã 35 vạn quân còn lại của nước này, phát động cách mạng thân Xô Viết, đã loại Romania ra khỏi khối Trục và quay lại tuyên chiến chống Đức.
    Chiến dịch này đã giải phóng toàn bộ lãnh thổ Liên Xô tại cánh nam chiến trường Xô – Đức và mở rộng đường cho quân đội Xô viết tiến vào Balkan và Hungary. Để giành được thắng lợi lớn này, Hồng quân chỉ tổn thất 67.000 người. Đây là một trong những trận đánh mà số thương vong của quân Đức cao gấp nhiều lần của đối phương.

Ngoài tổn thất về người và vũ khí, nước Đức Quốc xã bị giáng một đòn nặng về chiến lược bởi chiến dịch này. Ngày 12 tháng 9 năm 1944, đại diện cho các nước Đồng Minh, chính phủ Liên Xô đã ký hiệp định đình chiến với Romania, theo đó Romania phải cắt đứt quan hệ đồng minh với Đức và chấm dứt cung cấp dầu mỏ cho Đức. Việc này khiến nguồn dầu mỏ cung cấp cho nước Đức Quốc xã bị sụt giảm 1/2, kéo theo đó là sản xuất vũ khí của Đức cũng sụt theo. Giờ đây, quân đội Đức Quốc xã chỉ còn có thể trong cậy vào nguồn dầu mỏ trên khu vực biên giới Áo - Hungary với sản lượng xấp xỉ khu vực Ploieşti, trong khi các nguồn cung khác đều bị đồng minh phong tỏa.

  • Chiến dịch Baltic từ 14 tháng 9 đến 24 tháng 11, 1944: Là chiến dịch giải phóng phần đất cuối cùng của Liên Xô. Trong chiến dịch này các phương diện quân Baltic 1 của đại tướng I.K. Bagramyan, Baltic 2 của đại tướng A.I. Yeryomenko, Baltic 3 của đại tướng I.I. Maslennikov cùng phương diện quân Leningrad của nguyên soái L.A. Govorov với lực lượng 90 vạn quân, 17.500 khẩu pháo, 3.080 xe tăng, 2.640 máy bay với sức mạnh áp đảo tổng tấn công cụm tập đoàn quân Bắc của Đức vốn đã bị nén chặt về phía biển Baltic sau chiến dịch Belarus. Lực lượng Đức của cụm tập đoàn quân Bắc tại chiến dịch này gồm 73 vạn quân, 7000 đại bác và súng cối, 1.200 xe tăng và pháo tự hành phòng thủ trên địa bàn thuận lợi đã được chuẩn bị từ lâu.
    Quân đội Xô Viết tấn công trên diện rộng theo hướng Bắc Nam định hất cụm tập đoàn quân Bắc của Đức xuống biển. Hồng quân đã cắt rời cụm tập đoàn quân Bắc khỏi Đông Phổ. Dưới áp lực tấn công quá lớn của Hồng quân lại không còn đất để lùi, cụm quân Đức phải bỏ hết đất đai lui về cố thủ mũi đất Courland tại phía bắc Latvia. Tại đây mật độ phòng thủ của Đức đã trở nên đậm đặc và cụm này đã bị cô lập hoàn toàn không còn ý nghĩa chiến lược gì nữa nên quân đội Xô Viết để tiết kiệm binh lực đã dừng tấn công và giam chặt khối quân này tại Courland cho đến hết chiến tranh.

Các chiến dịch Belarus, Lvov – Sandomierz, Iaşi – Chişinău và Baltic diễn ra trong nửa cuối năm 1944 cùng với các tấn công tại dải đất Karelia đã giải phóng hoàn toàn lãnh thổ Liên Xô (chỉ còn lại mũi đất Courland tại bắc Latvia). Hồng quân đã mở đường vào bắc Na Uy, Hungary, Áo và Tiệp Khắc và loại khỏi vòng chiến các đồng minh của Đức Quốc xã là Phần Lan và România và Bulgaria. Khối đồng minh phát xít sụp đổ.

Năm 1945: Đức Quốc xã thua trận

Năm 1945, Đế chế thứ ba bước vào cơn hấp hối thật sự. Tại phía Tây, quân Anh-Mỹ đã đổ bộ lên châu Âu và đẩy lùi quân Đức ra khỏi Pháp. Tại phía Đông, tình hình còn xấu hơn nhiều. Riêng trong năm 1944, gần 3 triệu quân Đức đã tử trận hoặc bị Liên Xô bắt làm tù binh, chưa kể tổn thất của các lực lượng đồng minh của Đức như Phần Lan, Romania, Hungary... Các đồng minh của Đức như Phần Lan, Hungary, Romania đã bị đánh bại và phải ký hòa ước với Liên Xô, thậm chí quay sang chống lại Đức. Quân Đức bị đánh bật khỏi mọi vùng lãnh thổ ở Đông Âu và Hồng quân đã áp sát biên giới Đức.

Đến đầu năm 1945, quân đội Đức vẫn còn hơn 4 triệu người, song tỷ lệ khá lớn là tân binh thiếu kinh nghiệm chiến đấu, vũ khí hạng nặng (xe tăng, máy bay) ngày càng thiếu hụt. Nền kinh tế và công nghiệp chiến tranh Đức sụp đổ: nhân dân thiếu lương thực trầm trọng, các mục tiêu kinh tế, quốc phòng của Đức bị không quân Đồng minh Anh – Mỹ – Liên Xô tàn phá rất nặng nề không còn cơ hội khôi phục, các nhà máy xí nghiệp Đức do kết quả của tổng động viên đã thiếu trầm trọng các nguồn nhân công có trình độ. Các nỗ lực chiến tranh quá tải trong nhiều năm bây giờ đã phát tác không còn có thể khắc phục nổi nữa. Khi các đồng minh của Đức tan rã và đất đai rơi vào tay đối phương thì các nguồn nguyên liệu cũng không còn, kinh tế và sản xuất quốc phòng của Đức thụt giảm thê thảm. Đặc biệt sau khi Romania ký hòa ước với Liên Xô thì nguồn dầu mỏ duy nhất nuôi sống quân đội và kinh tế Đức đã bị cắt hoàn toàn. Thiếu vũ khí, thiếu nhiên liệu thì dù quân đội Đức nổi tiếng có kỷ luật, kiên cường cũng không thể kháng cự có hiệu quả.

Xe tăng IS-2 của quân đội Liên Xô tham chiến ở khu vực Tây Nam Budapest

Sau vụ mưu sát Hitler 20 tháng 7 năm 1944 hàng ngũ sĩ quan tướng lĩnh cao cấp Đức bị xáo trộn lớn, một bộ phận rất lớn tướng lĩnh Đức tuy không bị truy tố nhưng bị nghi kỵ không được tin dùng. Hitler nghi ngờ quân đội và chỉ tin tưởng lực lượng SS, thậm chí Hitler bổ nhiệm thủ lĩnh SS Reichsführer-SS Heinrich Himmler làm tư lệnh cụm tập đoàn quân Wisla – giờ đây là lực lượng chủ chốt phòng thủ đế chế – mặc dù nhân vật này chưa từng có chút ít kiến thức hay kinh nghiệm gì để đánh trận. Mâu thuẫn giữa SS và quân đội Đức ngày càng trầm trọng. Quân đội Đức trong năm cuối chiến tranh có chất lượng suy sụp trầm trọng, quân số phần nhiều là các lực lượng mới động viên, bao gồm cả người già và thiếu niên từ các tổ chức bán quân sự, huấn luyện sơ sài lại thêm tinh thần chiến đấu xuống thấp, tâm lý chán chường, trong quân đội ai cũng hiểu đế chế đã thua trận. Tuy với những khó khăn khổng lồ như vậy với sự vô vọng của chiến tranh, sự kháng cự dữ dội trên chiến trường phía đông đến giờ phút cuối cùng của chiến tranh cho thấy tính chuyên nghiệp, lòng trung thành và kỷ luật rất cao của quân đội và người dân Đức.

Ngay bản thân lãnh tụ Hitler trong tình hình khốn quẫn đã mất hết sự sáng suốt của nhà lãnh đạo quốc gia và người cầm quân. Führer cành ngày càng sa vào các cơn kích động thần kinh và các mệnh lệnh chiến đấu càng ngày càng giống với cơn mê sảng: cho đến ngày cuối cùng của Đế chế, các mệnh lệnh tấn công, phản công mang tính "không tưởng" của Führer vẫn liên tiếp được đưa ra mà không cần biết có khả thi hay không.

Tại mặt trận phía tây, mất Ý, Pháp, Bỉ và với sự thất bại trong các nỗ lực tấn công tuyệt vọng như tại chiến dịch Ardennes quân Đức đã bị nén chặt giữa hai gọng kìm. Mặc dù có mệnh lệnh của Hitler đứng vững tại mọi mảnh đất chống lại mọi kẻ thù, nhưng các tướng lĩnh Đức thấy rõ kết cục đầu hàng không thể tránh khỏi nên có xu hướng kiên quyết tử thủ tại mặt trận phía đông kìm hãm đến mức tối đa tốc độ tiến quân của quân đội Xô Viết, trong khi đó thả lỏng mặt trận phía tây (vào tháng 2 năm 1945, 8 sư đoàn Panzer với tổng cộng 271 chiếc Panther được chuyển từ mặt trận phía Tây về mặt trận phía Đông, Đức chỉ còn để lại 5 tiểu đoàn Panther độc lập để chặn quân Anh-Mỹ.) Đến các tháng 3 tháng 4 năm 1945 thì không còn là xu hướng nữa: quân Đức mở cửa mặt trận phía tây muốn liên quân Anh – Mỹ – Pháp tiến vào đất Đức càng nhanh càng tốt, trong khi đó chiến sự tại mặt trận phía đông diễn ra cực kỳ ác liệt đến ngày cuối cùng. Thậm chí sau khi đã chính thức đầu hàng, quân Đức tại mặt trận phía đông tiếp tục chiến đấu dữ dội, cố gắng chọc thủng vòng vây Xô Viết để chạy sang đầu hàng phía đồng minh Anh – Mỹ – Pháp.

Chiến dịch Wisla – Oder

Tập đoàn quân xe tăng 3 (Liên Xô) chuẩn bị bước vào chiến dịch Wisla-Oder

Sau Chiến dịch Bagration mặt trận phía đông hướng Warszawa – Berlin im ắng đến hơn 4 tháng, từ đầu tháng 9 đến hết tháng 12 năm 1944 cả hai bên không có hành động quân sự tích cực nào. Thời gian tạm nghỉ đã cho phép quân Đức củng cố lại những lỗ thủng phòng ngự và điều quân dự bị tấn công tại mặt trận phía tây (xem chiến dịch Ardennes) và điều quân phản công tại các trận đánh tại Hungary (xem chiến dịch Budapest). Trong thời gian này quân đội Xô Viết đã thi hành một khối lượng công việc khổng lồ để đảm bảo hậu cần cho chiến dịch tấn công to lớn và liên tục sắp tới để mau chóng đánh bại Đức Quốc xã. Các phương diện quân Xô Viết được cung cấp đạn dược đủ để tiến hành 4 đến 5 chiến dịch thông thường cho phép Hồng quân tấn công liên tục trên diện rộng cho đến hết chiến tranh.

Từ ngày 12 tháng 1 đến 3 tháng 2 năm 1945 Hồng quân tổ chức chiến dịch Wisla-Oder đây là chiến dịch đánh tan các lực lượng Đức trên hướng phòng thủ Warszawa – Berlin, giải phóng gần hết Ba Lan và đặt sự tồn tại của đế chế III chỉ còn tính từng tuần.

Tấn công chiến dịch Wisla – Oder là hai phương diện quân chủ đạo của Liên Xô:

  • Tại cánh bắc, Phương diện quân Belorussia 1 tư lệnh nguyên soái G.K. Zhukov gồm: tập đoàn quân xe tăng cận vệ số 1 và số 2; các quân đoàn xe tăng độc lập số 9 và 11; tập đoàn quân không quân số 16; các tập đoàn quân xung kích số 47, 61, 3 và số 5; tập đoàn quân cận vệ số 8; các tập đoàn quân số 69 và 33; tập đoàn quân Ba Lan số 1 và 2; 2 quân đoàn kỵ binh cận vệ số 2 và 7;
  • Cánh nam Phương diện quân Ukraina 1 của nguyên soái I.S. Konev: tập đoàn quân xe tăng cận vệ số 3; tập đoàn quân xe tăng số 4; quân đoàn xe tăng độc lập số 31; tập đoàn quân không quân số 2; tập đoàn quân cận vệ số 3 và 5; các tập đoàn quân số 6, 13, 52, 60, 21, 59; quân đoàn cơ giới cận vệ số 7; quân đoàn kỵ binh số 1.

Tổng cộng hai phương diện quân Zhukov và Konev có 2,2 triệu quân; 33,5 nghìn đại bác và súng cối; 7.000 xe tăng và pháo tự hành; 5.000 máy bay với ưu thế về quân số và vũ khí gấp 4 đến 5 lần đối phương.

Lực lượng Đức phòng thủ tại hướng này là cụm tập đoàn quân A của Đức – tư lệnh đại tướng Josef Harpe (từ 17 tháng 1, 1945 là đại tướng Ferdinand Schörner) đó là các đơn vị: tập đoàn quân xe tăng số 4, tập đoàn quân dã chiến số 9 và 17. Tổng cộng lực lượng Đức có 450.000 quân, 5.000 đại bác và súng cối, 1.220 xe tăng và pháo tự hành, 630 máy bay. Khu vực phòng thủ của Đức được gia cố có 7 giải phòng ngự với chiều sâu từ 300 đến 500km, ngoài ra các thành phố trong khu vực này đều đã được biến thành pháo đài trung tâm phòng ngự rất chắc chắn. Các sông trên hướng Warszawa – Berlin hầu hết chạy theo hướng nam – bắc và đã được quân Đức tận dụng biến thành các tuyến phòng thủ liên hoàn.

Ngày 12 tháng 1 năm 1945, phương diện quân Ukraina 1 của I.S. Konev từ bàn đạp Sandomir trên sông Wisla kết hợp với cánh phải của phương diện quân Belorussia 4 phát triển tấn công về phía tây và đây là chiến dịch Sandomir-Silesia phát triển tấn công theo hướng chung nhắm đến Breslau.

Ngày 14 tháng 1 Phương diện quân Belorussia 1 kết hợp với cánh trái của phương diện quân Belorussia 2 tấn công từ 2 bàn đạp Pulava và Magnushev đây là chiến dịch Warszawa-Poznan hướng tấn công nhắm vào phía Poznan.

Cho đến ngày 17 tháng 1 hai phương diện quân Xô Viết của Konev và Zhukov đã đè bẹp phòng thủ của các lực lượng chính của cụm tập đoàn quân A của Đức trên diện rộng gần 500km và đột phá sâu 100–160km. Quân đội Xô Viết đã giải phóng Warszawa, Radom, Chenstokhov, Radomsko, và hơn 2.400 thành phố và điểm dân cư của Ba Lan. Các lực lượng Đức được huy động từ Đức sang đã không thể vá lại lỗ thủng phòng ngự. Quân đội Xô Viết tấn công ào ạt với tốc độ trung bình 30–40km một ngày đêm. Ngày 19 tháng 1, các đơn vị tiên phong của phương diện quân Konev là tập đoàn quân xe tăng cận vệ số 3, tập đoàn quân cận vệ số 5 và tập đoàn quân 52 trong khi truy đuổi quân Đức đã tiến sâu vào đất Đức và cánh trái Konev đã giải phóng thành phố Kraków. Từ Ngày 20 đến 25 tháng 1, phương diện quân Zhukov đã đập tan tuyến phòng thủ sông Varta và tuyến Poznan, bao vây và tiêu diệt khối quân Poznan gồm 6 vạn quân Đức.

Từ ngày 22 tháng 1 đến 3 tháng 2 quân đội Xô Viết đã hoàn thành các mục tiêu của chiến dịch đã tiến đến sông Oder vượt sông và lập các bàn đạp trên bờ tây tại các khu vực Shteinau, Breslau, Oppelna và Kiustrin. Cùng thời gian này phương diện quân Ukraina 4 giải phóng toàn bộ miền nam Ba Lan và miền Bắc Tiệp Khắc đến thượng nguồn con sông Wisla.

Trên hướng Nam Berlin, Quân đội Liên Xô tiến về giải phóng thành phố Vien (Áo)

Vì hình thế của mặt trận đến lúc này tại hướng Berlin đã tạo thành một mũi nhọn ăn sâu về phía lãnh thổ Đức và tại hai sườn bắc và nam của Hồng quân là các khối quân Đức còn rất mạnh tại Pomerania, Đông Phổ và Silesia rất có thể sẽ phản công mạnh vào sườn hai phương diện quân Zhukov và Konev nên Bộ chỉ huy tối cao Xô Viết vào ngày 3 tháng 2, 1945 đã chủ động chấm dứt chiến dịch và chuyển trọng tâm tấn công tiếp theo sang nhiệm vụ đánh tiêu diệt các khối quân Đức tại Pomerania, Đông Phổ và Silesia, đó là các chiến dịch Đông Pomerania, chiến dịch Đông Phổ, chiến dịch hạ Silesia và chiến dịch thượng Silesia diến ra từ tháng 2 đến tháng 4 năm 1945, sau các chiến dịch này quân đội Đức về cơ bản đã trắng tay.

Chiến dịch Wisla – Oder cũng là một thắng lợi rất to lớn của quân đội Xô Viết vào giai đoạn cuối của chiến tranh, đã tiêu diệt 77.000 quân Đức; làm bị thương 334.000 và 192.000 quân mất tích. Phía Nga có hơn 43.000 quân chết và 150.000 bị thương. Hồng quân đã chiếm được đại bộ phận lãnh thổ Ba Lan, đã tạo điều kiện rất thuận lợi cho quân đội đồng minh trên mặt trận phía tây và là tiền đề để tiến hành các chiến dịch Pomerania và Silesia tiếp theo. Đặc biệt chiến dịch này đã đưa Hồng quân vào trung tâm nước Đức chỉ còn cách thủ đô Berlin của Hitler chỉ khoảng 60km đường chim bay từ các bàn đạp này Hồng quân sẽ tiến hành chiến dịch Berlin chiếm thủ đô Đức bắt Đức Quốc xã đầu hàng.

Chiến dịch Berlin, nước Đức đầu hàng

Các sĩ quan quân đội Đức Quốc xã huấn luyện cho các đội dân binh tự vệ (Volkssturm) ở Berlin sử dụng súng chống tăng, tháng 2 năm 1945

Sau các chiến dịch Đông Pomerania của hai phương diện quân Xô Viết Belorussia 1 và Belorussia 2 và chiến dịch Silesia của hai phương diện quân Ukraina 1 và Ukraina 4 các khối quân lực Đức tại hai sườn bắc và nam của hai phương diện quân Zhukov và Konev đã bị đánh tan không còn khả năng phản công vào sườn quân đội Xô Viết trên hướng Berlin nữa. Hồng quân đã hội đủ điều kiện cho trận đánh cuối cùng dứt điểm Đế chế Đức thứ ba của Hitler.

Đây là thời điểm rất nhiều tế nhị chính trị: càng gần thắng lợi cuối cùng thì sự nghi kỵ giữa Liên Xô và các đồng minh tư bản chủ nghĩa Anh, Mỹ càng tăng lên. Mặc dù đã có sự thỏa thuận giữa lãnh đạo ba cường quốc đồng minh về khu vực chiếm đóng của từng bên sau chiến tranh nhưng quân đội Anh – Mỹ cũng không từ bỏ cám dỗ chiếm Berlin nếu có thể vì đánh chiếm thủ đô Đức gắn liền với uy tín và vai trò của quốc gia trong việc đánh thắng chủ nghĩa phát xít. Stalin ra lệnh cho các nguyên soái G.K. Zhukov và I.S. Konev phải chạy đua với đồng minh, nhanh chóng chiếm Berlin và chiếm lĩnh lãnh thổ Đức càng nhiều càng tốt để phục vụ cho các mục tiêu chính trị hậu chiến.

Đối mặt với quân Liên Xô lúc này có 133 sư đoàn Đức trong khi lực lượng Đồng Minh phải chiến đấu với 114 sư đoàn Đức ở mặt trận phía Tây và mặt trận Ý[64]. Luftwaffe (Không quân Đức Quốc xã) có trên 5.500 chiến đấu cơ trong đó 1.700 chiếc đang chiến đấu ở phía đông chống Liên Xô.[65]

Tại hướng Berlin lực lượng Đức là hai cụm tập đoàn quân:

  • Tại phía bắc: cụm tập đoàn quân Wisla của tư lệnh đại tướng Gotthard Heinrici đây là lực lượng chính bảo vệ Berlin. Khu vực bố phòng của cụm quân này kéo dài từ bờ biển Baltic bao phủ toàn bộ lãnh thổ Berlin trên khu vực hướng sông Oder đối diện với phương diện quân Belorussia 1 và Belorussia 2 của Zhukov và Rokosovsky. Lực lượng của cụm Wisla gồm tập đoàn quân xe tăng số 3 ở phía bắc Berlin đối diện với bàn đạp Stettin của phương diện quân Rokosovsky và tập đoàn quân dã chiến số 9 đối diện với bàn đạp Küstrin của Zhukov.
  • Tại cánh nam là cụm tập đoàn quân Trung tâm của tư lệnh thống chế Ferdinand Schörner trên hướng sông Neisse đối chọi lại phương diện quân Ukraina 1 của nguyên soái Konev. Cụm Trung tâm gồm tập đoàn quân xe tăng số 4, tập đoàn quân dã chiến số 17.

Tổng cộng quân Đức của hai cụm quân Heinrici và Schörner có 48 sư đoàn bộ binh, 6 sư đoàn xe tăng và 9 sư đoàn cơ giới cùng rất nhiều các đơn vị độc lập khác, tổng cộng có gần 900.000 quân; 10.400 đại bác và súng cối; 1.500 xe tăng và pháo tự hành; 3.300 máy bay chiến đấu. Tại phía sau hai cụm quân này Đức chỉ còn 8 sư đoàn làm lực lượng dự bị chiến đấu cuối cùng.

Hệ thống phòng thủ của Đức gồm tuyến Oder – Neisse có chiều sâu từ 20 đến 40km gồm 3 tuyến chiến hào. Tiếp đến là khu vực phòng thủ thủ đô gồm 3 tuyến phòng thủ vòng ngoài, vòng trong và vành đai bao của thành phố. Trong nội đô chia thành 9 khu phòng thủ trong đó khu trung tâm có các cơ quan chính phủ được biến thành pháo đài cực mạnh do những lực lượng SS trung thành nhất bảo vệ. Vũ khí được phát cho người dân Đức và các lực lượng thanh niên Hitler và dân quân tự vệ bán vũ trang Volkssturm. Chỉ tính riêng trong nội đô Berlin đã có hơn 200 tiểu đoàn quân đội, SS và lực lượng bán vũ trang Đức với số quân trên 20 vạn người. Hệ thống tàu điện ngầm được sử dụng cho việc cơ động bí mật các lực lượng và biến thành các cứ điểm kháng cự.

Bao vây các khối quân phòng thủ Berlin
Pháo binh của các Phương diện quân Belorussia 1 và Ukraina 1 pháo kích Berlin

Phía Xô Viết để tấn công dứt điểm Berlin huy động 2,5 triệu quân; 41.600 súng cối và đại bác; 3.255 dàn pháo binh phản lực Kachiusa; 6.250 xe tăng và pháo tự hành; 7.500 máy bay. Từ phía bắc xuống phía nam quân đội Xô Viết bố trí 3 phương diện quân để tham gia chiến dịch:

  • Phương diện quân Byelorussia 2 của nguyên soái K.K. Rokossovsky gồm: tập đoàn quân xung kích số 2, các tập đoàn quân số 19, 49, 65, 70; tập đoàn quân không quân số 4; ba quân đoàn xe tăng cận vệ số 1, 3, 8; quân đoàn cơ giới cận vệ số 8. Phương diện quân này có nhiệm vụ tấn công từ bàn đạp Stettin 150km đông bắc Berlin trên sông Oder dùng cánh trái của mình bảo vệ sườn và phối hợp với phương diện quân Zhukov tấn công trên hướng Oder. Nhưng nhiệm vụ chính là đè bẹp tập đoàn quân xe tăng số 3 của Đức không cho ứng cứu Berlin từ phía bắc, phát triển thật nhanh về phía tây và tây bắc tại cánh bắc Berlin chạy đua với tập đoàn quân số 2 của Anh và tập đoàn quân số 9 của Mỹ đang từ phía tây tiến lại, chiếm càng nhiều lãnh thổ Đức về phía tây càng tốt.
  • Phương diện quân Byelorussia 1 của nguyên soái G.K. Zhukov là lực lượng chủ công đánh chiếm Berlin lực lượng gồm: các tập đoàn quân xe tăng cận vệ số 1, 2; các tập đoàn quân không quân số 16, 18; tập đoàn quân cận vệ số 8; các tập đoàn quân xung kích số 3, 5; các tập đoàn quân số 3, 33, 47, 61, 69; tập đoàn quân Ba Lan số 1; các quân đoàn xe tăng số 9, 11; các quân đoàn kỵ binh cận vệ số 2, 7. Nhiệm vụ của Phương diện quân này là từ bàn đạp Küstrin 100km phía chính đông Berlin tấn công bao vây, tiêu diệt tập đoàn quân số 9 và tập đoàn quân xe tăng số 4 của Đức, bao vây Berlin và đánh chiếm thành phố.
  • Phương diện quân Ukraina 1 của nguyên soái I.S. Konev gồm tập đoàn quân xe tăng cận vệ số 3, 4; tập đoàn quân không quân số 2; các tập đoàn quân cận vệ số 3, 5; các tập đoàn quân số 13, 28, 52; tập đoàn quân Ba Lan số 2; quân đoàn xe tăng cận vệ số 4 và 25; quân đoàn cơ giới cận vệ số 7; quân đoàn kỵ binh cận vệ số 1. Nhiệm vụ của phương diện quân này là bảo vệ sườn nam cho phương diện quân Zhukov, đè bẹp phòng ngự của cụm tập đoàn quân Trung tâm đưa lực lượng cơ động tiến nhanh mạnh về phía tây tại cánh nam Berlin chạy đua với tập đoàn quân số 1 và số 3 của Mỹ chiếm càng nhiều đất Đức càng tốt.
Quân đội Liên Xô tấn công cụm cứ điểm Seelow ở ngoại ô phía đông Berlin

Trong đêm rạng ngày 16 tháng 4 năm 1945 Hồng quân tổng tấn công chiến dịch Berlin:

  • Tại hướng chính diện từ bàn đạp Kiustrin phương diện quân Belorussia 1 của nguyên soái Zhukov tấn công dãy cứ điểm của tập đoàn quân số 9 Đức tại điểm cao Seelow án ngữ bờ tây sông Oder. Quân Đức từ trước đã tháo cống trên sông Oder gây ngập lụt các vùng đất thấp bắt buộc phương diện quân Zhukov phải tấn công chính diện cao điểm Seelow đã được gia cố rất vững chắc. Để tăng hiệu quả tác động tâm lý trong tấn công đêm Hồng quân bố trí 150 dàn đèn pha phòng không chiếu thẳng vào mắt quân phòng thủ Đức nhưng xem ra đạt hiệu quả không đáng kể. Quân Đức phòng thủ điểm cao Seelow rất rắn chắc dưới sự chỉ huy rất kinh nghiệm và bản lĩnh của tư lệnh Heinrici, Hồng quân thương vong rất lớn nhưng không thể xuyên phá tuyến phòng thủ Đức theo đúng kế hoạch và có nguy cơ bế tắc. Để hâm nóng sự cạnh tranh giữa hai nguyên soái Xô Viết đầu bảng Zhukov và Konev, Stalin nói với Zhukov rằng sẽ điều quân của Konev ngược lên phía bắc chiếm Berlin nếu phương diện quân Belorussia 1 không thể vượt qua được Seelow. Zhukov dốc hết toàn lực kể cả các lực lượng xe tăng để tấn công thọc sâu dự định dùng sau này... Và kết quả với sức mạnh rất to lớn đã dần đánh chiếm các tuyến chiến hào Seelow. Sau 3 ngày cận chiến rất quyết liệt, rất đẫm máu, đến 19 tháng 4 tuyến phòng thủ cuối cùng tại Seelow đã bị đè bẹp, từ đó đến Berlin là khoảng rộng chiến dịch, quân Đức không còn dự bị, không còn lực lượng nào có thể cản nổi phương diện quân của Zhukov.
  • Tại cánh nam, cuộc tấn công của phương diện quân Konev đã diến ra thuận lợi theo đúng kế hoạch. Cụm tập đoàn quân Trung tâm Đức của thống chế Ferdinand Schörner đã phối hợp không tốt: tập đoàn quân xe tăng số 4 của cụm quân này đã không hoàn thành nhiệm vụ che sườn phía nam cho tập đoàn quân số 9 (Đức) của cụm Wisla đang phòng thủ hiệu quả tại Seelow. Phương diện quân Konev nhanh chóng đè bẹp phòng ngự Đức trên sông Neisse và xuyên phá vào tuyến ngăn cách giữa tập đoàn quân xe tăng số 4 và tập đoàn quân 9 của Đức, ào ạt tiến về phía tây. Chính sự đột phá mãnh liệt của phương diện quân Ukraina 1 đã làm rối loạn tuyến phòng thủ Đức và tạo điều kiện cho phương diện quân Zhukov đè bẹp nốt sự kháng cự của Đức tại Seelow.
    Nguyên soái Konev theo chỉ đạo của Stalin quay mũi đoàn xe tăng lên phía bắc đánh tập hậu để bao vây Berlin và mũi xe tăng này đã tiến vào Potsdam tây nam Berlin 45km vào ngày 21 tháng 4. Để chống lại phương diện quân Konev đang tập hậu Berlin từ phía nam, Hitler ra lệnh cho tập đoàn quân 12 Đức đang đối mặt quân Mỹ ở phía tây trên tuyến sông Elbe quay về phía đông kết hợp với tập đoàn quân 9 định đánh vào 2 sườn cánh quân xe tăng của Konev, nhưng những lực lượng đã rệu rã này chỉ như muối bỏ biển, không thể làm nên chuyện gì lớn trước đối phương quá mạnh.
  • Tại cánh bắc phương diện quân Xô Viết Belorussia 2 của nguyên soái Rokossovsky liên tiếp vượt sông đông Oder và tây Oder triển khai tấn công mãnh liệt, các trận đánh của phương diện quân này đã hoàn toàn trói chân và đánh tan tập đoàn quân xe tăng số 3 Đức của cụm Wisla định tấn công giải cứu Berlin từ phía bắc. Phương diện quân này đồng thời ào ạt tiến về phía tây và tây bắc để gặp quân Anh – Mỹ.

Sau khi vượt qua Seelow, tận dụng các thắng lợi của phương diện quân Ukraina 1 tại cánh nam, phương diện quân Belorussia 1 của Zhukov ào ạt tiến sâu về phía Berlin trên hướng chính diện phía đông. Ngày 24 tháng 4 năm 1945 mũi tấn công của tập đoàn quân xe tăng cận vệ số 1 và tập đoàn quân cận vệ số 8 của Zhukov đã gặp tập đoàn quân xe tăng số 3 và tập đoàn quân số 28 của Konev tại phía đông Berlin và đã hoàn thành việc bao vây khối quân Đức của tập đoàn quân 9 và tập đàn quân xe tăng số 4 phòng thủ phía đông và đông nam Berlin. Ngày hôm sau hai phương diện quân Xô Viết của Zhukov và Konev lại hợp vây tại phía tây Berlin và hoàn thành việc bao vây toàn bộ khối quân Đức tại Berlin, số phận đế chế thứ ba chỉ còn tính từng ngày.
Đồng thời Hồng quân chạy đua với thời gian phát triển mạnh về phía tây chiếm tối đa đất Đức. Ngày 26 tháng 4 năm 1945 các đơn vị tiên phong của tập đoàn quân cận vệ số 5 của phương diện quân Konev đã gặp tập đoàn quân số 1 của Mỹ tại Torgau trên sông Elbe.

Berlin đã trong vòng vây dày đặc. Quân đội Xô Viết bắt đầu giai đoạn cuối cùng là đè bẹp các ổ kháng cự cuối cùng của Đức trong các trận đánh đường phố trong thủ đô Đức.

Berlin thất thủ
Trận đánh chiếm tòa nhà Quốc hội (Đức) từ 28 đến 30/4/1945

Hơn 10 ngày cuối cùng từ 26 tháng 4 đến 9 tháng 5, Hồng quân tấn công các ổ kháng cự tại nội đô Berlin. Với việc thành phố đã bị vây bọc hoàn toàn không nguồn tiếp tế thì Berlin không thể cầm cự được lâu dài. Việc đánh chiếm Berlin được phương diện quân Belorussia 1 tiến hành đồng thời với việc tiêu diệt khối quân Đức bị vây bên ngoài tại phía đông và đông nam thành phố, đến ngày 1 tháng 5 năm 1945 khối quân này gồm tập đoàn quân số 9, tập đoàn quân xe tăng số 4 về cơ bản đã bị tiêu diệt.

Việc đánh chiếm nội đô Berlin diễn ra phức tạp hơn nhiều, quân Đức chống cự một cách tuyệt vọng đến cùng. Hai bên đánh nhau giành giật từng khu phố từng ngôi nhà. Loại súng chống tăng không giật vác vai Panzerfaust của Đức được phát rộng rãi xuống cho dân quân và các lực lượng bán vũ trang đã phát huy tác dụng rất tốt: trong các trận đánh đường phố, hơn 2.000 xe tăng và cơ giới các loại của Liên Xô đã bị phá hủy chỉ tính riêng trong nội đô Berlin.

Để trục xuất các nhóm lính Đức cố thủ trong các ngôi nhà, Hồng quân tách nhỏ các đơn vị xe tăng và pháo binh, đưa xuống cho các đơn vị bộ binh xung kích để hỗ trợ hỏa lực đánh nhau trong phố: đại bác, xe tăng Xô Viết nã thẳng trái phá vào các tòa nhà, các căn phòng để trục quân Đức ra khỏi các chỗ ẩn náu. Quân đội Xô Viết đã có kinh nghiệm đánh nhau trong phố: Hồng quân trước tiên đánh tiêu diệt các kho tàng đạn dược của đối phương, sau đó đánh chia nhỏ các khu vực kháng cự, cô lập và tiêu diệt dứt điểm từng khu. Quân Đức dù chống cự rất quyết liệt đến cùng, nhưng khi hết đạn thì hoặc phải tự sát hoặc đầu hàng. Hơn nữa lính Đức cố thủ trong thành phố đã không còn vũ khí nặng, không thể đấu lại được với xe tăng, máy bay và đại bác bắn thẳng của Hồng quân. Lính Đức, SS và Volkssturm dần dần bị đẩy khỏi các khối nhà và đến ngày 29 tháng 4 toàn bộ lực lượng Đức còn lại chủ yếu là các đơn vị SS trung thành nhất tập trung dày đặc tại khu vực Nhà quốc hội Đức (Reichstag) và văn phòng đế chế (Reichschancellery).

Ngày 29 tháng 4 đã diễn ra trận đánh cuối cùng chiếm khu nhà quốc hội Đức: sau các đợt bắn phá dữ dội bằng pháo binh và không quân các đơn vị Xô Viết xung phong cận chiến đánh chiếm Reichstag, chiến sự cực kỳ ác liệt và không khoan nhượng, hai bên giành giật từng căn phòng, từng đoạn cầu thang, từng tầng lầu. Đến ngày 30 tháng 4, hầu hết lính Đức và SS tại đây đều đã chết. Hai người lính trinh sát Xô Viết của trung đoàn 756, sư đoàn bộ binh 150 thuộc tập đoàn quân xung kích số 3, phương diện quân Belorussia 1: trung sĩ Mikhail Alekseyvich Egorov người Nga và hạ sĩ Meliton Varlamovich Kantarya người Gruzia đại diện cho các dân tộc Xô Viết chiến thắng đã cắm quốc kỳ Liên Xô lên mái vòm Reichchtag.

Chiến sĩ Hồng quân Meliton Kantaria cắm lá cờ Xô Viết trên nóc tòa nhà Quốc hội Đức, ngày 30/4/1945

Cùng ngày để không rơi vào tay quân đội Liên Xô, Führer Adolf Hitler cưới Eva Braun và sau đó cả hai đã tự sát. Trong di chúc Hitler trao quyền tổng thống đế chế (Reichspräsident) cho đô đốc Karl Dönitz và thủ tướng đế chế (Reichskanzler) cho Bộ trưởng tuyên truyền tiến sĩ Joseph Goebbels. Reichskanzler mới Joseph Goebbels liền cử ngay đại tướng Hans Krebs Tổng tham mưu trưởng – có thời từng là tùy viên quân sự Đức tại Moskva đi gặp đối phương đề nghị đàm phán. Tư lệnh Xô Viết G.K. Zhukov cho phía Đức hơn 1 giờ để quyết định đầu hàng không điều kiện. Sau khi hết thời hạn, chiến sự lại tiếp tục bùng phát ác liệt như cũ. Ngày 1 tháng 5 năm 1945, ngay trước khi lính Hồng quân tràn vào văn phòng đế chế, vợ chồng tiến sĩ Goebbels tự tay tiêm thuốc độc cho 6 đứa con nhỏ của mình và tự sát.

Ngày 2 tháng 5 năm 1945 không còn gì để tiếp tục chiến đấu tư lệnh phòng thủ thành phố Berlin trung tướng pháo binh Đức Helmuth Weidling đã ra lệnh đầu hàng, tuy rằng trong thành phố vẫn còn nhiều trung tâm kháng cự của SS tiếp tục chiến đấu nhưng về cơ bản Berlin đã thất thủ. Hầu hết 800.000 quân Đức phòng thủ Berlin đã chết, bị thương hoặc bị bắt làm tù binh. Phía Liên Xô cũng có 81.000 người tử trận và trên 200.000 bị thương.

Ngày 7 tháng 5 năm 1945 tại Rheims (Pháp) đại tướng Alfred Jold tổng tham mưu trưởng bộ tư lệnh hành quân Đức thay mặt chính phủ Đế chế của đô đốc Karl Dönitz đã ký biên bản đầu hàng quân đội đồng minh cùng Hồng quân Xô Viết trước các đại diện quân đội Anh, Pháp, Mỹ. Tổng tư lệnh tối cao Xô Viết Stalin bất bình và phản đối thể thức đầu hàng như vậy và yêu cầu nghi thức đầu hàng chính thức phải được diễn ra tại Berlin với đại diện cao nhất của lực lượng vũ trang Đức và dưới sự chủ tọa của đại diện của quân đội Xô Viết. Lãnh đạo các nước đồng minh nhất trí coi việc ký đầu hàng ngày 7 tháng 5 là đầu hàng sơ bộ và sẽ tổ chức nghi thức ký chính thức đầu hàng của Đức tại Berlin. Hôm sau thống chế Tổng tư lệnh quân đội Đức Wilhelm Keitel cùng các đại diện Hải, lục, không quân, các lực lượng vũ trang Đức đã đến Berlin. Trước các đại diện quân đội Đồng minh, Nguyên soái Liên Xô Georgy Konstantinovich Zhukov thay mặt Tổng tư lệnh tối cao Xô Viết chủ trì và tiếp nhận sự đầu hàng của Đức Quốc xã. Chiến tranh Xô – Đức đã chấm dứt.

Mục lục

  • 1 Trình tự thời gian
  • 2 Bối cảnh
    • 2.1 Châu Âu
    • 2.2 Châu Á
  • 3 Diễn biến cuộc chiến
    • 3.1 Chiến tranh bùng nổ tại Châu Âu (1939–40)
    • 3.2 Tây Âu (1940–41)
    • 3.3 Địa Trung Hải
    • 3.4 Phe Trục tấn công Liên Xô
    • 3.5 Chiến tranh bùng nổ tại Thái Bình Dương (1941)
    • 3.6 Chặn đứng bước tiến của phe Trục
      • 3.6.1 Thái Bình Dương (1942–43)
      • 3.6.2 Mặt trận Xô – Đức (1942–43)
      • 3.6.3 Tây Âu, Đại Tây Dương và Địa Trung Hải (1942–43)
    • 3.7 Đồng Minh giành thế chủ động (1943–44)
    • 3.8 Đồng Minh áp sát
  • 4 Ảnh hưởng đến dân thường
    • 4.1 Đức quốc xã
    • 4.2 Liên Xô
    • 4.3 Mỹ
    • 4.4 Anh
    • 4.5 Trung Quốc
    • 4.6 Nhật
  • 5 Kết quả
    • 5.1 Số người chết
      • 5.1.1 Tại châu Âu
      • 5.1.2 Tại châu Á - Thái Bình Dương
    • 5.2 Hậu quả lâu dài
  • 6 Các nước tham chiến và hậu quả
    • 6.1 Sự đóng góp của các quốc gia
    • 6.2 Khối Đồng Minh
    • 6.3 Phe Trục
    • 6.4 Hậu quả
  • 7 Tóm tắt
  • 8 Ghi chú
  • 9 Tham khảo
  • 10 Thư mục
  • 11 Đọc thêm
  • 12 Liên kết ngoài

Trình tự thời gian

Thời điểm bắt đầu cuộc chiến tại Châu Âu thường được xem là khi quân Đức tiến hành xâm lược Ba Lan vào ngày 1 tháng 9 năm 1939[6][7] và khi Vương quốc Anh và Pháp tuyên chiến với Đức hai ngày sau đó. Đối với chiến tranh Thái Bình Dương, giới học giả chưa có sự thống nhất trong việc tính ngày bắt đầu cuộc chiến. Có người tán thành thời điểm Nhật Bản xâm lược Trung Quốc vào ngày 7 tháng 7 năm 1937[8][9] trong khi một số người khác lại coi sự kiện Nhật Bản xâm lược Mãn Châu vào ngày 19 tháng 9 năm 1931 mới là ngày khởi đầu cuộc chiến.[10][11][12]

Một số học giả khác tán thành với ý kiến của sử gia người Anh A. J. P. Taylor, cho rằng Chiến tranh Trung–Nhật cùng với chiến tranh ở châu Âu và các thuộc địa xảy ra song song cho trước khi hợp thành một cuộc chiến duy nhất vào năm 1941. Bài viết này của Wikipedia sử dụng cách tính ngày truyền thống. Một số thời điểm khác đôi khi cũng được sử dụng làm ngày bắt đầu Chiến tranh thế giới thứ hai bao gồm cuộc xâm lược Abyssinia của Ý vào ngày 3 tháng 10 năm 1935.[13] Nhà sử học người Anh Antony Beevor xem trận Khalkhin Gol giữa Nhật Bản và Liên Xô từ tháng 5 đến tháng 9 năm 1939 là ngày khởi đầu của Thế chiến thứ hai.[14]

Tương tự như ngày bắt đầu, ngày kết thúc chính xác của cuộc chiến cũng không được các học giả thống nhất rộng rãi. Một số người chấp nhận ngày 14 tháng 8 năm 1945 khi hiệp định đình chiến giữa Nhật Bản và Đồng Minh được ký kết (Ngày V-J) là ngày chiến tranh kết thúc thay vì ngày 2 tháng 9 năm 1945 khi Nhật Bản chính thức đầu hàng, chấm dứt chiến tranh tại châu Á. Năm 1951, một hiệp ước hòa bình giữa Nhật Bản và Đồng Minh được ký kết. Năm 1990, một hiệp ước liên quan đến tương lai của Đức cho phép hai phần Đông và Tây của nước này thống nhất đã được thông qua, giải quyết hầu hết các vấn đề tồn đọng sau Thế chiến II. Cho đến khi Liên Xô giải tán, giữa hai nước Xô – Nhật không có hiệp ước hòa bình chính thức nào được ký kết.[15]

Bối cảnh

Châu Âu

Nguồn cơn của chiến tranh thế giới thứ hai đến từ những nguyên do khác nhau ở những khu vực địa lý khác nhau. Tại châu Âu, Chiến tranh thế giới thứ hai thường được xem là sự tiếp nối của Chiến tranh thế giới thứ nhất, vốn đã làm thay đổi hoàn toàn bản đồ chính trị châu Âu với sự thất bại của các cường quốc Liên minh Trung tâm gồm Áo-Hung, Đức, Bulgaria và Đế quốc Ottoman và việc người Bolshevik lên nắm quyền ở Nga và thành lập nên Liên bang Xô Viết vào năm 1917. Các Đồng Minh giành chiến thắng trong Chiến tranh thế giới thứ nhất như Pháp, Bỉ, Ý, Romania và Hy Lạp, đều giành thêm đất đai. Nhiều quốc gia dân tộc mới được thành lập sau sự sụp đổ của Áo-Hung, Đế quốc Ottoman và Đế quốc Nga.

Hội nghị Hội Quốc Liên tổ chức tại Geneva, Thụy Sĩ, năm 1930

Để ngăn chặn một cuộc chiến tranh thế giới mới trong tương lai, Hội Quốc Liên được thành lập trong Hội nghị Hòa bình Paris năm 1919. Hội Quốc Liên có nhiệm vụ chủ yếu là duy trì hòa bình thế giới với những mục tiêu chính bao gồm ngăn ngừa chiến tranh thông qua an ninh tập thể và giải trừ quân bị, và giải quyết những tranh chấp quốc tế thông qua đàm phán và trọng tài.

Bất chấp xu hướng chuộng hòa bình phát triển mạnh mẽ sau Thế chiến I,[16] chủ nghĩa báo thù dân tộc và chủ nghĩa xét lại đã nổi lên tại một số quốc gia châu Âu trong cùng thời kỳ. Xu hướng này đặc biệt phát triển mạnh mẽ tại Đức bởi những tổn thất đáng kể về lãnh thổ, thuộc địa và tài chính mà Hòa ước Versailles áp đặt. Đức mất khoảng 13% lãnh thổ quê nhà và toàn bộ thuộc địa ở hải ngoại. Đức bị ngăn cấm sáp nhập các quốc gia khác, bị buộc phải trả những khoản bồi thường khổng lồ. Quân đội bị giới hạn về quy mô và khả năng chiến đấu.[17]

Đế quốc Đức bị giải thể trong Cách mạng Đức 1918–1919. Một chính phủ dân chủ, sử gọi là Cộng hòa Weimar, được thành lập. Thời kỳ giữa hai cuộc chiến chứng kiến sự xung đột giữa những người ủng hộ nền cộng hòa non trẻ và những người chống đối không nhân nhượng ở cả cánh hữu lẫn cánh tả. Ý với tư cách là một đồng minh của phe Entente đã giành được một số vùng lãnh thổ sau chiến tranh. Tuy nhiên, những người theo chủ nghĩa dân tộc Ý đã tức giận vì những lời hứa của Vương quốc Anh và Pháp khi thuyết phục nước này tham chiến đã không được thực hiện. Từ năm 1922 đến năm 1925, phong trào Phát xít do Benito Mussolini lãnh đạo đã lên cầm quyền tại Ý, áp dụng chủ nghĩa dân tộc, chế độ toàn trị và cộng tác giai cấp, xóa bỏ nền dân chủ đại nghị, đàn áp các lực lượng xã hội chủ nghĩa, cánh tả và tự do, đồng thời theo đuổi chính sách đối ngoại bành trướng hung hãn nhằm vào đưa Ý trở thành một cường quốc trên thế giới và hứa hẹn tạo dựng một "Đế chế La Mã Mới".[18]

Adolf Hitler tại buổi mít tinh đảng Quốc Xã ở Nürnbeg, tháng 8 năm 1933

Adolf Hitler, sau một nỗ nhằm lật đổ chính phủ Đức lực bất thành vào năm 1923, đã trở thành Thủ tướng Đức vào năm 1933. Ông ta bãi bỏ chế độ dân chủ, tham vọng sửa đổi trật tự thế giới một cách triệt để và mang động cơ chủng tộc. Nước Đức nhanh chóng bắt đầu một chiến dịch tái vũ trang quy mô lớn.[19] Trong khi đó, vì muốn đảm bảo liên minh, Pháp để cho Ý tùy ý hành động ở Ethiopia, quốc gia mà Ý muốn biến thành thuộc địa của họ. Tình hình trở nên trầm trọng hơn vào đầu năm 1935 khi Lãnh thổ lưu vực Saar được thống nhất hợp pháp với Đức cùng việc Hitler đẩy nhanh tiến độ tái vũ trang và áp dụng chế độ cưỡng bách tòng quân, qua đó vi phạm Hòa ước Versailles.[20]

Vương quốc Anh, Pháp và Ý thành lập Mặt trận Stresa vào tháng 4 năm 1935 nhằm kiềm chế Đức, một bước quan trọng đối với toàn cầu hóa quân sự. Nhưng chỉ khoảng 2 tháng sau, Vương quốc Anh đã cùng nước Đức đàm phán thỏa thuận hải quân độc lập, nới lỏng các hạn chế trước đó. Lo ngại trước những tham vọng lãnh thổ của Đức tại Đông Âu, Liên Xô đã cùng với Pháp soạn thảo một hiệp ước tương trợ. Tuy nhiên, trước khi có hiệu lực, hiệp ước Pháp–Xô bắt buộc phải được thông qua bộ máy hành chính của Hội Quốc Liên.[21] Về phía Hoa Kỳ, do lo ngại về các diễn biến tại Châu Âu và Châu Á, Quốc hội Hoa Kỳ đã thông qua Đạo luật Trung lập vào tháng 8 cùng năm.[22]

Hitler thách thức hiệp ước Versailles và Locarno bằng đưa quân vào vùng phi quân sự hóa Rhineland trong tháng 3 năm 1936. Nhờ vào Chính sách nhân nhượng của các nước Tây Âu, Hitler gần như không vấp phải sự phản đối nào.[23] Tháng 10 năm 1936, Đức và Ý thành lập Trục Roma – Berlin. Một tháng sau, Đức và Nhật Bản ký Hiệp ước chống Quốc tế Cộng sản với mục tiêu ngăn chặn sự phát triển của chủ nghĩa Cộng sản. Một năm sau thì Ý cũng ký hiệp ước này.[24]

Châu Á

Vào giữa thập niên 1920, Trung Quốc Quốc dân Đảng (KMT) phát động chiến dịch Bắc phạt với mục tiêu thống nhất Trung Quốc vốn đã bị chia cắt sau thời kỳ Cách mạng Tân Hợi năm 1911, đồng thời tiêu diệt quyền lực của các quân phiệt cát cứ. Tuy chiến dịch kết thúc thành công và Trung Quốc đã được thống nhất, nhưng mối quan hệ căng thẳng với các đồng minh cũ khiến chính phủ của Tưởng Giới Thạch nhanh chóng rơi vào một cuộc nội chiến với Đảng Cộng sản Trung Quốc và các quân phiệt địa phương thuộc Quốc dân Đảng.[25] Tại Nhật Bản, sự thắng thế của một số tướng lãnh quân phiệt đã khiến nước này chủ trương giải quyết các vấn đề quốc gia bằng chính phủ độc tài và chính sách xâm lược.[26] Nhật Bản thiếu các nguồn tài nguyên một cách trầm trọng, họ buộc phải nhập khẩu các nguyên liệu như sắt, dầu mỏ và than đá vì thiếu các tài nguyên thiên nhiên ở trong nước để duy trì tăng trưởng trong ngành công nghiệp. Nhật Bản thể hiện tham vọng sáp nhập Trung Quốc và các thuộc địa lân cận vào Khối Thịnh vượng chung Đại Đông Á để thoả mãn nhu cầu tài nguyên mà đảo quốc nhỏ bé này không thể tự đáp ứng được.[27] Người Nhật xem Trung Quốc là bước đầu tiên trong tham vọng bá chủ châu Á, dàn dựng Sự kiện Phụng Thiên để làm cái cớ tiến quân vào Mãn Châu, thiết lập nhà nước Mãn Châu Quốc bù nhìn.[28]

Trung Quốc kêu gọi Hội Quốc Liên yêu cầu Nhật Bản dừng ngay cuộc xâm lược Mãn Châu. Sau khi bị lên án vì những hoạt động quân sự tại Mãn Châu, Nhật Bản đáp trả bằng cách rút khỏi tổ chức này. Quân đội hai nước nhanh chóng đụng vũ trang tại Thượng Hải, Nhiệt Hà và Hà Bắc. Chiến sự vẫn tiếp diễn cho đến khi Thỏa ước Đường Cô được ký kết vào năm 1933. Tuy đình chiến, các lực lượng tình nguyện Trung Quốc vẫn tiếp tục hoạt động kháng Nhật ở Mãn Châu, Sát Cáp Nhĩ và Tuy Viễn.[29] Sau Sự kiện Tây An năm 1936, hai phía Quốc dân Đảng và Cộng sản Đảng chấp nhận ngừng chiến để thành lập một mặt trận thống nhất với mục tiêu đánh đuổi người Nhật ra khỏi Trung Quốc.[30]

Diễn biến cuộc chiến

Chiến tranh bùng nổ tại Châu Âu (1939–40)

Binh lính Wehrmacht của Đức phá vỡ đường biên giới vào Ba Lan, ngày 1 tháng 9 năm 1939

Ngày 1 tháng 9 năm 1939, Đức Quốc Xã xâm lược Ba Lan sau khi dàn dựng một số vụ cờ giả, bao gồm vụ lính Ba Lan phóng hỏa đốt trụ sở cơ quan phát thanh Đức tại Gleiwitz.[31] Cuộc tấn công đầu tiên của quân Đức trong cuộc chiến là nhằm vào hệ thống phòng thủ của Ba Lan tại Westerplatte.[32] Trước hành động quân sự của Đức, Vương quốc Anh gửi tối hậu thư yêu cầu Đức dừng ngay cuộc tấn công. Sau khi tối hậu thư bị phía Đức bác bỏ, Pháp và Anh chính thức tuyên chiến vào ngày 3 tháng 9, kế đến là Úc, New Zealand, Nam Phi và Canada. Tuy tham chiến, phe Đồng Minh không làm gì nhiều để giúp Ba Lan. Người Pháp chỉ thực hiện duy nhất một cuộc thăm dò thận trọng vào vùng Saarland.[33] Đồng Minh phương Tây bắt đầu một cuộc phong tỏa hải quân đối với Đức, nhằm phá hủy nền kinh tế và nỗ lực gây chiến của đất nước này.[34] Đức đáp trả bằng cách phát động chiến tranh bằng tàu ngầm nhằm vào tàu buôn và tàu chiến của Đồng Minh. Chiến sự nhanh chóng leo thang thành Trận chiến Đại Tây Dương.[35]

Các binh sĩ của Quân đội Ba Lan bảo vệ nước nhà, tháng 9 năm 1939

Ngày 8 tháng 9, quân đội Đức tiến đến vùng ngoại ô Warszawa. Đợt phản công của Ba Lan ở phía tây tuy cầm chân người Đức trong vài ngày, nhưng họ nhanh chóng bị Wehrmacht tấn công và bao vây. Tàn quân Ba Lan đột kích vòng vây để quay về cố thủ Warszawa, thành phố khi ấy đang bị vây rất chặt. Ngày 17 tháng 9 năm 1939, sau khi ký hiệp định đình chiến với Nhật Bản, Liên Xô lấy cớ bảo vệ dân tộc Ukraina và Belarus xâm lược miền đông Ba Lan,[36] lập luận rằng nhà nước Ba Lan đã sụp đổ trước cuộc tấn công của người Đức và không còn có khả năng đảm bảo an ninh cho công dân của mình nữa.[37] Ngày 27 tháng 9, các đơn vị đồn trú Warszawa đầu hàng quân Đức. Ngày 6 tháng 10, đơn vị tác chiến lớn cuối cùng của Ba Lan đầu hàng. Bất chấp thất bại về mặt quân sự, chính phủ Ba Lan đã quyết định không đầu hàng và hình thành chính phủ lưu vong. Tại Ba Lan bị chiếm đóng, một bộ máy nhà nước vẫn hoạt động ngầm.[38] Một lượng lớn quân nhân Ba Lan di tản sang Romania và các nước Baltic. Nhiều người trong số họ về sau tiếp tục chiến đấu chống phe Trục trên các mặt trận khác.[39]

Đức sáp nhập miền tây và chiếm đóng miền trung Ba Lan, Liên Xô sáp nhập miền đông, một phần nhỏ lãnh thổ Ba Lan được chuyển giao cho Litva và Slovakia. Ngày 6 tháng 10, Hitler bày tỏ mong muốn đàm phán hòa bình công khai với Vương quốc Anh và Pháp nhưng nhấn mạnh rằng tương lai của nhà nước Ba Lan sẽ do Đức và Liên Xô quyết định. Đề xuất bị từ chối,[40] Hitler ra lệnh phát động tấn công Pháp ngay lập tức.[41] Tuy nhiên, chiến dịch bị hoãn lại cho đến mùa xuân năm 1940 do điều kiện thời tiết xấu.[42][43][44]

Tổ súng máy của Phần Lan nhằm vào các vị trí của Hồng quân Liên Xô trong Chiến tranh mùa đông, tháng 2 năm 1940

Liên Xô tác động lên các nước Baltic – Estonia, Latvia và Litva, vốn nằm trong "vùng ảnh hưởng" của Liên Xô theo hiệp ước Molotov–Ribbentrop – khiến họ ký "hiệp ước tương trợ" cho phép quân đội Liên Xô đóng quân trong nước. Ngay sau đó, Liên Xô đã di chuyển một lượng lớn binh sĩ tới các nước này.[45][46][47] Vì Phần Lan khước từ việc ký một hiệp ước tương tự và từ chối nhượng một phần lãnh thổ của mình, Liên Xô đã tiến hành xâm lược nước này vào tháng 11 năm 1939.[48] Đáp trả, Liên Xô bị trục xuất khỏi Hội Quốc Liên.[49] Mặc dù sở hữu ưu thế vượt trội về quân số, nhưng Liên Xô chỉ đạt những thành công cực kỳ khiêm tốn về mặt quân sự. Cuộc chiến tranh Phần Lan – Liên Xô kết thúc vào tháng 3 năm 1940 khi Phần Lan cắt khu vực Karelia cho Liên Xô.[50]

Vào tháng 6 năm 1940, Liên Xô dùng vũ lực sáp nhập Estonia, Latvia và Litva,[46] cũng như Bessarabia, miền bắc Bukovina và Hertza, vốn là các khu vực tranh chấp với Romania. Cũng trong lúc này, khi mối quan hệ hợp tác chính trị và kinh tế giữa Đức Quốc Xã – Liên Xô[51][52] dần đổ vỡ, [53][54] cả hai quốc gia bắt đầu chuẩn bị cho chiến tranh.[55]

Tây Âu (1940–41)

Bước tiến của Đức tại Bỉ và miền Bắc nước Pháp từ ngày 10 tháng 5 đến ngày 4 tháng 6 năm 1940, vòng qua Đường Maginot (hiển thị bằng màu đỏ sẫm)

Tháng 4 năm 1940, Đức mở Chiến dịch Weserübung xâm lược Đan Mạch và Na Uy nhằm bảo vệ con đường vận chuyển quặng sắt từ Thụy Điển tới Đức mà Đồng Minh đang cố gắng cắt đứt.[56] Đan Mạch nhanh chóng đầu hàng chỉ sau vài giờ chiến đấu, trong khi Na Uy bị chinh phục trong vòng hai tháng bất chấp sự hỗ trợ của Đồng Minh.[57] Thất bại trong việc cứu Na Uy dẫn đến sự bất mãn trong dân chúng Anh khiến cho Thủ tướng Anh Neville Chamberlain bị thay thế bởi Winston Churchill vào ngày 10 tháng 5 năm 1940.[58]

Cùng ngày, Đức mở màn chiến dịch tấn công nước Pháp. Để đi vòng qua Phòng tuyến Maginot kiên cố ở biên giới Pháp–Đức, Đức đã hướng cuộc tấn công vào các quốc gia trung lập như Bỉ, Hà Lan và Luxembourg.[59] Quân Đức đã di chuyển xuyên qua khu vực rừng Ardennes,[60] vốn được quân Đồng Minh xem như một hàng rào tự nhiên không thể bị lực lượng thiết giáp chọc thủng.[61][62] Bằng cách áp dụng thành công học thuyết chiến tranh chớp nhoáng mới, Wehrmacht nhanh chóng tiến tới eo biển Manche. Bị đánh bọc sườn, phần lớn quân đội Đồng Minh bị bao vây tại biên giới Pháp–Bỉ gần Lille. Vương quốc Anh tuy phải vứt lại gần như tất cả thiết bị của họ nhưng đã có thể di tản một lượng lớn binh sĩ khỏi lục địa châu Âu vào đầu tháng 6.[63]

Vào ngày 10 tháng 6, Ý xâm lược Pháp, tuyên chiến với cả Pháp lẫn Vương quốc Anh. Quân Đức hướng về phía nam tấn công quân Pháp nay đã suy yếu. Paris thất thủ vào ngày 14 tháng 6. Tám ngày sau, Pháp ký hiệp định đình chiến với Đức. Nước Pháp được chia thành các khu vực chiếm đóng của Đức và Ý[64] và một nhà nước tàn tồn dưới chế độ Vichy. Chính phủ này dù trên danh nghĩa trung lập, nhưng trên thực tế lại liên kết với Đức. Để tránh việc hạm đội của Pháp bị Đức trưng dụng để tấn công Anh, ngày 3 tháng 7 năm 1940, Anh đã tấn công hạm đội Pháp neo đậu tại cảng Mers-el-Kebir ở Algérie, đánh chìm nhiều tàu và khiến hàng ngàn người thương vong.[65]

Luân Đôn nhìn từ Nhà thờ Thánh Phao-lô sau trận cuộc không kích Blitz của Đức, ngày 29 tháng 12 năm 1940

Trận không chiến nước Anh[66] mở màn vào đầu tháng 7 khi Luftwaffe thực hiện một loạt các cuộc oanh tạc nhằm vào tàu bè và bến cảng của Anh.[67] Chiến dịch chiếm kiểm soát trên không của Đức bắt đầu vào tháng 8. Tuy nhiên, do không thể đánh bại được Bộ Tư lệnh Tiêm kích cơ Không quân Hoàng gia Anh, Đức buộc phải trì hoãn vô thời hạn cuộc xâm lược Anh mang mật danh Chiến dịch Sư tử biển đã được lên kế hoạch từ trước. Đức tăng cường các cuộc không kích ban đêm nhằm vào London và các thành phố trọng điểm khác. Do không gây tác động đáng kể nỗ lực tham chiến của người Anh, chiến dịch oanh tạc của Luftwaffe gần như kết thúc hoàn toàn vào tháng 5 năm 1941.[68]

Sử dụng các cảng mới chiếm được của Pháp, Hải quân Đức đã thành công trong việc chống lại Hải quân Hoàng gia đang phải hoạt động quá mức. Người Đức sử dụng U-boat để tấn công đội tàu của Anh ở Đại Tây Dương.[69] Hạm đội Hoàng gia Anh ghi nhận một chiến thắng quan trọng vào ngày 27 tháng 5 năm 1941 khi đánh chìm thiết giáp hạm Bismarck của Đức.[70]

Vào tháng 11 năm 1939, Hoa Kỳ thực hiện các biện pháp nhằm hỗ trợ Trung Quốc và các Đồng Minh phương Tây. Họ cũng sửa đổi Đạo luật Trung lập để cho phép các đơn hàng "cash and carry" của Đồng Minh.[71] Năm 1940, sau khi Đức chiếm được Paris, quy mô của Hải quân Hoa Kỳ đã phát triển đáng kể. Tháng 9 năm đó, Hoa Kỳ đã đồng ý thêm việc mua bán các tàu khu trục đổi bằng các căn cứ của Anh.[72] Tuy nhiên, tính tới năm 1941, phần lớn công chúng Mỹ vẫn tiếp tục phản đối bất kỳ sự can thiệp quân sự trực tiếp nào vào cuộc chiến.[73] Tháng 12 năm 1940, Roosevelt cáo buộc Hitler lên kế hoạch chinh phục thế giới và bác bỏ mọi cuộc đàm phán là vô ích. Ông kêu gọi Hoa Kỳ trở thành một "kho vũ khí của nền dân chủ", thúc đẩy các chương trình viện trợ cho vay-cho thuê (lend-lease) nhằm hỗ trợ nước Anh tiếp tục cuộc chiến.[74] Lúc bấy giờ, Hoa Kỳ đã bắt đầu lập kế hoạch chiến lược để chuẩn bị cho một cuộc tấn công toàn diện nhằm vào Đức.[75]

Cuối tháng 9 năm 1940, ba nước Nhật Bản, Ý và Đức ký kết Hiệp ước Ba bên, chính thức trở thành Phe Trục. Hiệp ước Ba bên quy định rằng nếu bất kỳ quốc gia nào, ngoại trừ Liên Xô, tấn công bất kỳ quốc gia Phe Trục nào, các nước còn lại sẽ phải tham chiến.[76] Phe Trục mở rộng vào tháng 11 năm 1940 khi Hungary, Slovakia và Romania gia nhập.[77] Romania và Hungary về sau đã có những đóng góp to lớn trong cuộc chiến tranh chống lại Liên Xô của phe Trục. Đối với trường hợp của Romania, một trong những lý do khiến họ tham chiến là nhằm chiếm lại những lãnh thổ đã phải nhượng cho Liên Xô.[78]

Địa Trung Hải

Binh sĩ Sư đoàn số 9 thuộc Quân đội Australia của Đế quốc Anh trong Cuộc vây hãm Tobruk; Chiến dịch Bắc Phi, tháng 8 năm 1941

Đầu tháng 6 năm 1940, Không quân Hoàng gia Ý tấn công và bao vây đảo Malta của Anh. Kể từ cuối hè cho đến đầu mùa thu, Ý chinh phục Somaliland thuộc Anh và đang tiến hành xâm lược Ai Cập thuộc Anh. Sang tháng 10, Ý xua quân xâm lược Hy Lạp nhưng bị đẩy lui và phải hứng chịu thương vong nặng nề. Chiến dịch Hy Lạp của Ý kết thúc trong vòng vài tháng với những thay đổi nhỏ về lãnh thổ.[79] Để hỗ trợ Ý, Đức triển khai tấn công vào vùng Balkan nhằm ngăn chặn người Anh giành được chỗ đứng tại đây vì họ có thể sẽ trở thành mối đe dọa tiềm tàng đối với các mỏ dầu tại Romania. Nếu phe Trục chiếm được Balkan thì họ có thể sử dụng nó làm bàn đạp để tấn công lãnh địa của người Anh tại Địa Trung Hải.[80]

Vào tháng 12 năm 1940, quân đội Đế quốc Anh phát động phản công quân đội Ý ở Ai Cập và Đông Phi thuộc Ý và đạt hiệu quả cao.[81] Đến đầu tháng 2 năm 1941, Ý đánh mất quyền kiểm soát miền đông Libya và một lượng lớn binh sĩ bị bắt làm tù binh. Hải quân Ý cũng phải hứng chịu những thất bại nặng nề khi ba thiết giáp hạm của Ý đã bị Hải quân Hoàng gia Anh loại khỏi biên chế bằng một cuộc tấn công bằng tàu sân bay nhằm vào căn cứ hải quân tại Taranto. Người Anh tiếp đó đã vô hiệu hóa một số tàu chiến khác trong trận Mũi Matapan.[82]

Panzer III của Afrika Korps tiến qua sa mạc Bắc Phi, 1941

Thất bại của Ý và nguy cơ phe Trục bị đánh bật khỏi toàn bộ Châu Phi buộc Đức phải cử một lực lượng viễn chinh đến Bắc Phi trợ chiến. Cuối tháng 3 năm 1941, Afrika Korps dưới sự chỉ huy của Erwin Rommel đã phát động phản công đánh lui các lực lượng của Khối thịnh vượng chung.[83] Trong vòng chưa đầy một tháng, quân đội phe Trục đã tiến đến phía tây Ai Cập và bao vây cảng Tobruk.[84]

Cuối tháng 3 năm 1941, Bulgaria và Nam Tư đã ký Hiệp ước Ba bên. Tuy nhiên, chính phủ thân Đức của Nam Tư đã bị lật đổ hai ngày sau đó bởi phe dân tộc chủ nghĩa thân Anh. Đức đáp trả bằng cách xâm lược cùng lúc cả Nam Tư lẫn Hy Lạp. Chiến sự bắt đầu vào ngày 6 tháng 4 năm 1941 và khi chưa hết tháng, cả hai nước này đã phải đầu hàng.[85] Cuộc tấn công bằng đường không vào đảo Crete của Hy Lạp vào cuối tháng 5 đã hoàn thành chiến dịch Balkan của Đức.[86] Dù phe Trục dành thắng lợi chóng vánh, nhưng người dân Nam Tư nổi dậy, tiến hành kháng chiến quy mô lớn chống lại sự chiếm đóng của phe Trục. Cuộc kháng chiến Nam Tư còn kéo dài cho đến khi chiến tranh kết thúc.[87]

Tại Trung Đông vào tháng 5, quân Khối thịnh vượng chung đã dập tắt một cuộc nổi dậy ở Iraq được hỗ trợ bởi máy bay Đức xuất phát từ các căn cứ tại Syria đang nằm dưới quyền kiểm soát của chính phủ Vichy.[88] Từ tháng 6 đến tháng 7, quân đội Khối thịnh vượng chung đã tiến hành xâm lược và chiếm đóng mọi lãnh địa của Pháp tại Syria và Lebanon với sự hỗ trợ của Nước Pháp Tự do.[89]

Phe Trục tấn công Liên Xô

Diễn biến của mặt trận Châu Âu, 1939–1945 - Màu đỏ: Đồng Minh phương Tây và Liên Xô sau năm 1941; Xanh lá cây: Liên Xô trước năm 1941; Xanh lam: Phe Trục

Sau khi tình hình châu Âu và châu Á trở nên tương đối ổn định, cả Đức, Nhật Bản lẫn Liên Xô đã có những bước chuẩn bị cho các hành động sắp tới. Nhật lúc này muốn lợi dụng chiến tranh ở Châu Âu để chiếm đoạt nguồn tài nguyên giàu có tại các thuộc địa Đông Nam Á của phương Tây. Về phía Liên Xô, cảnh giác về sự căng thẳng ngày càng gia tăng với Đức, nước này đã cùng Nhật Bản ký Điều ước bất xâm phạm vào tháng 4 năm 1941.[90] Cũng trong thời điểm này, người Đức đã chuẩn bị đầy đủ cho cuộc chiến sắp tới với Liên Xô.[91]

Hitler cho rằng việc Vương quốc Anh từ chối kết thúc chiến tranh là vì họ vẫn hy vọng Hoa Kỳ và Liên Xô sớm hay muộn cũng sẽ tham gia cuộc chiến chống lại Đức. Do đó, ông cố gắng thắt chặt mối quan hệ với Liên Xô.[92] Tuy nhiên, trong trường hợp thất bại, họ sẽ phải tấn công Liên Xô. Vào tháng 11 năm 1940, Đức và Liên Xô tiến hành đàm phán song phương để xác định xem, liệu Liên Xô có tham gia Hiệp ước Ba bên hay không. Liên Xô bày tỏ sự quan tâm nhưng lại yêu cầu Phần Lan, Bulgaria, Thổ Nhĩ Kỳ và Nhật Bản phải nhượng bộ mình, một điều mà Đức cho là không thể chấp nhận được. Cuộc đàm phán đổ vỡ, Hitler ban hành chỉ thị chuẩn bị xâm lược Liên bang Xô Viết.[93]

Lính Đức trong cuộc xâm lược Liên Xô, 1941

Vào ngày 22 tháng 6 năm 1941, Đức, với sự hỗ trợ của Ý và Romania, tiến hành xâm lược Liên Xô trong Chiến dịch Barbarossa, cáo buộc Liên Xô âm mưu chống lại Đức. Hai nước Phần Lan và Hungary ngay lập tức tham chiến theo phe Đức.[94] Các mục tiêu chính của cuộc tấn công bất ngờ này là khu vực Baltic,[95] Moskva và Ukraina, với mục tiêu cuối cùng là kết thúc chiến dịch năm 1941 tại gần Tuyến Arkhangelsk-Astrakhan, kéo dài từ Biển Caspi đến Biển Trắng. Mục tiêu của Hitler trong chiến dịch này là loại bỏ Liên Xô khỏi tư cách là một cường quốc quân sự, tiêu diệt Chủ nghĩa Cộng sản, tạo ra Lebensraum ("không gian sống")[96] cho dân tộc Đức bằng cách trục xuất dân số bản địa và đảm bảo sự tiếp cận các nguồn lực chiến lược cần thiết để đánh bại các đối thủ còn lại của Đức.[97]

Mặc dù Hồng quân Liên Xô đã chuẩn bị cho cuộc phản công chiến lược trước chiến tranh,[98] chiến dịch Barbarossa đã buộc Bộ chỉ huy tối cao Liên Xô phải áp dụng phương án phòng thủ chiến lược. Trong suốt mùa hè, phe Trục đã tiến sâu vào lãnh thổ Liên Xô, gây ra tổn thất lớn cả về nhân lực và vật lực. Tuy nhiên, đến giữa tháng 8, Bộ chỉ huy tối cao quân lực Đức quyết định tạm hoãn các cuộc tấn công của Cụm tập đoàn quân Trung tâm đã mỏi mệt sau gần 2 tháng tiến quân chớp nhoáng. Người Đức điều hướng Tập đoàn thiết giáp số 2 tới miền trung Ukraina và Leningrad để tăng viện.[99] Cuộc tấn công vào Kiev thành công rực rỡ, người Đức thành công tiêu diệt gần như hoàn toàn Phương diện quân Tây Nam của Liên Xô, làm bàn đạp để tiến sâu hơn vào Crimea và khu vực công nghiệp ở miền Đông Ukraina (Trận Kharkov lần thứ nhất).[100]

Thường dân Liên Xô rời khỏi khu nhà bị phá hủy sau trận pháo kích của Đức trong Trận Leningrad, ngày 10 tháng 12 năm 1942

Việc 3/4 lục quân và phần lớn không quân phe Trục di chuyển từ Pháp và vùng trung tâm Địa Trung Hải tới Mặt trận phía Đông[101] đã khiến Vương quốc Anh cân nhắc lại đại chiến lược của họ.[102] Tháng 7 năm 1941, Anh và Liên Xô thành lập liên minh quân sự chống Đức.[103] Tháng 8, Anh và Mỹ cùng ban hành Hiến chương Đại Tây Dương, vạch ra các mục tiêu của hai nước đối với thế giới sau chiến tranh.[104] Cuối tháng đó, Anh và Liên Xô cùng tổ chức xâm lược nước Iran trung lập nhằm đảm bảo Hành lang Ba Tư, các mỏ dầu của Iran và phòng ngừa phe Trục tiến đánh các mỏ dầu Baku hoặc Ấn Độ thuộc Anh thông qua đường Iran.

Đến tháng 10, phe Trục về cơ bản đã hoàn thành mọi mục tiêu tác chiến ở Ukraina và khu vực Baltic, chỉ còn hai cuộc bao vây Leningrad[105] và Sevastopol là vẫn còn tiếp diễn.[106] Với mật danh là "Bão táp", quân đội Đức tái khởi động cuộc tấn công hướng vào Moskva với hy vọng chiếm được thành phố này để triệt sĩ khí của người Liên Xô. Sau hai tháng kịch chiến trong điều kiện thời tiết ngày càng trở nên khắc nghiệt, quân đội Đức đã tiến đến ngoại ô Moskva. Tuy nhiên, quân đội Đức lúc bấy giờ đã kiệt quệ[107] và buộc phải tạm hoãn cuộc tấn công.[108] Phe Trục tuy giành được một vùng lãnh thổ rộng lớn, nhưng chiến dịch của họ đã không đạt được các mục tiêu chính khi mà hai thành phố trọng yếu – Moskva và Stalingrad – vẫn nằm trong tay Liên Xô. Khả năng chiến đấu của Hồng quân không bị bẻ gãy và họ vẫn bảo tồn một phần đáng kể tiềm lực quân sự. Với cuộc tấn công vào thủ đô Liên Xô thất bại, giai đoạn chiến tranh chớp nhoáng của mặt trận châu Âu đi đến hồi kết.[109]

Đến đầu tháng 12, lực lượng quân dự bị mới được huy động[110] cho phép Liên Xô sở hữu quân số ngang ngửa với phe Trục.[111] Thêm vào đó, dữ liệu tình báo cho thấy chỉ cần một lượng binh lính tối thiểu ở Viễn Đông cũng đủ để chặn đứng bất kỳ cuộc tấn công nào của Đạo quân Quan Đông Nhật Bản.[112] Hai yếu tố này cho phép Liên Xô bắt đầu một cuộc phản công lớn vào ngày 5 tháng 12 dọc theo phòng tuyến Moskva, đẩy lùi quân Đức khoảng 100–250 kilômét (62–155mi) về phía tây.[113]

Chiến tranh bùng nổ tại Thái Bình Dương (1941)

Sau sự kiện Phụng Thiên do Nhật dàn dựng để làm cớ chiếm Mãn Châu năm 1931, sự kiện pháo hạm USS Panay bị người Nhật đánh chìm trên sông Trường Giang năm 1937 và Thảm sát Nam Kinh năm 1937-38, quan hệ Nhật – Mỹ trở nên xấu đi. Năm 1939, Hoa Kỳ thông báo với Nhật rằng họ sẽ không gia hạn hiệp ước thương mại song phương. Việc dư luận phản đối chủ nghĩa bành trướng của Nhật Bản dẫn đến Hoa Kỳ thực hiện một loạt biện pháp trừng phạt kinh tế lên Nhật Bản. Chính phủ Hoa Kỳ ban hành Đạo luật Kiểm soát Xuất khẩu, chấm dứt hoạt động xuất khẩu hóa chất, khoảng sản và các bộ phận dùng để chế tạo vũ khí sang Nhật Bản, đồng thời gia tăng áp lực kinh tế lên chính quyền nước này.[114][115] Năm 1939, Nhật Bản phát động cuộc tấn công đầu tiên vào Trường Sa, một thành phố trọng điểm tại Hồ Nam, Trung Quốc, nhưng bị đẩy lui vào cuối tháng 9.[116] Bất chấp cả hai bên tiến hành một số đợt tấn công, chiến tranh Trung – Nhật bước vào hồi bế tắc vào năm 1940. Để gia tăng sức ép đối với Trung Quốc bằng cách cắt đứt các tuyến đường tiếp tế và để bố trí quân đội trong trường hợp xảy ra chiến tranh với các cường quốc phương Tây, Nhật Bản xâm lược và chiếm đóng miền Bắc Đông Dương vào tháng 9 năm 1940.[117]

Lính Nhật tiến vào Hồng Kông, 8 tháng 12 năm 1941

Quốc dân Cách mệnh Quân Trung Quốc mở một cuộc phản công quy mô lớn vào đầu năm 1940. Vào tháng 8, Đảng Cộng sản Trung Quốc mở cuộc tấn công khác ở miền Trung Trung Quốc. Để trả đũa, Nhật Bản sử dụng biện pháp tàn bạo tại các khu vực bị chiếm đóng nhằm giảm bớt nhân lực và vật lực của quân Cộng sản.[118] Cũng trong thời gian đó, giữa hai phe Quốc – Cộng xảy ra hiềm khích, đỉnh điểm là những cuộc đụng độ vũ trang vào tháng 1 năm 1941, chấm dứt Mặt trận thống nhất chống Nhật.[119] Tháng 3 năm 1941, Quân đoàn 11 của Nhật tấn công sở chỉ huy Quân đoàn 19 của Trung Quốc nhưng bị đẩy lui trong trận Thượng Cao.[120] Tháng 9, Nhật Bản một lần nữa cố gắng chiếm đánh Trường Sa và đụng độ với Quốc dân quân Trung Quốc.[121]

Thành công của Đức ở châu Âu khuyến khích Nhật Bản gia tăng sức ép lên các chính quyền thuộc địa châu Âu ở Đông Nam Á. Chính phủ Hà Lan đồng ý cung cập một số nguồn cung dầu từ Đông Ấn thuộc Hà Lan cho Nhật Bản, nhưng những cuộc đàm phán nhằm mở rộng lượng tài nguyên xuất khẩu sang Nhật vào tháng 6 năm 1941 đã thất bại.[122] Tháng 7 năm 1941, Nhật Bản đưa quân đến miền nam Đông Dương, đe dọa các thuộc địa của Anh và Hà Lan ở Viễn Đông. Hoa Kỳ, Vương quốc Anh và các quốc gia phương Tây khác đã phản ứng với động thái này bằng việc đóng băng mọi tài sản của Nhật Bản ở nước ngoài, đồng thời áp đặt lệnh cấm vận dầu một cách triệt để.[123][124] Nhật Bản lúc bấy giờ vốn đang lên kế hoạch xâm lược vùng Viễn Đông của Liên Xô, với ý định lợi dụng việc nước này đang bận bịu chống trả cuộc xâm lược của Đức ở phía tây. Tuy nhiên, trước các lệnh trừng phạt của phương Tây, người Nhật đã phải từ bỏ ý định này.[125]

Kể từ đầu năm 1941, hai nước Mỹ, Nhật đã ngồi vào bàn đàm phán nhằm cải thiện mối quan hệ căng thẳng song phương và chấm dứt chiến tranh ở Trung Quốc. Trong các cuộc đàm phán này, Nhật Bản đã đưa ra một số đề xuất mà người Mỹ bác bỏ vì họ cho rằng chúng không thỏa đáng.[126] Cũng trong lúc này, ba nước Hoa Kỳ, Anh và Hà Lan tham gia thảo luận bí mật nhằm lên kế hoạch phòng vệ trong trường hợp Nhật Bản tấn công bất kỳ ai trong số họ.[127] Roosevelt tăng cường quân lực tại Philippines (một quốc gia bảo hộ mà Mỹ dự kiến sẽ trao trả độc lập năm 1946) đồng thời cảnh báo Nhật Bản rằng Hoa Kỳ sẽ chống trả nếu Nhật Bản động binh đối với bất kỳ "quốc gia láng giềng" nào.[127]

Hoa Kỳ để mất USSArizona trong cuộc không kích bất ngờ của Nhật Bản nhằm vào Hạm đội Thái Bình Dương Hoa Kỳ tại căn cứ Trân Châu Cảng, chủ nhật ngày 7 tháng 9 năm 1941.

Thất vọng vì tình hình không mấy tiến triển tại Trung Quốc và cảm thấy bị chèn ép bởi các lệnh trừng phạt do Hoa Kỳ – Anh – Hà Lan áp đặt, Nhật Bản chuẩn bị cho chiến tranh. Vào ngày 20 tháng 11, nội các mới dưới quyền Tojo Hideki đưa ra đề nghị "cuối cùng", yêu cầu Hoa Kỳ chấm dứt viện trợ cho Trung Quốc, dỡ bỏ lệnh cấm vận cung cấp dầu và các nguồn tài nguyên khác cho Nhật Bản. Đổi lại, nước này hứa sẽ không nhòm ngó tới Đông Nam Á và rút quân đội ra khỏi miền nam Đông Dương.[126] Ngày 26 tháng 11, Hoa Kỳ trả lời, yêu cầu Nhật Bản phải rút quân khỏi Trung Quốc vô điều kiện và ký kết hiệp ước bất tương xâm với tất cả cường quốc Thái Bình Dương.[128] Lời đề nghị này đồng nghĩa với việc Nhật Bản về cơ bản buộc phải lựa chọn giữa việc từ bỏ tham vọng của mình ở Trung Quốc, hoặc chiếm các nguồn tài nguyên thiên nhiên ở Đông Ấn thuộc Hà Lan mà nước này cần bằng vũ lực.[129][130] Quân đội Nhật Bản không coi lời đề nghị của Hoa Kỳ như một phương án và nhiều sĩ quan đã xem lệnh cấm vận dầu mỏ là một lời tuyên chiến bất thành văn.[131]

Nhật Bản lên kế hoạch đánh chiếm các thuộc địa châu Á của phương Tây một cách nhanh chóng để tạo một vành đai phòng thủ lớn kéo dài đến Trung Thái Bình Dương. Theo kế hoạch, sau khi thực hiện được điều này, người Nhật sẽ có thể tự do khai thác các nguồn tài nguyên của Đông Nam Á trong khi họ sẽ lui về thế thủ[132][133] và cứ thế làm kiệt quệ các nước Đồng Minh vốn phải bố trí binh sĩ trên một mặt trận rộng. Để ngăn chặn sự can thiệp của Mỹ trong khi đảm bảo vành đai phòng thủ, kế hoạch tiếp tục của Nhật là vô hiệu hóa Hạm đội Thái Bình Dương của Hoa Kỳ và sự hiện diện quân sự của Hoa Kỳ tại Philippines ngay từ đầu.[134] Ngày 7 tháng 12 năm 1941 (ngày 8 tháng 12 theo múi giờ Châu Á), Nhật tuyên chiến với Hoa Kỳ và các nước Đồng Minh bằng việc tấn công gần như cùng lúc một số thuộc địa của các cường quốc châu Âu tại Đông Nam Á và Tây Thái Bình Dương,[135] gồm cả cuộc tấn công bất ngờ vào Trân Châu Cảng, Philippines, Guam, đảo Wake, Mã Lai, Thái Lan và Hồng Kông.[136]

Đối mặt với cuộc xâm lược của Nhật Bản, người Thái quyết định liên minh với người Nhật. Những cuộc tấn công của quân Nhật khiến Hoa Kỳ, Vương quốc Anh, Trung Quốc, Úc và một số quốc gia khác chính thức tuyên chiến với Nhật Bản, trong khi Liên Xô – đang sa lầy trong cuộc chiến quy mô lớn với các nước phe Trục Châu Âu – vẫn duy trì thỏa thuận trung lập với Nhật Bản. Đức, lấy lý do Roosevelt lệnh cho tàu chiến Hoa Kỳ tấn công tàu bè nước mình, đã cùng một số quốc gia phe Trục khác tuyên chiến với Hoa Kỳ theo cam kết ký với Nhật Bản.

Chặn đứng bước tiến của phe Trục

Tổng thống Hoa Kỳ Franklin D. Roosevelt và Thủ tướng Anh Winston Churchill ngồi cạnh nhau tại Hội nghị Casablanca, tháng 1 năm 1943

Vào ngày 1 tháng 1 năm 1942, Bốn ông lớn Đồng Minh[137] – Liên Xô, Trung Quốc, Vương quốc Anh và Hoa Kỳ – và 22 chính phủ nhỏ hơn hoặc lưu vong đã cùng nhau ban hành Tuyên bố chung Liên Hiệp Quốc, qua đó xác nhận Hiến chương Đại Tây Dương và thống nhất không nước nào được phép ký hòa ước riêng biệt với các nước phe Trục.[138]

Trong suốt năm 1942, giới quan chức Đồng Minh đã tranh luận về đại chiến lược phù hợp để theo đuổi. Tất cả đều nhất trí rằng việc đánh bại Đức là ưu tiên hàng đầu. Người Mỹ ủng hộ mở một cuộc tấn công trực diện quy mô lớn nhằm vào Đức thông qua Pháp. Liên Xô khi ấy cũng đang yêu cầu Đồng Minh phương Tây mở một mặt trận thứ hai. Ngược lại, người Anh cho rằng các nên nhắm các hoạt động quân sự vào các khu vực ngoại vi để làm hao mòn sức mạnh cũng như sĩ khí của người Đức, đồng thời hỗ trợ lực lượng kháng chiến. Bản thân nước Đức sẽ phải hứng chịu một chiến dịch không kích quy mô lớn. Tiếp đó, quân Đồng Minh sẽ phát động một cuộc tấn công chủ yếu sử dụng tăng thiết giáp thay vì sử dụng quân đội quy mô lớn.[139] Sau tất cả, người Anh thuyết phục người Mỹ rằng việc đổ bộ vào Pháp trong thời điểm năm 1942 là bất khả thi. Thay vào đó, họ nên tập trung lực lượng để đánh bật phe Trục khỏi Bắc Phi.[140]

Tại Hội nghị Casablanca đầu năm 1943, Đồng Minh nhắc lại các tuyên bố trong Tuyên bố năm 1942 và yêu cầu phe Trục đầu hàng vô điều kiện. Cả Anh lẫn Mỹ đồng ý tiếp tục đẩy mạnh thế chủ động Địa Trung Hải bằng cách xâm lược đảo Sicilia để đảm bảo tuyến đường tiếp tế hàng hải đi qua nơi đây.[141] Tuy người Anh ban đầu có ý định đổ bộ vào vùng Balkan nhằm tạo áp lực lên Thổ Nhĩ Kỳ khiến nước này tham chiến, nhưng họ đã phải làm theo kế hoạch của người Mỹ và chỉ hoạt động giới hạn tại Địa Trung Hải.[142]

Thái Bình Dương (1942–43)

Bản đồ phạm vi bành trướng của Nhật Bản tính tới giữa năm 1942

Đến cuối tháng 4 năm 1942, Nhật Bản và đồng minh Thái Lan đã chinh phục gần như toàn bộ Miến Điện, Mã Lai, Đông Ấn thuộc Hà Lan, Singapore và Rabaul, gây tổn thất nặng nề cho quân Đồng Minh và bắt một lượng lớn tù binh.[143] Bất chấp sự chống trả quyết liệt của quân đội Philippines và Hoa Kỳ, Thịnh vượng chung Philippines cuối cùng vẫn bị người Nhật đánh chiếm vào tháng 5 năm 1942, buộc chính quyền Manila phải lưu vong.[144] Vào ngày 16 tháng 4, 7.000 lính Anh bị Sư đoàn 33 của Nhật bao vây trong trận Yenangyaung tại Miến Điện nhưng may mắn được Sư đoàn 38 của Trung Quốc giải cứu.[145] Bên cạnh lục quân, Hải quân Nhật Bản giành nhiều thắng lợi trên Biển Đông, Biển Java và Ấn Độ Dương. Hạm đội Nhật gồm tàu sân bay tiến xa tới vùng biển thuộc Úc, tiến hành ném bom căn cứ hải quân của Đồng Minh tại Darwin.[146] Suốt cả tháng 1 năm 1942, chiến thắng của Trung Quốc tại Trường Sa là thắng lợi duy nhất của Đồng Minh trước quân Nhật.[147] Những chiến thắng dễ dàng trước các đối phương Tây không chuẩn bị trước đã khiến quân Nhật trở nên tự đắc và phân tán lực lượng quá mỏng trên khắp mọi mặt trận.[148]

Đầu tháng 5 năm 1942, Nhật Bản lên kế hoạch đánh chiếm Cảng Moresby bằng một cuộc tấn công đổ bộ với mục tiêu cô lập hai nước Úc, New Zealand với đồng minh Hoa Kỳ bằng cách cắt đứt tuyến đường liên lạc và tiếp tế giữa các nước này. Kế hoạch xâm lược bị cản trở khi một đơn vị tác chiến đặc biệt của Đồng Minh, dẫn đầu bởi hai tàu sân bay của hạm đội Mỹ, cầm hòa hải quân Nhật Bản trong trận chiến biển San Hô.[149] Nhằm đáp trả Cuộc không kích Doolittle, Nhật Bản lên kế hoạch chiếm Rạn san hô vòng Midway và dụ tàu sân bay Mỹ tham chiến rồi nhân cơ hội đó tiêu diệt. Để dương đông kích tây, Nhật Bản dự kiến gửi một đội hình tới chiếm quần đảo Aleutian ở Alaska.[150] Vào giữa tháng 5, Nhật Bản khởi động chiến dịch Chiết Giang - Giang Tây ở Trung Quốc, mục đích trả thù người Trung Quốc vì đã hỗ trợ phi công Mỹ sống sót sau Cuộc không kích Doolittle. Người Nhật đối đầu với Quân đoàn 23 và 32 của Trung Quốc và phá hủy các căn cứ không quân của nước này.[151][152]

Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ trong chiến dịch Guadalcanal, Chiến tranh Thái Bình Dương, 1942

Nhật Bản bắt đầu triển khai kế hoạch vào đầu tháng 6. Tuy nhiên, người Mỹ sau khi giải mã được các mật mã của hải quân Nhật hồi cuối tháng 5 đã nắm rõ kế hoạch cũng như trình tự tác chiến của người Nhật. Họ sử dụng khám phá này để giành chiến thắng quyết định trong trận Midway trước Hải quân Đế quốc Nhật Bản.[153] Khả năng tác chiến của người Nhật sụt giảm đáng kể sau thất bại nặng nề này. Trong một nỗ lực muộn màng, Nhật Bản tập trung lực lượng cố gắng đánh chiếm căn cứ Port Moresby trên Lãnh thổ Papua.[154] Người Mỹ lên kế hoạch phản công nhằm chiếm lại căn cứ tiền phương của người Nhật ở phía Nam quần đảo Solomon làm bước đầu tiên trong kế hoạch tái chiếm Rabaul – căn cứ chính của quân Nhật tại Đông Nam Á.[155]

Cả hai kế hoạch được tiến hành vào tháng 7, nhưng đến giữa tháng 9, người Nhật vì ưu tiên Guadalcanal đã ra lệnh rút quân khỏi khu vực Port Moresby đến phần phía Bắc của đảo New Guinea. Tại đây, quân Nhật đụng độ với quân đội Úc và Hoa Kỳ trong trận Buna – Gona.[156] Guadalcanal nhanh chóng trở thành chiến trường ác liệt, cả hai bên đều phải hứng chịu thất bại nặng nề về quân số lẫn tàu bè trong cuộc kịch chiến. Đến đầu năm 1943, quân Nhật bị đánh bại và buộc phải rút khỏi đảo.[157] Trên đất liền Đông Nam Á, Nhật tiến nhanh vào sâu thuộc địa của Anh cho đến khi gặp phải sự kháng cự mãnh liệt tại Miến Điện. Quân đội Khối thịnh vượng chung Anh triển khai tác chiến tại vùng Arakan vào cuối năm 1942 nhưng phải rút về Ấn Độ vào tháng 5 năm 1943 sau khi thất bại thảm hại.[158] Tháng 2 năm 1943, người Anh sử dụng lính không chính quy quấy nhiễu hậu phương của quân Nhật và thu về những kết quả khác nhau.[159]

Mặt trận Xô – Đức (1942–43)

Lính Hồng Quân phản công trong trận Stalingrad, tháng 2 năm 1943

Tuy bị thiệt hại đáng kể, nhưng vào đầu năm 1942, Đức và đồng minh đã chặn đứng một cuộc tấn công quy mô lớn của Liên Xô tại miền trung và miền nam nước Nga, bảo toàn hầu hết lãnh thổ mà họ chiếm được năm trước đó.[160] Vào tháng 6, sau khi đánh bại Liên Xô tại Bán đảo Kerch và Kharkov,[161] Đức phát động tấn công vào phía Nam nhằm chiếm vùng sản xuất dầu mỏ chiến lược ở Kavkaz và thảo nguyên Kuban, trong khi án binh bất động tại các vị trí ở phía bắc và trung tâm của chiến tuyến. Quân Đức chia Cụm tập đoàn quân Nam thành hai tập đoàn quân: Tập đoàn quân A được lệnh tiến đến hạ lưu sông Don và đánh về hướng đông nam tới dãy Kavkaz, trong khi Tập đoàn quân B tiến về phía sông Volga. Liên Xô quyết định tử thủ tại thành phố Stalingrad bên bờ Tây sông Volga nhằm chặn đứng đường tiến quân của Đức.[162]

Đến giữa tháng 11, khi quân Đức gần như đã chiếm được Stalingrad sau những trận giao tranh trên đường phố ác liệt và đẫm máu thì cũng là thời điểm mùa đông khắc nghiệt ập đến. Lợi dụng quân Đức đã kiệt sức, Liên Xô tung đòn phản công, bắt đầu bằng một cuộc tấn công không thành công vào "chỗ lồi" Rzhev gần Moskva[163] và một cuộc tấn công vu hồi gồm hai gọng kìm đánh vào cạnh sườn khiến hơn 30 vạn quân Đức rơi vào vòng vây siết chặt tại Stalingrad.[164] Đến đầu tháng 2 năm 1943, Hồng quân tiêu diệt hoàn toàn quân Đức tại Stalingrad,[165] đẩy lùi chiến tuyến Xô – Đức về vị trí cũ trước cuộc tấn công mùa hè. Đến giữa tháng 2, khi bước tiến của Liên Xô dần khựng lại, quân Đức – với hy vọng xoay chuyển tình thế – mở một cuộc tấn công khác vào Kharkov, tạo nên một chiến tuyến hình vòng cung xung quanh thành phố Kursk của Liên Xô.[166]

Tây Âu, Đại Tây Dương và Địa Trung Hải (1942–43)

Khai thác các quyết định chỉ huy kém hiệu quả của hải quân Hoa Kỳ, hải quân Đức tiến hành quấy nhiễu, tàn phá tuyến đường vận tải hàng hải của Đồng Minh ngoài khơi bờ biển Đại Tây Dương của Mỹ. Tại Bắc Phi, quân đội Khối thịnh vượng chung mở một cuộc phản công mang mật danh "Crusader" vào tháng 11 năm 1941 và đoạt lại tất cả vùng đất mà liên quân Đức – Ý chiếm được trước đó. Đáp trả, quân Đức mở cuộc tấn công vào tháng 1, đẩy quân Anh trở lại vị trí ở phòng tuyến Gazala vào đầu tháng 2. Chiến sự bước vào khoảng thời gian tạm lắng mà Đức sử dụng để chuẩn bị cho những cuộc tấn công sắp tới của họ. Lo ngại người Nhật có thể sử dụng các căn cứ ở Madagascar do chính phủ Vichy nắm giữ đã, người Anh quyết định xâm chiếm hòn đảo này vào đầu tháng 5 năm 1942. Tại Lybia, quân đội phe Trục đã buộc Đồng Minh phải rút lui sâu bên trong Ai Cập trước khi bị chặn lại ở El Alamein. Trên lục địa Âu châu, Đồng Minh tổ chức các cuộc đột kích nhằm vào các mục tiêu chiến lược, đỉnh điểm là trận Dieppe đẫm máu. Thiệt hại quá nặng nề mà không đạt được kết quả nào, cuộc tấn công tại Dieppe củng cố nhận định của các tướng lĩnh Anh rằng quân của họ sẽ không thể bám trụ nổi sau khi đổ bộ lên đất đối phương.

Đến tháng 12 năm 1941, quân Đức thất bại trong trận đánh trước cửa ngõ Moskva. Mặt trận Xô–Đức thu hút tất cả lực lượng của Đức và buộc họ cắt giảm lực lượng cho các mặt trận khác. Quân Đức ở Bắc Phi bị thiếu đạn dược, nhiên liệu nên không thể tiếp tục tấn công. Vào đầu năm 1942, việc Anh thắng lợi trong cuộc đánh bại lực lượng hải quân Ý khiến phía Đồng Minh có thêm quân nhu và vật chất. Việc này cho phép các lực lượng Anh dồn toàn lực cho trận El Alamein thứ hai và dành thắng lợi. Người Anh, tuy phải trả giá đắt, nhưng đã có thể cung ứng nguồn cung cấp cần thiết cho đảo Malta khi ấy đang bị phe Trục bao vây. Vài tháng sau, quân Đồng Minh phát động tấn công đánh bật quân đội phe Trục khỏi Ai Cập và bắt đầu tiến quân về phía tây. Vào tháng 11 năm 1942, tình trạng càng tệ hơn cho quân Trục khi Hoa Kỳ và Anh thực hiện Chiến dịch Bó Đuốc, đổ bộ vào Maroc, bao vây các lực lượng phe Trục. Ngay lập tức, các thuộc địa Pháp ở Bắc Phi đổi phe. Hitler đáp trả bằng cách ra lệnh chiếm đóng lãnh thổ Vichy. Dù quân đội Vichy không làm gì để chống lại sự vi phạm hiệp ước đình chiến này nhưng họ đã cố gắng di chuyển hạm đội để ngăn chặn nó rơi vào tay người Đức. Quân Trục tại Châu Phi rút lui về Tunisia và bị đánh bật hoàn toàn khỏi Bắc Phi vào tháng 5 năm 1943.

Tháng 6 năm 1943, Anh và Hoa Kỳ khai màn chiến dịch ném bom chiến lược nhằm vào nước Đức, mục tiêu làm suy giảm nhuệ khí, phá hủy nhà cửa của thường dân và phá vỡ nền kinh tế thời chiến của nước này. Trận oanh tạc Hamburg là một trong những cuộc tấn công đầu tiên trong chiến dịch này, gây ra thương vong đáng kể về người và thiệt hại lớn đối với cơ sở hạ tầng của trung tâm công nghiệp quan trọng này.

Đồng Minh giành thế chủ động (1943–44)

Máy bay trinh thám SBD-5 của Hải quân Hoa Kỳ trên tàu USSWashington và USSLexington trong Chiến dịch quần đảo Gilbert và Marshall, 1943

Sau khi chiến dịch Guadalcanal kết thúc, người Mỹ bắt đầu triển khai một loạt hoạt động quân sự chống lại Nhật Bản ở Thái Bình Dương. Tháng 5 năm 1943, liên quân Canada và Hoa Kỳ được cử đến Alaska nhằm đuổi quân Nhật khỏi quần đảo Aleutian.[167] Ngay sau đó, Hoa Kỳ – với sự hỗ trợ từ Úc, New Zealand và các quốc đảo Thái Bình Dương – bắt đầu nhiều chiến dịch lớn trên bộ, trên biển và trên không, mục tiêu cô lập căn cứ Nhật tại Rabaul bằng cách chiếm các đảo xung quanh và phá vỡ vành đai phòng thủ ở Trung tâm Thái Bình Dương (tại quần đảo Gilbert và Marshall) của Nhật.[168] Cuối tháng 3 năm 1944, quân Đồng Minh đã hoàn thành cả hai mục tiêu này đồng thời vô hiệu hóa được căn cứ trọng điểm của Nhật tại Truk thuộc quần đảo Caroline. Sang tháng 4, quân Đồng Minh tiếp tục triển khai một chiến dịch khác và thành công chiếm lại miền Tây New Guinea.[169]

Tại châu Âu, cả người Đức và người Liên Xô đã dành cả mùa xuân và đầu mùa hè năm 1943 để chuẩn bị cho các cuộc tấn công lớn ở miền trung nước Nga. Ngày 4 tháng 7 năm 1943, tại trận Vòng cung Kursk, Đức đã tung ra những đơn vị thiết giáp lớn hòng xoay chuyển tình thế, Kursk trở thành "trận đấu xe tăng lớn nhất" trong lịch sử thế giới. Trong vòng một tuần, quân Đức kiệt sức trước tuyến phòng thủ được bố trí theo hình bậc thang và tổ chức tốt của Liên Xô.[170] Lần đầu tiên trong cuộc chiến, Hitler đã hủy bỏ chiến dịch trước khi đạt được thành công về mặt chiến thuật hay tác chiến.[171] Quyết định này bị ảnh hưởng một phần bởi tin tức miền Nam nước Ý bị Đồng Minh phương Tây tấn công vào ngày 9 tháng 7. Kết hợp với những thất bại trước đó của Ý, cuộc đổ bộ lên đảo Sicilia dẫn đến việc lật đổ và bắt giữ Mussolini vào cuối tháng đó.[172]

Binh sĩ Hồng quân tấn công vị trí của quân Đức trong Trận vòng cung Kursk, tháng 7 năm 1943

Vào ngày 12 tháng 7 năm 1943, Liên Xô triển khai chiến dịch Kutuzov tại khu vực phía bắc vòng cung Kursk, qua đó xóa tan bất kỳ cơ hội chiến thắng nào hoặc thậm chí là đưa chiến sự vào thế bế tắc của Đức ở phía Đông. Chiến thắng của Liên Xô tại Kursk đẩy quân Đức vào thế bị động,[173] quân Liên Xô giữ thế chủ động và phát động tấn công liên tục trên khắp các mặt trận.[174][175] Đức cố gắng ổn định mặt trận phía Đông dọc theo tuyến Panther-Wotan được gia cố gấp rút. Tuyến phòng thủ của Đức bị Liên Xô chọc thủng tại Smolensk và một đoạn ở phía bắc biển Đen trong Chiến dịch tấn công Hạ Dniepr.[176]

Vào ngày 3 tháng 9 năm 1943, Đồng Minh phương Tây đổ bộ lên đất liền Ý. Quân đội Ý không lâu sau đó đã đơn phương ký hiệp định đình chiến với quân Đồng Minh.[177] Đức, với sự giúp đỡ của lực lượng Phát xít Ý trung thành với Mussolini, đã đáp trả bằng cách giải giáp binh lính Ý không có cấp trên chỉ huy. Đức nhanh chóng giành quyền kiểm soát quân sự trên nhiều khu vực của Ý và nhanh chóng xây dựng một loạt tuyến phòng thủ.[178] Lực lượng đặc biệt của Đức đã tiến hành giải cứu Mussolini, người sau đó được phía Đức dựng lên làm nguyên thủ quốc gia của nhà nước chư hầu mang tên Cộng hòa Xã hội Ý, mở ra cuộc nội chiến Ý.[179] Đồng Minh phương Tây chọc thủng nhiều phòng tuyến của Đức ở miền nam nước Ý trước khi tiến đến tuyến phòng thủ chính vào giữa tháng 11.[180]

Các hoạt động quân sự của Hải quân Đức ở Đại Tây Dương cũng bị ảnh hưởng. Đến tháng 5 năm 1943, khi các biện pháp đối phó của Đồng minh ngày càng có hiệu quả, đội tàu ngầm Đức phải hứng chịu tổn thất đáng kể khiến họ phải đình chỉ hoạt động tại Đại Tây Dương.[181] Vào tháng 11 năm 1943, Franklin D. Roosevelt và Winston Churchill gặp Tưởng Giới Thạch ở Cairo và sau đó với Iosif Stalin tại Tehran.[182] Hội nghị Cairo xác định Nhật Bản sẽ phải trả lại các lãnh thổ mà họ chiếm được sau khi chiến tranh kết thúc.[183] Hội nghị cũng lên kế hoạch quân sự cho chiến dịch Miến Điện. Tại Tehran, các bên thỏa thuận rằng Đồng Minh phương Tây sẽ xâm lược châu Âu vào năm 1944 và Liên Xô sẽ tuyên chiến với Nhật Bản trong vòng ba tháng kể từ ngày Đức bị đánh bại.[184]

Tàn tích của tu viện dòng Thánh Biển Đức trong trận Monte Cassino, Chiến dịch Ý, tháng 5 năm 1944

Kể từ tháng 11 năm 1943, trong trận Thường Đức kéo dài bảy tuần, người Trung Quốc – trong khi chờ đợi Đồng Minh tăng viện – đã buộc Nhật Bản phải trả giá cao trong một cuộc chiến tiêu hao.[185][186][187] Tháng 1 năm 1944, quân Đồng Minh triển khai một loạt cuộc tấn công ở Ý nhằm vào phòng tuyến của Đức tại Monte Cassino. Liên quân Hoa Kỳ, Anh, Canada và Vương quốc Ý cố gắng đánh bọc sườn phòng tuyến này bằng cách đổ bộ tại Anzio và giành thắng lợi.[188]

Vào ngày 27 tháng 1 năm 1944, Hồng quân Liên Xô triển khai cuộc tổng tấn công đuổi quân Đức ra khỏi khu vực Leningrad, giải vây thành phố này sau 900 ngày, kết thúc cuộc bao vây đẫm máu nhất trong lịch sử chiến tranh.[189] Cùng thời điểm, Hồng quân tiến sát tới biên giới tiền chiến của Estonia thị bị Cụm tập đoàn quân Bắc chặn lại. Người Đức được người Estonia hỗ trợ với hy vọng tái lập nền độc lập quốc gia. Sự đình trệ này đã làm chậm các hoạt động tác chiến tiếp theo của Liên Xô ở khu vực Baltic.[190] Cuối tháng 5 năm 1944, Liên Xô giải phóng Crimea, đánh đuổi phần lớn lực lượng phe Trục khỏi Ukraina. Họ tiếp tục thực hiện các cuộc tấn công vào Romania nhưng bị quân Trục đẩy lui.[191] Tại Ý, quân Đồng Minh thành công đánh bật người Đức khỏi phòng tuyến gần Roma dù đã để cho một số sư đoàn Đức rút lui. Vào ngày 4 tháng 6, thủ đô Roma rơi vào tay Đồng Minh.[192]

Quân Đồng Minh thu về những kết quả thắng bại lẫn lộn trên lục địa châu Á. Tháng 3 năm 1944, quân Nhật triển khai chiến dịch tấn công vào Assam, Ấn Độ,[193] nhanh chóng bao vây các vị trí của Anh tại Imphal và Kohima.[194] Tháng 5 năm 1944, quân đội Anh tiến hành phản công buộc quân Nhật phải rút về Miến Điện trong tháng 7.[194] Trước đó, vào cuối năm 1943, quân đội Trung Quốc từ Vân Nam đã tràn vào miền bắc Miến Điện và bao vây quân Nhật tại Myitkyina.[195] Nhật Bản triển khai một cuộc tấn công khác với mục tiêu tiêu diệt các đạo quân chủ lực của Trung Quốc, bảo đảm tuyến đường sắt kết nối các lãnh thổ do Nhật Bản chiếm giữ và đánh chiếm các sân bay của quân Đồng Minh.[196] Đến tháng 6 năm 1944, quân Nhật đã chiếm được Hà Nam và đang chuẩn bị mở một cuộc tấn công mới vào Trường Sa.[197]

Đồng Minh áp sát

Quân đội Mỹ tiếp cận Bãi biển Omaha trong Cuộc đổ bộ Normandie, ngày 6 tháng 6 năm 1944

Sau 3 năm chịu áp lực từ phía Liên Xô, Đồng Minh phương Tây cuối cùng cũng đã quyết định mở một mặt trận thứ hai.[198] Vào ngày 6 tháng 6 năm 1944 (được gọi là D-Day), các lực lượng Đồng Minh phương Tây đồng loạt đổ bộ vào bờ biển Normandie. Chiến dịch diễn ra rất khốc liệt, phe Đồng Minh đã gặp rất nhiều khó khăn và phải hứng chịu tổn thất lớn dù áp đảo về quân số và trang bị. Tuy nhiên họ dần giành lấy ưu thế và buộc người Đức phải rút khỏi miền bắc nước Pháp. Quân Đồng Minh đồng thời điều động một số sư đoàn khỏi Ý để tấn công vào vùng Provence, thành công đẩy lui quân Đức ra khỏi nước Pháp.[199] Ngày 25 tháng 8, Paris được giải phóng bởi lực lượng kháng chiến và quân đội Pháp tự do do Tướng Charles de Gaulle chỉ huy.[200] Nhân đà thắng lợi, quân Đồng Minh phương Tây tiếp tục đẩy lùi quân Đức trên mặt trận Tây Âu cho đến hết năm. Tuy nhiên, kế hoạch xâm lược miền Bắc nước Đức, mở đầu bằng một chiến dịch hàng không tại Hà Lan, đã thất bại.[201] Đồng minh phương Tây từ từ áp sát nước Đức nhưng không thể chọc thủng phòng tuyến cuối cùng tại sông Rur.[202]

Binh sĩ SS Đức trực thuộc Lữ đoàn Dirlewanger, được giao nhiệm vụ đàn áp cuộc Khởi nghĩa Warszawa, tháng 8 năm 1944

Đến cuối năm 1944, Liên Xô đã giành lại được hầu hết số lãnh thổ bị Đức chiếm đóng và liên tục đẩy lùi lực lượng ngày càng suy yếu của Đức về phía tây. Vào ngày 22 tháng 6, Liên Xô mở một cuộc tấn công chiến lược tại Belarus ("Chiến dịch Bagration") tiêu diệt gần như hoàn toàn Cụm tập đoàn quân Trung tâm của Đức.[203] Sau thành công này, Liên phát động liên tiếp các đòn tấn công khác buộc quân Đức phải rút khỏi miền Tây Ukraina và miền Đông Ba Lan. Liên Xô thành lập Ủy ban Giải phóng Quốc gia Ba Lan để kiểm soát lãnh thổ nước này và đối phó với lực lượng Armia Krajowa trung thành với Chính phủ Ba Lan lưu vong ở Luân Đôn.[204] Hồng quân Liên Xô dừng lại tại quận Praga ở phía bên kia bờ sông Vistula và theo dõi quân Đức dập tắt Khởi nghĩa Warszawa do Armia Krajowa khởi xướng một cách thụ động. Cuộc nổi dậy toàn quốc ở Slovakia cũng bị quân Đức dập tắt.[205] Tại miền đông Romania, cuộc tấn công chiến lược của Hồng quân Liên Xô đã tiêu diệt một lượng lớn quân Đức tại đó, đồng thời kích động hai cuộc đảo chính thành công tại Romania và Bulgaria dẫn đến việc hai nước này chuyển sang phe Đồng Minh.[206]

Vào tháng 9 năm 1944, quân đội Liên Xô tiến vào Nam Tư khiến hai Tập đoàn quân E và F của Đức phải rút lui một cách gấp gáp khỏi Hy Lạp, Albania và Nam Tư để tránh bị cô lập hoàn toàn.[207] Đến thời điểm này, lực lượng kháng chiến do Cộng sản lãnh đạo dưới sự chỉ huy của Thống chế Josip Broz Tito, đã kiểm soát phần lớn lãnh thổ của Nam Tư và tham gia cầm chân quân đội Đức ở phía nam. Tại miền bắc Serbia, Hồng quân Liên Xô, với sự giúp đỡ hạn chế từ quân đội Bulgaria, đã hỗ trợ quân kháng chiến giải phóng Beograd vào ngày 20 tháng 10. Vài ngày sau, Liên Xô mở một cuộc tấn công quy mô lớn vào Hungary. Chiến dịch kết thúc khi Budapest thất thủ vào tháng 2 năm 1945.[208] Trái ngược với những chiến thắng ấn tượng của Liên Xô tại Balkan, sự kháng cự gay gắt của người Phần Lan tại eo đất Karelia đã ngăn chặn Liên Xô chiếm đóng nước này. Kết quả là hai nước Liên Xô-Phần Lan ký kết hiệp định đình chiến với những điều kiện tương đối nhẹ nhàng,[209] dù nước này bị buộc phải tham gia phe Đồng Minh chống lại Đức.[210]

Tướng Douglas MacArthur quay trở lại Philippines trong Trận Leyte, 20 tháng 10 năm 1944

Đến đầu tháng 7 năm 1944, quân đội Khối thịnh vượng chung ở Đông Nam Á đã thành công đẩy lùi bước tiến của quân Nhật tại Assam, buộc quân Nhật phải rút lui về sông Chindwin[211] trong khi quân Trung Quốc chiếm được Myitkyina. Tháng 9 năm 1944, quân Trung Quốc chiếm được núi Song và khai thông lại tuyến đường Miến Điện.[212] Quân Nhật thành công hơn ở Trung Quốc khi họ cuối cùng cũng chiếm được Trường Sa vào giữa tháng 6 và Hành Dương vào đầu tháng 8. Người Nhật sau đó đã tổ chức tấn công vào tỉnh Quảng Tây, giành chiến thắng tại Quế Lâm và Liễu Châu vào cuối tháng 11,[213] thành công liên kết lực lượng ở Trung Quốc và Đông Dương lại với nhau vào giữa tháng 12.[214]

Tại Thái Bình Dương, người Mỹ tiếp tục đẩy lùi vành đai phòng thủ của quân Nhật. Vào giữa tháng 6 năm 1944, quân đội Hoa Kỳ đã chiếm lại Mariana và Palau từ tay Nhật với chiến thuật "nhảy cừu", đồng thời đánh bại hải quân Nhật trong trận chiến trên Biển Philippines. Những thất bại này đã buộc Thủ tướng Nhật Bản Tojo Hideki phải từ chức, đồng thời cho phép Mỹ sử dụng các căn cứ không quân để tiến hành oanh tạc bằng máy bay ném bom hạng nặng nhằm vào quần đảo Nhật Bản. Cuối tháng 10, lực lượng Hoa Kỳ đánh chiếm hòn đảo Leyte của Philippines; ngay sau đó, lực lượng hải quân Đồng Minh giành được một chiến thắng lớn khác trước lực lượng của Nhật Bản trong trận Vịnh Leyte, một trong những trận hải chiến lớn nhất trong lịch sử nhân loại.[215]