So sánh khả tri và bất khả tri năm 2024

Thuyết bất khả tri là quan điểm cho rằng không thể chứng minh hay biết được sự tồn tại của Đức Chúa Trời. Từ "bất khả tri" về cơ bản có nghĩa là "không hiểu biết." Thuyết bất khả tri là cách nhìn trung thực tri thức của chủ nghĩa vô thần. Chủ nghĩa vô thần tuyên bố rằng Đức Chúa Trời không tồn tại, một giả thuyết không thể chứng minh. Thuyết bất khả tri cho rằng sự tồn tại của Đức Chúa Trời không thể chứng minh cũng như không thể bác bỏ, nó cho rằng không thể biết có hay không có sự tồn tại của Đức Chúa Trời. Trong điều này, thuyết bất khả tri đúng. Sự tồn tại của Đức Chúa Trời không thể được chứng minh hoặc bác bỏ bằng thực nghiệm.

Kinh Thánh nói với chúng ta rằng chúng ta phải chấp nhận bằng đức tin rằng Đức Chúa Trời hiện hữu. Hê-bơ-rơ 11:6 nói rằng “nếu không có đức tin không thể ở vừa lòng Đức Chúa Trời, bởi vì bất cứ ai đến với Ngài phải tin rằng Ngài tồn tại và Ngài hay thưởng cho kẻ tìm kiếm Ngài." Đức Chúa Trời là thần (Giăng 4:24) vì thế không thể nhìn thấy hay chạm rờ vào Ngài. Trừ khi Đức Chúa Trời chọn cách mặc khải chính mình Ngài, Ngài là vô hình với các giác quan của chúng ta (Rô-ma 1:20). Kinh Thánh tuyên bố rằng sự tồn tại của Đức Chúa Trời có thể được nhìn thấy rõ ràng trong vũ trụ (Thi Thiên 19: 1-4), cảm nhận được trong thiên nhiên (Rô-ma 1: 18-22), và khẳng định trong tấm lòng của chúng ta (Truyền đạo 3:11).

Thuyết Bất khả tri chần chừ trong việc quyết định hoặc ủng hộ hoặc chống lại sự hiện hữu của Đức Chúa Trời. Nó chủ yếu làm vai trò "rào cản". Người hữu thần tin rằng Đức Chúa Trời hiện hữu. Người vô thần tin rằng Đức Chúa Trời không tồn tại. Bất khả tri tin rằng chúng ta không nên tin hoặc hoài nghi vào sự hiện hữu của Đức Chúa Trời, bởi vì cả hai cách đều không thể biết.

Vì cớ ích lợi của lý luận, hãy trưng ra những chứng cứ rõ ràng và không thể phủ nhận sự tồn tại của Đức Chúa Trời. Nếu chúng ta đặt vị trí của chủ thuyết hữu thần và thuyết bất khả tri trên cơ sở bình đẳng, thì học thuyết nào sẽ hợp lý hơn đối với niềm tin về khả năng về sự sống sau khi chết? Nếu không có Đức Chúa Trời, người hữu thần và người bất khả tri sẽ biến mất sau khi chết. Nếu có Đức Chúa Trời, cả hữu thần và bất khả tri sẽ phải đối diện với một ai đó sau khi họ chết. Từ góc nhìn này, thì là người hữu thần hợp lý hơn là một người bất khả tri. Nếu một quan điểm không thể chứng minh hay bác bỏ, thì chúng ta nên xem xét nghiêm túc quan điểm nào mà có hệ quả vô hạn và đáng mơ ước hơn quan điểm còn lại.

Những nghi ngờ là việc bình thường. Có rất nhiều thứ trên thế giới này mà chúng ta không hiểu. Thông thường, người ta nghi ngờ sự thực hữu của Đức Chúa Trời, vì họ không hiểu hay đồng ý với những điều Ngài làm và cho phép. Tuy nhiên, vì cớ con người hữu hạn chúng ta không nên mong đợi để có thể hiểu được Đức Chúa Trời vô hạn. Rô-ma 11:33-34 tuyên bố, "Ôi, sâu nhiệm thay sự giàu có, khôn ngoan và thông biết của Đức Chúa Trời! Thật lạ lùng không thể hiểu thấu sự đoán xét của Ngài, và đường lối của Ngài vượt ra ngoài ý tưởng! 'Ai biết ý tưởng của Chúa? Hoặc ai là người bàn luận của Ngài?'" Chúng ta phải tin vào Đức Chúa Trời bằng đức tin và tin cậy đường lối của Ngài bằng đức tin. Đức Chúa Trời đã sẵn sàng và sẵn lòng bày tỏ chính mình Ngài theo đường lối diệu kỳ cho những ai tin vào Ngài. Phục Truyền 4:29 tuyên bố: "Ở đó ngươi sẽ tìm cầu Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi, và khi nào hết lòng hết ý tìm cầu Ngài thì mới gặp."

Thuyết bất khả tri (Tiếng Anh: agnosticism) là quan điểm triết học cho rằng tính đúng hay sai của một số tuyên bố nhất định - đặc biệt là các tuyên bố thần học về sự tồn tại của Chúa Trời hay các vị thần - là chưa biết và không thể biết được hay không mạch lạc. Một số người theo thuyết bất khả tri suy diễn từ đó rằng các tuyên bố đó không liên quan đến ý nghĩa của cuộc sống.

Có lẽ nhà tư tưởng bất khả tri (hay hoài nghi) đầu tiên là Sanjaya Belatthiputta (Samjayin Vairatiputra), một người cùng thời với Phật Thích Ca Mâu Ni, như đã được ghi trong kinh Phật. Người ta kể rằng khi được hỏi có cuộc sống sau cái chết hay không ông đã trả lời là có thể có và có thể không, và từ chối phỏng đoán xa hơn.

Thuật ngữ "bất khả tri" (agnosticism) được đưa ra năm 1869 bởi Thomas Henry Huxley (1825-1895), một nhà tự nhiên học người Anh, người đã lấy cảm hứng từ các tư tưởng của David Hume và Emmanuel Kant. Thuật ngữ này còn được dùng để miêu tả những người chưa bị thuyết phục hay cố tình chưa đưa ra quan điểm về sự tồn tại của các vị thần thánh cũng như các vấn đề tôn giáo khác.

Thuyết bất khả tri, khi tập trung vào những gì có thể biết, là một luận điểm nhận thức luận về bản chất và giới hạn của kiến thức con người; trong khi thuyết vô thần và thuyết hữu thần là các quan điểm bản thể học (một nhánh của siêu hình học nghiên cứu về các loại thực thể tồn tại). Không nên lẫn lộn thuyết bất khả tri với một cách nhìn đối lập với học thuyết về sự ngộ đạo và thuyết ngộ đạo - đây là các khái niệm tôn giáo nói chung không liên quan đến thuyết bất khả tri.

Những người theo thuyết bất khả tri có thể tuyên bố rằng không thể có tri thức tinh thần "tuyệt đối" hay "chắc chắn" hay, nói cách khác, rằng tuy những sự chắc chắn đó là có thể có nhưng cá nhân họ không có tri thức đó. Trong cả hai trường hợp, thuyết bất khả tri bao hàm một hình thức của chủ nghĩa hoài nghi đối với các khẳng định tôn giáo. Điều này khác với sự phi tín ngưỡng (irreligion) đơn giản của những người không suy nghĩ về chủ đề này.

Thuyết bất khả tri khác với thuyết vô thần mạnh (còn gọi là "vô thần tích cực" - "positive atheism" hay "vô thần giáo điều" - "dogmatic atheism"). Thuyết này phủ nhận sự tồn tại của bất cứ thần thánh nào. Tuy nhiên, dạng vô thần phổ biến hơn - thuyết vô thần yếu - chỉ là sự không có mặt của đức tin vào thánh thần, không tương đương nhưng có tương thích với thuyết bất khả tri. Chủ nghĩa vô thần phê phán (critical atheism) khẳng định cho rằng "Chúa Trời" hay "các vị thần" là các khái niệm có ý nghĩa, nhưng ta không có bằng chứng cho các khái niệm đó, do đó trong khi chờ đợi, ta phải chọn lập trường mặc định là không tin vào các khái niệm đó.

Ví dụ[sửa | sửa mã nguồn]

Một số ví dụ về khả năng:

- Con người không thể biết sự vật, hiện tượng nào đó có tồn tại không nếu không dùng giác quan cảm nhận hoặc đo đạc thông tin về vật, hiện tượng đó.

- Con người thậm chí có thể nhận những giác quan bị tác động bởi bên thứ ba (một vật, hiện tượng nào đó) sao cho con người không thể tìm thấy (tìm thấy ở đây là một dạng của một biểu hiện hay một hiện tượng trong triết học hiện đại) một nguyên tố mà ngành khoa học đang cần để lý giải thế giới chẳng hạn.

- Những khám phá lớn về vật lý thường được con người đo đạc qua những cỗ máy tinh vi, tuy nhiên, việc nhìn qua 1 màn hình để nói hiện tượng gì tồn tại hoặc không là một lỗ hổng dễ nhận thấy, và tất nhiên ảnh hưởng đến cả ngành khoa học.