Show
Trả lời câu hỏi Lịch Sử 7 Bài 12 trang 45 : Vì sao nền nông nghiệp thời Lý phát triển? Trả lời: Quảng cáo Nông nghiệp thời Lý phát triển vì: - Điều kiện đất nước hòa bình, ổn định. - Nhà nước có nhiều chính sách quan tâm phát triển nông nghiệp: Cày tịch điền, chia ruộng đất cho nông dân cày cấy, chú trọng khai hoang, làm thủy lợi… Quảng cáo Xem thêm các bài giải bài tập sách giáo khoa Lịch sử lớp 7 ngắn nhất, hay khác: Đã có lời giải bài tập lớp 7 sách mới:
Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.
Nhóm học tập facebook miễn phí cho teen 2k9: fb.com/groups/hoctap2k9/ Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:Các bài Giải bài tập Lịch Sử 7 ngắn nhất | Trả lời câu hỏi Lịch Sử 7 ngắn nhất được các Giáo viên hàng đầu biên soạn bám sát sách giáo khoa Lịch Sử lớp 7. Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn. bai-12-doi-song-kinh-te-van-hoa-phan-1.jsp
Hay nhất
- Do đất nước được độc lập, hoà bình.
Lorem ipsum dolor sit amet, consectetur adipiscing elit.Morbi adipiscing gravdio, sit amet suscipit risus ultrices eu.Fusce viverra neque at purus laoreet consequa.Vivamus vulputate posuere nisl quis consequat. (x - y)^3 + (y - z)^3 + (z - y)^3 (Lịch sử - Lớp 8)1 trả lời Chiến tranh lạnh là gì? (Lịch sử - Lớp 12) 5 trả lời
Đất nước mới giành được hòa bình, độc lập, việc phát triển nông nghiệp được chú trọng. Tại sao nông nghiệp thời Lý phát triển?
Câu hỏi: Tại sao nông nghiệp thời Lý phát triển? A. Triều đình khuyến khích việc khai khẩn đất hoang, mở rộng diện tích canh tác. B. Triều đình chăm lo công tác thủy lợi C. Đất nước ổn định, nông dân có điều kiện sản xuất D. Triều đình cấm giết hại trâu bò, khuyến khích việc khai khẩn đất hoang, chăm lo công tác thủy lợi. Đáp án đúng D. Nông nghiệp thời Lý phát triển vì triều đình cấm giết giết hại trâu bò, khuyến khích việc khai khẩn đất hoang, chăm lo công tác thủy lợi, ruộng đất gồm ruộng công làng xã; ruộng phong cấp cho con cháu, người có công; ruộng khai hoang, phát triển nông nghiệp giúp đời sống nhân dân ấm no, đất nước phát triển. Giải thích vì sao chọn đáp án D là đúng:Nhà Lý dùng đất công làm nơi thờ phụng, xây đền chùa hoặc phong cấp cho con cháu và người có công. Nông nghiệp thời kỳ phong kiến nước ta là nền tảng kinh tế chủ yếu. Vào thời Lý, các vị vua rất quan tâm đến hoạt động nông nghiệp như: – Ruộng đất gồm ruộng công làng xã; ruộng phong cấp cho con cháu, và người có công; ruộng khai hoang. – Khuyến khích khai khẩn đất hoang – Thủy lợi: cho đào kênh, khơi ngòi, đắp đê. – Ban hành lệnh cấm mổ trộm trâu bò để bảo vệ sức kéo. – Nhà vua làm lễ tế thần Nông, xong tự cầm cày – lễ Tịch Điền. => Điều này làm cho nền nông nghiệp phát triển, mùa màng bội thu. Bên cạnh đó, xã hội cũng có nhiều sự thay đổi: – Giai cấp thống trị: vua, quan, địa chủ. – Giai cấp bị trị: nông dân, thợ thủ công, người buôn bán. – Tầng lớp nô tỳ: nô tì là tù binh hoặc bị tội nặng, nợ nần hoặc tự bán thân Địa chủ gồm quan lại, công chúa, hoàng tử được cấp ruộng, và nông dân giàu. Nông dân: là lực lượng lao động chính, đinh nam nhận ruộng công là nông dân thường; nông dân nghèo nhận ruộng của địa chủ và nộp tô cho địa chủ trở thành nông dân tá điền. => Sự phân biệt đẳng cấp sâu sắc hơn, địa chủ nhiều hơn, nông dân tá điền tăng lên. Ngoài ra, ở thời này, các vấn đề về văn hóa, giáo dục cũng có nhiều sự phát triển. Kinh tế Việt Nam thời Lý phản ánh những vấn đề liên quan tới hoạt động kinh tế vào thời nhà Lý (1009-1225) trong lịch sử Việt Nam. Mục lục
Nông nghiệpSửa đổiChế độ ruộng đấtSửa đổi
Việc đo đạc ruộng đất thời Lý đã xuất hiện, nhưng đơn vị đo lường tính chưa thống nhất; nơi tính theo mẫu, nơi tính bằng thước[4]. Sản xuất nông nghiệp và làm thủy lợiSửa đổiNhà Lý áp dụng chính sách ngụ binh ư nông, cho binh lính thay nhau về làm ruộng, có tác dụng phát triển sản xuất nông nghiệp, sức lao động không bị thiếu. Binh sĩ thay nhau nghỉ 1 tháng 1 lần về cày ruộng tự cấp. Ngoài ra, nhà Lý còn chú trọng việc trị thủy, đắp đê, nhất là vùng châu thổ sông Hồng. Năm 1077 và 1103, Lý Nhân Tông ra lệnh đắp đê sông Như Nguyệt dài 67.380 bộ. Năm 1108, triều đình tổ chức đắp đê Cư Xá (sông Hồng) từ Yên Phụ đến Lương Yên. Ngoài Thăng Long, đê điều cũng được tu tạo. Các công trình thủy lợi tiêu biểu thời Lý là việc đào sông Đản Nãi (Thanh Hóa) năm 1029, đào kênh Lãm (Ninh Bình) năm 1051, khơi sâu sông Lãnh Kinh năm 1089 và sông Tô Lịch năm 1192. Nhờ sự quan tâm phát triển nông nghiệp và làm thủy lợi của nhà Lý, nước Đại Việt có thế đứng và phát triển khá vững chắc, đời sống nhân dân tương đối ổn định. Sử sách ghi nhận những năm được mùa lớn như: 1016, 1030, 1044, 1079, 1092, 1111, 1120, 1123, 1131, 1139, 1140[5]. Thủ công nghiệpSửa đổiThủ công nghiệp nhà nướcSửa đổiNhững người thợ thủ công lao động cho triều đình gọi là thợ bách tác. Sản phẩm họ làm ra để phục vụ hoàng cung. Họ thực hiện việc đúc tiền, chế tạo binh khí, chiến thuyền và các đồ tơ lụa, quần áo cho vua quan. Nguồn gốc thợ bách tác chủ yếu từ các tù binh, nhiều nhất là người Chiêm Thành, các tội nhân và các thợ thủ công được trưng tập về làm cho các quan xưởng.[5] Thủ công nghiệp nhân dânSửa đổiNgười dân làm đồ thủ công nhằm phục vụ đời sống thường nhật hoặc để bán ở chợ theo nhu cầu thị trường. Thời Lý đã xuất hiện việc thuê mướn nhân công[5]. Nhìn chung, thủ công nghiệp thời Lý là bộ phận kết hợp với nông nghiệp, được làm trong các hộ gia đình, chủ yếu đáp ứng nhu cầu của sản xuất tiểu nông. Các ngành nghềSửa đổi
Thương mạiSửa đổiCác đối tác chủ yếu của Đại Việt là Trung Quốc, Chiêm Thành, Trảo Oa tức đảo Java, Lộ Lạc tức vương quốc Lavo, Xiêm La - quốc gia vùng Mê Nam và Tam Phật Tề tức Srivijaya ở đảo Sumatra. Tại vùng biên giới, những người dân tộc thiểu số cũng qua lại buôn bán với nhau. Thương cảng Vân Đồn có vị trí rất quan trọng cho hoạt động ngoại thương, nằm trên trục hàng hải từ Trung Quốc xuống các nước Đông Nam Á. Ngoài ra, nơi này còn thuận lợi cho việc đỗ tàu thuyền. Ngoài Vân Đồn, vùng biển Diễn châu cũng là nơi có hoạt động ngoại thương phát triển.[7] Hàng hóa xuất khẩu của Đại Việt chủ yếu là thổ sản; hàng nhập khẩu bao gồm giấy, bút, tơ, vải, gấm. Các thương nhân Đại Việt thường mua trầm hương của Chiêm Thành để bán lại cho thương nhân người Tống. Hoạt động buôn bán trong nước được tạo điều kiện khá thuận lợi. Tuy nhiên, đối với ngoại thương, để bảo vệ an ninh quốc gia, nhà Lý chỉ cho phép thương nhân nước ngoài buôn bán ở một số điểm nhất định, chịu sự kiểm soát của triều đình – chính sách này tương tự như chính sách của nhà Tống. Tiền tệSửa đổiĐại Việt sử ký toàn thư cho thấy tiền đã được sử dụng và phát hành nhiều trong thời Lý Thái Tổ. Cả lương bổng lẫn tô thuế đều có thể trả bằng tiền.[8] Tiền do triều đình nhà Lý đúc ra không đáp ứng đủ nhu cầu lưu thông hàng hóa. Nhiều đồng tiền nhà Tống và thậm chí thời Đường vẫn được lưu hành trong nước.[9] Sách sử Việt Nam không nói rõ quan hệ giữa các đơn vị tiền vào thời kỳ này và không phản ánh quan hệ giá trị giữa tiền Việt và tiền Tống lưu hành khi đó. Xem thêmSửa đổi
Tham khảoSửa đổi
Chú thíchSửa đổi
|