So sánh cấu trúc nguồn luật của anh và mỹ năm 2024

Anh và Mỹ là hai quốc gia thuộc dòng họ Common law nên hệ thống pháp luật (HTPL) của hai nước có những nét tương đồng nhất định. Tuy nhiên không phải vì thế mà chúng không có điểm khác biệt, điều này được thể hiện rõ qua cấu trúc nguồn luật của hai HTPL.

1. Những điểm tương đồng

– Trong cấu trúc nguồn luật của 2 quốc gia đều có án lệ, các văn bản pháp luật (VBPL) và các tác phẩm của các học gia pháp lý có uy tín.

– Án lệ là nguồn luật được sử dụng phổ biến nhất. Án lệ của Anh và Mĩ đều có chung nguyên tắc Stare decisis, đều được ghi chép, xuất bản để sử dụng.

– Cả Anh và Mỹ đều thừa nhận và sử dụng các tác phẩm của các học giả pháp lí giống như là một nguồn luật. Các tác phẩm này thường được trích dẫn bởi các luật sư và thẩm phán trong quá trình hành nghề luật.

– Luật thành văn ngày càng được coi trọng trong hệ thống nguồn luật của 2 quốc gia.

2. Những nét khác biệt

– Số lượng nguồn luật của HTPL Anh phong phú hơn: Mỹ có 3 loại (Án lệ, Luật thành văn và các tác phẩm của học gia pháp lý), còn Anh có tới 5 loại (Án lệ, Luật thành văn, Luật Liên minh Châu Âu, Tập quán pháp địa phương và các tác phẩm có uy tín).

– Điểm khác biệt trong một số loại nguồn cụ thể:

+ Án l

Ở Anh, án lệ được áp dụng một cách tuyệt đối, còn ở Mỹ chỉ chấp nhận thụ động án lệ – một thứ cứng nhắc và ra đời từ rất lâu không phù hợp với người Mỹ. Cùng áp dụng “nguyên tắc stare decicis” trong việc sử dụng án lệ, tuy nhiên ở Anh nguyên tắc này được thực hiện chặt chẽ, khắt khe hơn. Theo pháp luật Anh, án lệ của cấp trên có tính bắt buộc đối với cấp dưới và ngay cả chính mình. Vì vậy, các thẩm phán ở Anh không muốn phủ nhận những phán quyết trước đó của mình hoặc đào sâu hơn khi xét xử vụ án.

Ở Mĩ, phán quyết của các tòa án tối cao ở cấp bang và liên bang không chịu sự ràng buộc của chính mình; tòa án bang không bị bắt buộc tuân thủ án lệ của các tòa án ở các bang khác, tuy nhiên các phán quyết phù hợp của các tòa án bang khác thường được viện dẫn, giá trị thuyết phục phụ thuộc vào việc tòa án nào đã đưa ra quyết định đó.

+ Luật thành văn

Anh không có hiến pháp thành văn còn Mỹ thì ngược lại. Các qui định có bản chất của hiến pháp Anh có thể tìm thấy trong đặc quyền Hoàng gia, trong một số truyền thống, án lệ cũng như văn bản pháp luật do Nghị viện ban hành.

Ở Mỹ: Liên bang và các bang đều có hiến pháp viết. Hiến pháp Mỹ được coi là đạo luật cơ bản của quốc gia. Do đó, bất kể nguồn luật nào trên nước Mỹ đều không được trái với nội dung Hiến pháp.

Các VBPL ở Anh gồm: VBPL do Nghị viện trực tiếp ban hành và VBPL Nghị viện ủy quyền ban hành. Luật do Nghị viện ban hành có hiệu lực cao hơn án lệ do thẩm phán làm ra. Luật thường bổ sung hay thay thế án lệ. Các VBPL địa phương do chính quyền địa phương ban hành. Ở Mỹ, có rất nhiều đạo luật cả ở cấp Liên bang và cấp Bang. Ngoài Hiến pháp Mỹ, các đạo luật do Quốc hội Mỹ thông qua có giá trị pháp lí cao nhất, cao hơn phán quyết của Tòa án cấp Liên bang và cấp Bang và cao hơn các đạo luật tương ứng của các Bang. Mỗi Bang của Mỹ đều có quyền ban hành luật riêng áp dụng trong Bang.

Có ý kiến cho rằng, pháp luật Vương quốc Anh chịu ảnh hưởng lớn từ luật La Mã. Ý kiến trên đúng hay sai? Giải thích Hình thành và phát triển trên cơ sở pháp luật dân sự của nước Anh là pháp luật coi trọng tiền lệ. Hệ thống pháp luật Anh - Mỹ ít chịu sự ảnh hưởng của pháp luật La Mã bởi tính phức tạp và chặt chẽ trong thủ tục tố tụng truyền thống của pháp luật Anh đã cản trở việc tiếp nhận luật La Mã vào lãnh thổ nước Anh. Nguồn pháp luật chủ yếu của hệ thống pháp luật Anh - Mỹ là án lệ, phần lớn các chế định và quy phạm pháp luật được hình thành không phải bằng việc ban hành văn bản pháp quy mà bằng án lệ. Các phán quyết tại các toà án cấp cao thường được coi là án lệ và có giá trị bắt buộc đối với các toà án địa phưcmg. Hiện nay mặc dù các văn bản quy phạm pháp luật ở các nước này cũng được ban hành khá nhiều, nhưng các thẩm phán vẫn dựa vào cả án lệ, văn bản quy phạm pháp luật và những căn cứ thực tế để xét xử.

  • Anh chị hãy chứng minh: Án lệ của Vương quốc Anh ra đời từ thực tiễn xét xử.
  • Trình bày các loại nguồn của pháp luật Vương quốc Anh và Hoa Kỳ.
  • Anh/chị hãy so sánh toà án Vương quốc Anh trước và sau cải cách toà án.
  • Trình bày việc đào tạo luật ở Vương quốc Anh và Hoa Kỳ.
  • Trình bày nghề luật ở Vương quốc Anh và Hoa Kỳ.
  • So sánh việc đào tạo luật ở Hoa Kỳ và Việt Nam.
  • Anh/chị hãy vẽ sơ đồ và trình bày sơ nét hệ thống toà án Vương quốc Anh và Hoa Kỳ
  • So sánh hệ thống toà án Hoa Kỳ và hệ thống toà án Việt Nam. Một số gợi mở cho việc cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay.

Án lệ của Vương quốc Anh ra đời từ thực tiễn xét xử Án lệ (Jurisprudence)

Án lệ được hiểu là bản án đã tuyên hoặc sự giải thích, áp dụng pháp luật được coi như tiền lệ làm cơ sở để các thẩm phán sau đó có thể áp dụng trong các trường hợp tương tự.

Ở Anh (và các nước thông luật khác), án lệ ra đời trong những điều kiện sau đây:

  • Khi chưa có luật nhưng tòa vẫn phải xử để bảo đảm công lý và bản án đó trở thành án lệ (precedent), nghĩa là trở thành luật cho những vụ việc tương tự. Khi phán quyết đã được tuyên, nó phải được coi là giải pháp cho vấn đề tương tự sau này; thẩm phán phải tuân theo phán quyết của vụ án tương tự được xử trước đó.
  • Khi luật không rõ ràng, thẩm phán phải tự mình nhận thức, giải thích luật và thể hiện nhận thức trong bản án. Bản án trở thành luật cho những tình huống tương tự.
  • Đã có luật nhưng phát sinh tình huống mới mà luật chưa dự liệu được nên thẩm phán phải vận dụng luật hiện hành cho tình huống mới đó. Khi đưa ra phán quyết cho một vụ án, có hai nhiệm vụ cơ bản: thứ nhất, xác định sự thật là gì, có nghĩa là điều gì đã xảy ra; thứ hai, pháp luật áp dụng như thế nào đối với những sự kiện đó. Việc thực hiện nhiệm vụ thứ hai có thể tạo ra án lệ, dựa trên quan niệm cho rằng một phán quyết đã được đưa ra dựa trên cách thức áp dụng luật cho tình tiết/tập hợp các tình tiết cu thể của vụ việc thì với những tình tiết tương tự trong các vụ việc xảy ra sau đó cũng nên được áp dụng luật theo hướng như vậy, theo nguyên tắc stare decisis (nguyên tắc tuân thủ những gì đã quyết). Vào thế kỷ XII nước Anh thành lập hệ thống Tòa án Hoàng gia, dần dần thay thế các toà truyền thống và nhanh chóng được các bên ưa chuộng. Thẩm phán Hoàng gia Anh trở thành thẩm phán “lưu động” đi xét xử khắp đất nước và họ làm quen với các tập quán khác nhau. Hàng năm các thẩm phán này tập trung về London để trao đổi kinh nghiệm xét xử thảo luận với nhau, so sánh điểm mạnh yếu của chúng, từ đó thống nhất nguyên tắc xét xử. Kết quả là các thẩm phán Hoàng gia ngày càng áp dụng thường xuyên hơn các quy định pháp luật giống nhau trên khắp đất nước từ đó mà án lệ ra đời. Trong một thời gian dài Common Law đã giữ vị trí độc tôn trong hệ thống pháp luật Anh. Tới thế kỷ XVI sự ra đời của Luật Công Bình (Equity Law) đã dẫn đến Common Law và Luật Công Bình tồn tại song song với nhau. Cả Common Law và Luật Công Bình đều tạo ra án lệ. Vào thế kỷ XVII, trào lưu luật La Mã xâm nhập vào Châu Âu và dần khẳng định được vị trí của mình thì lúc đó Commom Law gặp khó khăn. Nhà vua muốn áp dụng luật thành văn để kiểm soát công tác xét xử của các thẩm phán, đồng thời để củng cố quyền lực của mình hơn nữa việc áp dụng luật thành văn cũng thể hiện được tính ưu việt trong hoạt động xét xử. Trong khi đó nghị viện lại mong muốn duy trì Common Law để giữ vị trí của mình và dần tách khỏi sự kiểm soát của nhà vua, cuộc đấu tranh giữa hai xu thế này đưa đến kết quả Common Law đã thắng, án lệ tiếp tục được sử dụng trong hoạt động xét xử.

Năm 1789 cách mạng tư sản Pháp thành công xác lập sự tối cao của luật thành văn đã có ảnh hưởng không nhỏ và gây sóng gió cho Common Law, vì tư tưởng này được lan rộng ở các nước châu Âu. Tuy nhiên vào thời điểm đó Anh vẫn là một đế chế hùng mạnh với hệ thống thuộc địa lớn nhất thế giới,

Chế định, hình thái: Trust - Trách nhiệm thực đúng, nghĩa vụ thực hiện

Đặc trưng của hệ thống pháp luật thông luật - Là hệ thống pháp luật dựa trên các bản án có chức năng, lẽ tương tự nhau, - Những học thuyết có tính phân tầng của tiền lệ án; - Nguồn của pháp luật bao gồm tạo luật cũng như án lệ; - Phạm trù của pháp luật như hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là những bộ phận tách biệt của pháp luật cũng như hai bộ phận của pháp luật là thông luật và luật công bình có thể được áp dụng chung bởi một tòa án. - Không có sự phân biệt giữa luật công hay luật tư giống như dân luật (civil law). - Những chế định đặc thù như ủy thác (trust), bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (tort law), ngăn không cho phủ nhận (estoppel), môi giới. - Phong cách luật có tính phân biệt ứng khẩu và thực dụng;

Cải cách Toà án Việt Nam theo hệ thống Toà án nước ngoài

Pháp luật của Đức

  • Lịch sử
  • Đặc trưng
  • Nguồn
  • Hệ thống

Luật sư

  • Không phân biệt luật sư tư vấn và bào chữa. Có thể làm việc kiêm nhiệm.
  • Điều kiện: Cử nhân luật và qua kỳ thi của đoàn luật sư cấp bằng. Sau 5 năm hành nghề tại 1 bang thì có thể hành nghề tại bang khác

Thẩm phán

  • Bổ nhiệm từ các luật sư và giảng viên luật
  • Tổng thống bổ nhiệm, Thượng viện phê chuẩn với thẩm phán các tòa án liên bang
  • Điều kiện: là các luật sư có uy tín xã hội
  • Không bắt buộc đội tóc giả, nhưng áo thụng là bắt buộc với thẩm phán liên bang.
  • Mỗi tòa có quy định riêng về hình thức quay phim, chụp hình ghi âm, bán bản quyền quay phiên tòa, bán vé....

Tối cao pháp viện – Toà án tối cao Gồm 9 thẩm phán, ai chết thì tổng thống đề cử thay thế:

  • Chief Justice John Roberts
  • Justice Ruth Bader Ginsburg
  • Justice Stephen Breyer
  • Justice Clarence Thomas
  • Justice Elena Kagan
  • Justice Samuel Alito
  • Justice Sonia Sotomayor
  • Justice Sonia Sotomayor
  • Justice Brett Kavanaugh

hỏi trực tiếp cho bên kia cũng như người làm chứng, giám định viên,... thậm chí có quyền ngắt lời bên kia để phản bác. Thẩm phán đóng vai trò là người trọng tài có trách nhiệm đảm bảo các bên tuân thủ các quy định pháp luật. Trên cơ sở chứng cứ đã được các bên đưa ra xem xét, kiểm tra tại phiên tòa, sau đó thẩm phán đưa ra phán quyết về vụ án.

Nguyên tắc thiết lập

Tòa án anh gồm 3 cấp xét xử ba cấp là tòa địa phương, tòa cấp trên, tòa tối cao. Tòa địa phương được hình thành theo nguyên tắc khu vực, có thẩm quyền sơ thẩm đối với các vụ việc dân sự đơn giản liên quan đến hôn nhân gia đình và các tội hình sự ít nghiêm trọng, thủ tục thực hiện đơn giản, không cần có bồi thẩm đoàn. Đặc biệt các phán quyết của tòa này không bao giờ trở thành án lệ. Tòa cấp trên gồm có tòa cấp cao hoạt động với tư cách là tòa án dân sự sơ thẩm (thuộc các vụ việc có giá trị tranh chấp cao hoặc là vụ việc hệ trọng) và tòa hình sự phúc thẩm đối với các vụ việc đã giải quyết bởi các tòa án cấp dưới nhưng có kháng cáo, kháng nghị. Tòa hình sự trung ương có thẩm quyền xét xử sơ thẩm và phúc thẩm đối với các vụ việc hình sự nghiêm trọng và các vụ việc được chuyển lên từ tòa pháp quan. Tòa phúc thẩm là bộ phận tòa án tối cao với hai tòa chuyên trách có nhiệm vụ quyền hạn chức năng khác nhau.

Tòa án Việt Nam được xây dựng theo đơn vị hành chính lãnh thổ từ trung ương đến địa phương gồm bốn cấp 4 cấp, mỗi cấp sẽ có chức năng, quyền hạn khác nhau gồm: tòa án nhân dân tối cao, tòa án nhân dân cấp cao, tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh và tương đương. Ngoài ra còn có tòa án quân sự cũng thuộc hệ thống tòa án Việt Nam nhưng được tổ chức trong Quân đội nhân dân Việt Nam để xét xử vụ án mà bị cáo là quân nhân tại ngũ và những vụ án khác (Điều 3, Điều 49 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014)

Chức năng của toàn án

Tòa án Anh thực hiện chức năng xét xử, giám sát (Tòa Nữ hoàng chuyên trách thay mặt Quốc vương giám sát tất cả những tòa án cấp dưới và các cơ quan của Chính phủ) và chức năng lập pháp (do Thượng nghị viện đảm nhiệm).

Tòa án Việt Nam là cơ quan xét xử có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Góp phần giáo dục công dân trung thành với Tổ quốc, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật (Điều 2 Luật Tổ chức Tòa án năm 2014).

Chế độ bổ nhiệm

Chế độ bổ nhiệm thẩm phán Anh khá phức tạp, thẩm phán Anh thường được bổ

Thẩm phám ở Việt Nam là người phải đáp ứng đủ các điều kiện, tiêu chuẩn theo quy

thẩm phán

nhiệm từ luật sư tranh tụng, luật sư tư vấn và một số người uy tín. Tuy nhiên, chủ thể bổ nhiệm thẩm phán sẽ khác nhau ở các cấp tòa khác nhau và với các loại thẩm phán khác nhau.

định của pháp luật Việt Nam, được thực hiện theo chế độ bổ nhiệm để thực thi nhiệm vụ xét xử ( Khoản 1, Điều 7 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014).

Giá trị của bản án và quy trình kháng cáo

Bản án sơ thẩm và phúc thẩm ở tòa án Anh đều có thể bị kháng cáo, kháng nghị. Kháng cáo - kháng nghị có thể đưa lên tòa cấp trên mà không phải là cấp trên trực tiếp. VD: Bất kì ai muốn phủ nhận quyết định của Tòa cấp dưới (như Tòa pháp quan) đều có quyền gửi đơn yêu cầu xét xử phúc thẩm tới Tòa nữ hoàng chuyên trách (không phải Tòa hình sự trung ương – là tòa cấp trên trực tiếp của Tòa pháp quan)

Bản án sơ thẩm của tòa án Việt Nam có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật. Kháng cáo, kháng nghị ở Việt Nam phải đưa lên tòa cấp trên để được giải quyết.

Luật được sử dụng dưới mọi hình thức

Tòa án Anh sử dụng cả luật bất thành văn (chủ yếu là án lệ) và luật thành văn.

Tòa án Việt Nam chỉ sử dụng luật thành văn được quy định cụ thể trong pháp luật Việt Nam.

Bình luận về sự khác biệt điển hình giữa hai hệ thống pháp luật Anh và Mỹ Anh và Mỹ là hai quốc gia tiêu biểu cho dòng họ pháp luật Common Law. Bên cạnh những điểm tương đồng giữa hai hệ thống pháp luật Anh và Mỹ, còn có sự khác biệt riêng. Vậy, hai hệ thống pháp luật này có những điểm khác biệt nào điển hình? Cùng nhau xem xét cả phương diện: tư tưởng pháp lý, nguồn luật, hệ thống các cơ quan pháp luật và vấn đề đào tạo luật, nghề luật để làm rõ để làm rõ sự khác biệt đó.

  1. Tư tưởng pháp lý Điểm khác biệt đầu tiên phải kể đến giữa hai hệ thống pháp luật Anh và Mỹ là tư tưởng pháp lý. Nếu như ở Anh, tư tưởng pháp lý mang tính chất bảo thủ thì ở Mỹ lại có tư tưởng tự do. Xuất phát từ lý do nước Anh là một quốc gia có bề dày truyền thống, nên họ coi trọng việc gìn giữ truyền thống, chính vì tư tưởng đó mà ở anh coi trọng án lệ và tuyệt đối tuân thủ án lệ. Còn nước Mỹ lại tự hào về lịch sử chống ách thống trị của Thực dân Anh, là xã hội gồm nhiều tầng lớp dân nhập cư từ khắp các quốc gia trên thế giới với nhiều chủng tộc, họ đến đây tìm một tổ quốc mới, họ quan niệm con người hiện đại là quan trọng nhất, họ quan tâm đến hiện tại và tương lai kiên quyết quay lưng với những truyền thống quá cũ kỹ.
  2. Nguồn luật Anh và Mỹ là hai quốc gia thuộc dòng họ Common Law nên có cấu trúc nguồn luật đặc trưng gồm án lệ, tập quán, luật thành văn, lẽ phải. Thế nhưng sự khác biệt cơ bản ở hệ thống pháp luật Anh và Mỹ tập trung ở hai nguồn luật cơ bản là luật thành văn và án lệ.

pháp của nước Anh tập trung ở London, còn ở Mỹ thì không như vậy. Ngoài hệ thống toà án ở các Tiểu bang là chủ yếu, hệ thống toà án lủa Liên bang cũng có mặt ở mọi nơi.

  1. Đào tạo luật và nghề luật. Việc đào tạo nghề luật ở các nước thuộc dòng họ pháp luật Common Law nói chung không chú trọng tính bài bản, mà thiên về tính thực tiễn. Đào tạo luật ở Mỹ là đào tạo văn bằng hai nghĩa là đòi hỏi học viên phải có một bằng đại học từ trước còn ở Anh là đào tạo cử nhân luật. Ở Mỹ có xu hướng kết hợp giữa đào tạo lý thuyết với đào tạo nghề trong chương trình đại học luật. Ví dụ như, muốn thi tuyển vào khoa Luật trường Đại học danh tiếng Harvard thì phải có thêm một bằng đại học chuyên nghành khác trước đó. Cách đào tạo này khác so với Anh Quốc, theo đó, nước này thường đưa đào tạo luật vào chương trình đại học cơ bản. Ở Anh, sinh viên tốt nghiệp chưa đủ khả năng hành nghề ngay, những người muốn hành nghề phải qua khoá đào tạo nghề, còn sinh viên tốt nghiệp trường luật ở Mỹ chỉ cần qua thời gian tập sự ngắn là có thể làm việc. Ở Mỹ, hành nghề luật là hành nghề ở bang, một người được thừa nhận là luật sư ở một Tiểu bang thì chỉ được hành nghề ở Tiểu bang đó, và trước toà án Liên bang trong khi ở Anh có thề hành nghề luật sư ở trên toàn quốc. Ở Anh có phân chia 2 ngành luật sư là luật sư tư vấn và luật sư tranh tụng trong khi ở Mỹ, một luật sư thì thực hiện cả tư vấn và tranh tụng. Tuy nhiên, ở Mỹ có đặc thù là luật sư hành nghề theo lĩnh vực chuyên sâu của mình trong khi đó ở Anh thì luật sư phải hiểu biết hết các lĩnh vực. Cũng giống như ở Anh, các thẩm phán thường được chỉ định trong số các luật sư thực hành nổi tiếng. Thẩm phán ở Mỹ có hai loại: thẩm phán cấp Liên bang và thẩm phán cấp tiểu bang. Tương tự như thẩm phán ở Anh, thẩm phán cấp Liên bang Mỹ được chỉ định chức vụ suốt đời. Nhận xét: Ở Mỹ, lối sống, cách tư duy, sự phát triển kinh tế đã sản sinh ra những điều kiện hoàn toàn khác thời kỳ thuộc địa, và khác nước Anh. Pháp luật Mỹ không thể giống Pháp luật Anh. Vào thế kỷ XVII, ở Bắc Mỹ đã có 13 thuộc địa của Anh. Tuy nhiên, trên thực tế, pháp luật Anh - Common Law ra đời để phục vụ cho xã hội phong kiến Anh, không hề giống xã hội Mỹ với hàng loạt các vấn đề nằm ngoài giải pháp của Common Law, vì vậy pháp luật Anh không phù hợp với hoàn cảnh của nước Mỹ. Sau năm 1776, pháp luật Anh và Mỹ trở thành hai hệ thống pháp luật độc lập và phát triển theo những hướng khác nhau nhưng bên cạnh những điểm tương đồng, hai hệ thống pháp luật này còn có sự khác biệt nhất định.

Tóm lại, cùng là những quốc gia tiêu biểu cho dòng họ Common Law nhưng giữa hai hệ thống pháp luật Anh và Mỹ luôn tồn tại những điểm khác biệt điển hình. Đó là về tư tưởng pháp lý, nguồn luật, hệ thống các cơ quan pháp luật và vấn đề đào tạo luật, nghề luật. Sự khác biệt đó được hình thành do những điều kiện riêng của từng quốc gia và khó có thể bình luận được hệ thống pháp luật của quốc gia nào hoàn thiện hơn.

Án lệ trong pháp luật Anh - Mỹ

  1. Các điểm tương đồng

Án lệ có vị trí và vai trò rất quan trọng trong hệ thống pháp luật Anh, Mỹ và là một nguồn không thể thiếu trong hệ thống pháp luật Anh, Mỹ. Khi nghiên cứu về hệ thống pháp luật của Anh và Mỹ có thể thấy nguyên tắc áp dụng cơ bản và giải thích án lệ ở Anh và Mỹ có những điểm tương đồng.

  1. Khái niệm án lệ Án lệ là “vụ án đã được giải quyết tạo cơ sở cho việc xét xử các vụ án sau này mà có những sự kiện hoặc vấn đề pháp lý tương tự”. Trong đó, án lệ cũng được áp dụng đối với việc giải thích luật thành văn, có nghĩa là tòa cấp dưới phải tuân theo cách giải thích luật của tòa cấp trên. Cần lưu ý rằng, về mặt kỹ thuật, nói một cách chặt chẽ, khi xét xử, các thẩm phán không phải tuân theo quyết định (decision) được đưa ra trong vụ án trước, mà chỉ phải tuân theo quy tắc pháp lý trong phần luận cứ chính (ratio decidendi) được đưa ra trong bản án trước. Án lệ về hình thức là những bản án đã trở thành luật, tạo thành một thứ luật có tên gọi là luật án lệ (case law) hay luật do thẩm phán làm ra (judge-made law), bên cạnh luật do nghị viện ban hành (legislation hay statutory law). Tuy nhiên, như Blackstone lưu ý, luật và ý kiến của thẩm phán thể hiện trong án lệ không phải lúc nào cũng là một, vì có lúc thẩm phán cũng nhầm lẫn về luật. Do đó, án lệ không phải là tuyệt đối tuân theo đối với tòa án và thẩm phán trong các vụ án tương tự sau này, khi họ cho rằng, án lệ đã không còn phù hợp với bối cảnh mới hoặc không bảo vệ được công lý. Về bản chất, án lệ là một nguyên tắc tố tụng, theo đó: những bản án sắp sửa được tuyên không được trái với những bản án mà tòa cùng cấp hay tòa cấp trên đã tuyên và có hiệu lực trước đó nếu như tình tiết của các vụ án giống hoặc tương tự nhau.
  2. Nguyên tắc Stare decisis Nguyên tắc quan trọng nhất là nguyên tắc Stare decisis. Nguyên tắc Stare decisis có thể được tóm tắt một cách đơn giản như sau: Hai vụ việc với các tình tiết chính tương tự như nhau sẽ được xét xử như nhau. Ban đầu nguyên tắc này không chính thức bắt buộc nhưng dần dần vào khoảng giữa thế kỷ 17 đến thế kỷ 19 nguyên tắc này chính thức bắt buộc áp dụng. Sở dĩ nguyên tắc này được sử dụng và được coi trọng bởi vì khi các quy định pháp luật thành văn không tồn tại, nguyên tắc này là điều kiện tiên quyết đối với bất cứ hệ thống pháp luật nào muốn duy trì tính có thể dự báo trước ở một mức độ nhất định và sự tôn trọng các quy định của pháp luật. Nguyên tắc Stare decisis ngày nay vẫn là nguyên tắc xương sống của pháp luật Anh, Mỹ được xây dựng dựa trên hoạt động của các toà án và toà án có thể quyết định sửa đổi nguyên tắc này. Điều quan trọng trong nguyên tắc này là việc xác định thế nào là “tình tiết chính tương tự nhau”. Điều này phụ thuộc khá nhiều vào việc giải thích án lệ của các thẩm phán. Ví dụ như trong vụ Donoghue kiện Stevenson, phán quyết của thẩm phán Lord Atkin đã tạo ra một án lệ, giả sử như sau đó có một người khác cũng uống một chai bia gừng nhưng trong chai bia đó lại có một cái đinh thay vì con ốc sên thì liệu có được áp dụng phán quyết của vụ Donoghue kiện Stevenson hay không. Luật sư của nhà sản xuất chắc chắn sẽ cố gắng thuyết phục thẩm phán rằng con ốc sên hoàn toàn khác với cái đinh. Trong tình huống đó sự giải thích của thẩm phán đóng một vai trò rất quan trọng để giải quyết vụ việc.

II. Các điểm khác biệt

  1. Lịch sử hình thành án lệ ở Mỹ Trước đây trong một thời gian dài, Mỹ là một trong những thuộc địa của Anh ở Bắc Mỹ. Người Anh khi tiến hành mở rộng thuộc địa đã dùng pháp luật của mình để gây ảnh hưởng tới các hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp ở các nước thuộc địa nên trong thời gian là thuộc địa của Anh, pháp luật Mỹ chịu ảnh hưởng của pháp luật Anh một cách phù hợp với hoàn cảnh của nuớc Mỹ thời bấy giờ. Pháp luật Anh (cả Common Law và Equity Law) được một số tòa án Mỹ dẫn chiếu để xét xử trong suốt một thời gian dài, thậm chí một số toà án của Mỹ vẫn viện dẫn án lệ trong pháp luật Anh có từ thời tiền cách mạng tư sản Mỹ (1776) đế xét xử và một trong số đó được xem là án lệ bắt buộc. Mọi việc bắt đầu có sự thay đổi từ cuộc cách mạng tư sản Mỹ (1776) lật đổ sự thống trị của thực dân Anh giành lại độc lập dẫn tới sự ra đời của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Nước Mỹ tách ra khỏi sự ràng buộc khống chế của Anh về tất cả mọi mặt. Pháp luật Mỹ vẫn tiếp thu truyền thống pháp luật của Anh một cách có chọn lọc nhưng có thể thấy một cách rõ ràng pháp luật của Mỹ đã có những cải cách lớn trong công tác lập pháp, hành pháp, và tư pháp. Năm 1787 quốc hội Mỹ đã phê chuẩn và thông qua bản Hiến pháp Mỹ đây là một bản hiến pháp thành văn có giá trị lớn trong lịch sử Mỹ mà trong suốt hơn 200 năm qua vẫn còn nguyên giá trị. Án lệ trong pháp luật Mỹ mặc dù còn mang đậm dấu ấn của pháp luật Anh nhưng rõ dàng đã và đang được áp dụng một cách mềm dẻo, linh hoạt trong hoạt động xét xử chứ không cứng nhắc như pháp luật Anh. 2. Ý nghĩa, tầm quan trọng của án lệ a. Ý nghĩa, tầm quan trọng của án lệ ở Anh Ở Anh người ta coi trọng án lệ, vì cho rằng đây là phương thức đạt được công lý. Pháp luật được đặt ra và áp dụng một cách công bằng, nhất quán và xác đáng hay thỏa đáng. Khi một nền pháp luật tạo ra và bảo đảm được ba giá trị đó thì xã hội sẽ có công lý. Khi xã hội có công lý thì người dân sẽ được an toàn bởi các quan hệ xã hội sẽ trở nên “có thể tiên liệu” và ổn định. Theo các nhà nghiên cứu, một vấn đề trung tâm của án lệ là nó tạo ra sự nhất quán trong khi giải thích luật đối với các vụ án, kèm theo đó là sự ổn định, tiên liệu của hệ thống pháp luật trải qua thời gian. Nhờ có tính ổn định, tiên liệu được, các bên trong giao dịch pháp lý sẽ lên kế hoạch hành động được tốt hơn. Từ nhận thức ấy, có một nguyên tắc mà đến nay đã trở thành tiêu chí ở Anh quốc: trong cùng một quốc gia, không thể xử những vụ án giống nhau bằng những bản án khác nhau. Nguyên tắc này là nền tảng cho “sự thống trị của luật” (rule of law), là bức tường thành chống đỡ sự xét xử tùy tiện hoặc độc đoán của cá nhân, chống lại “sự thống trị của cá nhân”. Án lệ tạo nên hiệu suất trong hoạt động của tòa án khi tránh cho tòa không phải mất công sức quá nhiều vào việc nghiên cứu, xem xét lại những vấn đề cũ, cũng như tiết kiệm công sức cho các bên có tranh chấp trên phương diện này. Cần lưu ý rằng giá trị của án lệ nằm ở phần tinh túy nhất của nó: Phần luận cứ. Giá trị của một án lệ chính là trí tuệ, kinh nghiệm, tâm huyết của các thẩm phán trong việc vận dụng pháp luật, đúc kết lên thành những luận cứ có sức thuyết phục cao, làm nền tảng cho phán quyết của mình. Ở Anh quốc, án lệ được phổ biến công khai, ai cũng có thể đọc và tìm hiểu vì sao các thẩm phán lại phán quyết như vậy. Tại Anh các án lệ bắt buộc thường được ghi chép trong Law Reports, All England Law Reports, Weekly Law Reports. Các sinh viên luật khi học là học những tinh hoa được chưng cất từ thực tiễn ấy chứ không chỉ học lý thuyết suông. Một bản án được xét xử nghiêm túc, đúng đắn chứa đựng tinh hoa của trí tuệ và lương tâm của thẩm phán. Những giá trị ấy phải được kế thừa và lan truyền, được tôn trọng, bổ sung và hoàn thiện.

Tầm quan trọng của án lệ là khi áp dụng án lệ, thực tiễn toà án ở Anh còn tạo ra quy phạm pháp luật. Những quy tắc trong các quyết định toà án cần được áp dụng trong tương lai, nếu khác đi sự ổn định của thông luật sẽ bị phá vỡ và sự tồn tại của nó sẽ bị đe doạ. Các luật gia Anh xem xét luật pháp nước mình chủ yếu như luật pháp của toà án. b. Ý nghĩa, tầm quan trọng của án lệ ở Mỹ Ở Mỹ, án lệ đóng vai trò là nguồn luật cơ bản, quan trọng. Tuy nhiên, án lệ ở Mỹ dường như không mang tính chất tuyệt đối mà có tính tương đối, có phần nới lỏng. Tại Mỹ tập hợp các án lệ được in trong tuyển tập Trình bày về pháp luật (Restatement of the Law) của một hiệp hội tư nhân có tên là Viện luật Hoa Kỳ (American Law Institute). Các án lệ ở Mỹ cũng được thường xuyên áp dụng vào trong thực tiễn xét xử nhưng các thẩm phán chú trọng hơn tới sự phù hợp của án lệ với thực tiễn. Ngày nay, Mỹ là một quốc gia đa chủng tộc, đa tôn giáo, vì vậy những phán quyết của tòa án trong những án lệ dường như không còn phù hợp với những sự thay đổi nhanh chóng về mọi mặt ở nước Mỹ. 3. Nguyên tắc áp dụng Án lệ ở Anh và Mỹ tuy đều áp dụng nguyên tắc là Stare decisis nhưng lại sử dụng nguyên tắc đó ở hai dạng thức khác nhau. a. Nguyên tắc áp dụng án lệ ở Anh: Rules of Stare decisis Án lệ vận hành dựa trên hệ thống thứ bậc của tòa án Anh quốc. Về tổng thể, quy tắc án lệ ở Anh gồm các nội dung sau:

  1. Những án lệ do Tòa án tối cao Liên hiệp Anh (trước đây là Viện Nguyên lão) đưa ra có tính chất bắt buộc đối với mọi toà án cấp thấp hơn;
  2. Những án lệ do Toà phúc thẩm đưa ra có tính chất bắt buộc đối với mọi toà cấp dưới và (ngoài luật hình sự) đối với chính toà đó;
  3. Những án lệ do Toà tối thượng đưa ra có tính chất bắt buộc đối với mọi toà cấp dưới và có ý nghĩa quan trọng, thường được sử dụng để hướng dẫn cho các bộ phận của Toà tối thượng và Toà Vương miện.  Hình thức của những quyết định toà án Anh
  4. Tiền lệ bắt buộc
  5. Tiền lệ tham khảo Ranh giới cơ bản khi giải thích án lệ của Anh là sự khác nhau giữa Ratio decidendi và Obiter dicta. Ratio decidendi và Obiter dicta là hai bộ phận trong phần lập luận của một bản án của toà án. Chỉ có những bản án được coi là có tính bắt buộc mới tạo thành án lệ và có giá trị pháp lý. Trong một bản án thì chỉ có phần lập luận mới được coi là án lệ, còn phần phán quyết không được coi là án lệ vì chỉ liên quan đến từng trường hợp cụ thể. Các bên tham gia phiên toà có thể viện dẫn rất nhiều án lệ. Trong vụ Donoghue kiện Stevenson có 32 án lệ đã được viện dẫn trong phán quyết. Ratio decidendi là lý do để quyết định, đây là nội dung bắt buộc trong quá trình suy luận dẫn tới quyết định của toà án. Lý do để quyết định của các toà án cấp trên là bắt buộc đối với các toà án cấp dưới trên cơ sở học thuyết tiền lệ của luật án lệ. Ratio decidendi có tính chất bắt buộc vì nó là quy định pháp luật mà toà án dựa vào đó để đưa ra phán quyết cho vụ việc nghĩa là quy định pháp luật cần thiết cho việc đưa ra quyết định. Obiter dicta là lời nhận xét bình luận của thẩm phán không có giá trị bắt buộc. Obiter dicta chỉ là tuyên cáo không chi phối đối với quyết định và vì thế không có tính bắt buộc đối với các vụ việc trong tương

toà án cấp trên, nhưng các toà án cùng cấp không phải tuân thủ án lệ của nhau, toà án bang này không có nhiệm vụ tuân thủ án lệ của bang khác. Án lệ trong hệ thống pháp luật Mỹ được sử dụng một cách mềm dẻo và linh hoạt hơn trong hệ thống pháp luật Anh vì thẩm phán ở Mỹ rất linh hoạt trong xét xử và họ có thực quyền trong tay cao hơn so với thẩm phán ở Anh mặc dù pháp luật Mỹ chịu ảnh hưởng rất lớn bởi pháp luật Anh, vì vậy mà thẩm phán và luật sư ở Mỹ được đào tạo rất bài bản, phải đáp ứng những tiêu chuẩn khắt khe vì thế nghề luật ở Mỹ rất phát triển. Mỹ là quốc gia được hợp bởi 50 bang, mỗi bang lại có pháp luật riêng của mình trong đó bang này không bị ràng buộc bởi pháp luật của bang kia nên việc sử dụng án lệ trong hoạt động xét xử là rất quan trọng, giúp cho các thẩm phán giải quyết vụ việc một cách nhanh chóng hơn. Kết luận Mặc dù hệ thống pháp luật Anh và Mỹ có sự phát triển tương tự nhau, đặc biệt trong một thời gian pháp luật Mỹ chịu ảnh hưởng, tiếp thu pháp luật Anh. Nhưng cần khẳng định rằng pháp luật Anh và Mỹ tồn tại một cách độc lập vì mỗi nước đều có chủ quyền riêng của mình và hoàn cảnh kinh tế xã hội khác nhau làm cho án lệ Mỹ có những nét đặc thù cơ bản so với án lệ ở Anh. Trong khi ở Mỹ Hiến pháp là bộ luật thành văn có giá trị cao nhất, án lệ nếu trái với hiến pháp sẽ bị tuyên bố là vi hiến và không có giá trị thì ở Anh, luật thành văn có giá trị cao hơn án lệ nhưng Thẩm phán luôn cố gắng áp dụng án lệ và hạn chế áp dụng luật thành văn. Ở Mỹ, án lệ được các thẩm phán áp dụng một cách linh hoạt, mềm dẻo hơn, không cứng nhắc như Anh. Nguyên nhân chủ yếu là do yếu tố lịch sử, lãnh thổ, hình thức chính thể, chế độ chính trị và điều kiện kinh tế xã hội. Trong khi Anh là một đế chế hùng mạnh, có bề dày lịch sử và là một quốc gia đơn nhất,một đất nước có hình thức chính thể là quân chủ nghị viện, có tiềm lực mạnh về kinh tế. So với Anh,Mỹ là một quốc gia mới giành độc lập, đã từng là thuộc địa của Anh nhiều năm, là một quốc gia liên bang với hình thức chính thể là nước cộng hòa tổng thống gồm hai bang là Dân chủ và Cộng hòa thay nhau cầm quyền, mỗi bang đều có pháp luật riêng và hiện tại đang đứng đầu thế giới về nền kinh tế. Những nguyên nhân trên đã dẫn đến hệ quả pháp lý cách giải quyết vấn đề của người Mỹ rất khác so với người Anh. Có thể thấy, không chỉ các dòng họ pháp luật có những điểm khác nhau mà giữa các hệ thống pháp luật trong cùng một dòng họ cũng có nhiều điểm khác biệt. Mỗi quốc gia đều có độc lập và có những điểm riêng biệt trong quá trình hình thành trong kinh tế và văn hóa xã hội, vì vậy điều trên là không thể tránh khỏi. Án lệ là một nguồn luật thực tế và linh hoạt, gần gũi với thực tiễn đời sống. Hiện nay, ở Việt Nam, có rất nhiều cuộc thảo luận về việc sử dụng án lệ. Vậy nhưng, chưa có quyết định chính thức về việc đưa án lệ trở thành một nguồn luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên, án lệ vẫn được sử dụng như một loại nguồn không chính thức trong quá trình xét xử thông qua những báo cáo hướng dẫn công tác xét xử của ngành toà án. Nghiên cứu những báo cáo xét xử hàng năm của toà án nhân dân tối cao đã cho thấy những dấu hiệu của việc hình thành án lệ. Mặc dù những báo cáo này vẫn chưa đủ để cấu thành một hệ thống án lệ hoàn chỉnh nhưng đây cũng là dấu hệu tích cực cho thấy án lệ được sử dụng trong công tác xét xử. Một sự cố gắng của ngành toà án trong việc bước đầu hình thành án lệ ở Việt Nam

Hệ thống pháp luật Common Law được nhắc đến với nhiều tên gọi khác nhau như: Hệ thống pháp luật Anh - Mỹ; hệ thống pháp luật Anglo - saxong; hệ thống pháp luật Thông luật...

  1. Nguồn gốc pháp luật Lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống pháp luật Common law gắn liền với lịch sử Common law của nước Anh. Trước thế kỉ V, nước Anh đã từng bị xâm lược bởi đế quốc La Mã. Trong gần bốn thế kỉ chịu sự cai trị của La Mã, không giống như cách La Mã cai trị các quốc gia châu Âu còn lại, Anh không không bị áp đặt bởi Luật La Mã. Điều này chủ yếu là do nội dung pháp luật dân sự La Mã không phù hợp với bối cảnh kinh tế xã hội của Anh lúc bấy giờ là nền kinh tế hàng đổi hàng. Mặc khác chính nhờ vào các yếu tố địa lý cũng như yếu tố con người (tính bảo thủ) mà sự xâm chiếm này không tác động nhiều đến sự phát triển của hệ thống pháp luật này.

Nguồn gốc pháp luật chủ yếu dựa trên nền tảng pháp luật Anh cổ (Anglo - Saxong) với những tập quán được hình thành từ sự phát triển của cộng đồng. Như đã đề cập ở trên, cho dù Anh quốc từng bị đế quốc La Mã cai trị nhưng dường như không có dấu vết ảnh hưởng quan trọng của Luật La Mã trong pháp luật Anh. Sau khi La Mã suy tàn, nước Anh chia ra thành nhiều vương quốc nhỏ có các hệ thống pháp luật bao gồm dù ít hay nhiều, các quy định mang tính địa phương. Sau khi một nhà nước chuyên chế thống nhất được hình thành vào giai đoạn đầu của thế kỷ 11, tại Anh sau đó xuất hiện 3 tòa, mà trong một chừng mực nào đó có thẩm quyền chồng chéo: Tòa Tài chính, Tòa Hoàng gia và Tòa chuyên các vụ kiện chung. Với ưu thế về sự hiện đại, tính hiệu quả và nhận được sự ưa chuộng, các thẩm phán Hoàng gia trở thành "thẩm phán lưu động", họ đi khắp đất nước để xét xử các vụ việc nhưng vẫn giữ chỗ ở thường xuyên về mùa đông tại Luân Đôn. Khi đi xét xử lưu động khắp đất nước, các thẩm phán Hoàng gia làm quen với các tập quán pháp khác nhau và mỗi khi gặp nhau tại Luân Đôn họ thường thảo luận với nhau, so sánh các điểm mạnh, điểm yếu của chúng. Dần dà, điều này đưa đến kết quả là các thẩm phán Hoàng gia ngày càng áp dụng thường xuyên hơn các quy định pháp luật giống nhau trên khắp đất nước và thế là "luật Common" ra đời. Các thẩm phán trong quá trình giải quyết các vụ việc của mình chủ yếu dựa trên những tập quán này để giải quyết. Chính họ là những người đã tạo ra common law trong quá trình xét xử lưu động ở các địa phương trên toàn Anh quốc bằng việc thỏa thuận áp dụng thống nhất một số tập quán địa phương được lựa chọn và nâng cấp các tập quán đó lên thành tập quán quốc gia. Tuy nhiên, sau khi common law đã được hình thành, thay vì áp dụng tập quán pháp, các thẩm phán hoàng gia đã áp dụng án lệ trong quá trình xét xử trên cơ sở tuân thủ nguyên tắc tiền lệ pháp (Rule of Precedent). Sau khi hình thành ở Anh quốc, dòng họ common law đã lan sang khắp các châu lục từ châu Phi, châu Mỹ đến châu Úc, châu Á và hình thành nên "hệ thống Common Law". Hệ thống này chủ yếu được mở rộng bằng con đường thuộc địa hóa của Hoàng gia Anh. 2. Hình thức pháp luật Các hệ thống pháp luật thuộc hệ thống Common Law ít, nhiều chịu ảnh hưởng của hệ thống pháp luật của Anh và thừa nhận án lệ như nguồn luật chính thống, tức là thừa nhận học thuyết tiền lệ pháp. Học thuyết này chi phối hệ thống luật án lệ theo hướng: các phán quyyết đã tuyên của tòa án cấp trên nói chung có giá trị ràng buộc tòa án cấp dưới trong quá trình xét xử các vụ việc hiện tại (nguyên tắc Stare Decisis). Hệ thống án lệ này sẽ được phát triển qua các vụ việc được tòa án xét xử. Hệ quả tích cực của nó là làm thành một hệ thống Common law mở, gần gũi với đời sống thực tế, tạo nên tính chủ động sáng tạo, mềm dẻo và linh hoạt trong tư duy pháp luật. Tuy nhiên dù án lệ có thể đã tồn tại trong một khoảng thời gian nhưng những qui phạm tiềm ẩn trong án lệ không còn phù hợp để điều chỉnh các quan hệ trong xã hội vì xã hội thì ngày càng thay đổi, phát triển. Trong vài thập kỉ gần đây, trong các hệ thống pháp luật này, án lệ không còn là nguồn luật duy nhất mà luật thành văn đã ngày càng trở thành nguồn luật quan trọng, thậm chí là nguồn luật quan trọng hàng đầu, đặc biệt đối với những lĩnh vực không có án lệ. 3. Vai trò của làm luật của cơ quan tư pháp Thẩm phán trong các hệ thống pháp luật thuộc Common law đóng vai trò quan trọng trong việc sáng tạo và phát triển các quy phạm pháp luật. Nghiên cứu hệ thống pháp luật Anh, cội nguồn của dòng họ common law có thể thấy: Nếu như các bộ luật trong dòng họ civil law chứa đựng những quy phạm và nguyên tắc pháp lí mang tính khái quát cao, có chức năng cung cấp giải pháp pháp lí để giải quyết nhiều vụ việc thì ở Anh chức năng đó lại thuộc về các phán quyết do thẩm phán tuyên. Nếu thẩm phán Anh không muốn áp dụng tiền lệ pháp, anh ta sẽ cố gắng tìm ra những tình tiết của vụ việc để chứng minh cho sự khác biệt giữa vụ việc đó với vụ việc trong tiền lệ pháp hoặc dựa vào luật hoặc dựa vào cả hai yếu tố này trên cơ sở về nguyên tắc, luật thành văn được ưu tiên áp dụng. 4. Mối tương quan giữa luật nội dung và luật hình thức Do thủ tục tố tụng mang tính tranh tụng: các bên tham gia vào thủ tục tố tụng được coi là có địa vị pháp lí bình đẳng với nhau, thẩm phán chỉ có vai trò người trung gian phân xử, không tham gia vào quá