Vì sao tiền là thước đo giá trị

Vì sao tiền là thước đo giá trị

Bản chất của tiền tệ được thể hiện qua các chức năng của nó. Theo C. Mác tiền tệ có 5 chức năng:
Thước đo giá trị. Tiền tệ dùng để biểu hiện và đo lường giá trị của các hàng hoá. Muốn đo lường giá trị của các hàng hoá, bản thân tiền tệ phải có giá trị. Vì vậy, tiền tệ làm chức năng thước đo giá trị phải là tiền vàng. Để đo lường giá trị hàng hoá không cần thiết phải là tiền mặt mà chỉ cần so sánh với lượng vàng nào đó một cách tưởng tượng. Sở dĩ có thể làm được như vậy, vì giữa giá trị của vàng và giá trị của hàng hoá trong thực tế đã có một tỷ lệ nhất định. Cơ sở của tỷ lệ đó là thời gian lao động xã hội cần thiết hao phí để sản xuất ra hàng hoá đó. Giá trị hàng hoá được biểu hiện bằng tiền gọi là giá cả hàng hoá. Do đó, giá cả là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá. Giá cả hàng hoá do các yếu tố sau đây quyết định:
+ Giá trị hàng hoá.
+ Giá trị của tiền.
+ Ảnh hưởng của quan hệ cung – cầu hàng hoá.
Để làm chức năng thước đo giá trị thì bản thân tiền tệ cũng phải được đo lường. Do đó, phải có đơn vị đo lường tiền tệ. Đơn vị đó là một trọng lượng nhất định của kim loại dùng làm tiền tệ. Ở mỗi nước, đơn vị tiền tệ này có tên gọi khác nhau. Đơn vị tiền tệ và các phần chia nhỏ của nó là tiêu chuẩn giá cả. Tác dụng của tiền khi dùng làm tiêu chuẩn giá cả không giống với tác dụng của nó khi dùng làm thước đo giá trị. Là thước đo giá trị, tiền tệ đo lường giá trị của các hàng hoá khác; là tiêu chuẩn giá cả, tiền tệ đo lường bản thân kim loại dùng làm tiền tệ. Giá trị của hàng hoá tiền tệ thay đổi theo sự thay đổi của số lượng lao động cần thiết để sản xuất ra hàng hoá đó. Giá trị hàng hoá tiền tệ (vàng) thay đổi không ảnh hưởng gì đến “chức năng” tiêu chuẩn giá cả của nó, mặc dù giá trị của vàng thay đổi như thế nào. Ví dụ, một USD vẫn bằng 10 xen.
Phương tiện lưu thông: Với chức năng làm phương tiện lưu thông, tiền làm môi giới trong quá trình trao đổi hàng hoá. Để làm chức năng lưu thông hàng hoá ta phải có tiền mặt. Trao đổi hàng hoá lấy tiền làm môi giới gọi là lưu thông hàng hoá.
Công thức lưu thông hàng hoá là: H- T – H, khi tiền làm môi giới trong trao đổi hàng hoá đã làm cho hành vi bán và hành vi mua có thể tách rời nhau cả về thời gian và không gian. Sự không nhất trí giữa mua và bán chứa đựng mầm mống của khủng hoảng kinh tế.
Trong lưu thông, lúc đầu tiền tệ xuất hiện dưới hình thức vàng thoi, bạc nén. Dần dần nó được thay thế bằng tiền đúc. Trong quá trình lưu thông, tiền đúc bị hao mòn dần và mất một phần giá trị của nó. Nhưng nó vẫn được xã hội chấp nhận như tiền đúc đủ giá trị.
Như vậy, giá trị thực của tiền tách rời giá trị danh nghĩa của nó. Sở dĩ có tình trạng này vì tiền làm phương tiện lưu thông chỉ đóng vai trò chốc lát. Người ta đổi hàng lấy tiền rồi lại dùng nó để mua hàng mà mình cần. Làm phương tiện lưu thông, tiền không nhất thiết phải có đủ giá trị. Lợi dụng tình hình đó, khi đúc tiền nhà nước tìm cách giảm bớt hàm lượng kim loại của đơn vị tiền tệ. Giá trị thực của tiền đúc ngày càng thấp so với giá trị danh nghĩa của nó. Thực tiễn đó dẫn đến sự ra đời của tiền giấy. Bản thân tiền giấy không có giá trị mà chỉ là dấu hiệu của giá trị và được công nhận trong phạm vi quốc gia.
Phương tiện cất trữ. Làm phương tiện cất trữ, tức là tiền được rút khỏi lưu thông đi vào cất trữ. Sở dĩ tiền làm được chức năng này là vì: tiền là đại biểu cho của cải xã hội dưới hình thái giá trị, nên cất trữ tiền là một hình thức cất trữ của cải. Để làm chức năng phương tiện cất trữ, tiền phải có đủ giá trị, tức là tiền vàng, bạc. Chức năng cất trữ làm cho tiền trong lưu thông thích ứng một cách tự phát với nhu cầu tiền cần thiết cho lưu thông. Nếu sản xuất tăng, lượng hàng hoá nhiều thì tiền cất trữ được đưa vào lưu thông. Ngược lại, nếu sản xuất giảm, lượng hàng hoá lại ít thì một phần tiền vàng rút khỏi lưu thông đi vào cất trữ.
Phương tiện thanh toán. Làm phương tiện thanh toán, tiền được dùng để trả nợ, nộp thuế, trả tiền mua chịu hàng … Khi sản xuất và trao đổi hàng hoá phát triển đến trình độ nào đó tất yếu nảy sinh việc mua bán chịu. Trong hình thức giao dịch này trước tiên tiền làm chức năng thước đo giá trị để định giá cả hàng hoá. Nhưng vì là mua bán chịu nên đến kỳ hạn tiền mới được đưa vào lưu thông để làm phương tiện thanh toán. Sự phát triển của quan hệ mua bán chịu này một mặt tạo khả năng trả nợ bằng cách thanh toán khấu trừ lẫn nhau không dùng tiền mặt. Mặt khác, trong việc mua bán chịu người mua trở thành con nợ, người bán trở thành chủ nợ. Khi hệ thống chủ nợ và con nợ phát triển rộng rãi, đến kỳ thanh toán, nếu một khâu nào đó không thanh toán được sẽ gây khó khăn cho các khâu khác, phá vỡ hệ thống, khả năng khủng hoảng kinh tế tăng lên.
Tiền tệ thế giới. Khi trao đổi hàng hoá vượt khỏi biên giới quốc gia thì tiền làm chức năng tiền tệ thế giới. Với chức năng này, tiền phải có đủ giá trị, phải trở lại hình thái ban đầu của nó là vàng. Trong chức năng này, vàng được dùng làm phương tiện mua bán hàng, phương tiện thanh toán quốc tế và biểu hiện của cải nói chung của xã hội.
Nếu bạn đang gặp khó khăn hay vướng mắc về viết luận văn, khóa luận hay bạn không có thời gian để làm luận văn vì phải vừa học vừa làm? Kỹ năng viết cũng như trình bày quá lủng củng?… Vì vậy bạn rất cần sự trợ giúp của dịch vụ làm đồ án thuê tphcm.
Hãy gọi ngay tới tổng đài tư vấn luận văn 1080 – 096.999.1080 nhận viết luận văn theo yêu cầu, đảm bảo chuẩn giá, chuẩn thời gian và chuẩn chất lượng, giúp bạn đạt được điểm cao với thời gian tối ưu nhất mà vẫn làm được những việc quan trọng của bạn.

2. Vai trò của tiền tệ trong nền KT3

2.1    Tiền tệ là phương tiện để mở rộng phát triển sản xuất và trao đổi HH

–   Tiền làm cho giá trị của hàng hoá được biểu hiện một cách đơn giản cho nên người ta dễ dàng so sánh các hàng hoá với nhau và người lao động có  thể so sánh về mức độ lao động với nhau.
–   Nó làm cho giá trị của hàng hoá được thực hiện một cách thuận lợi, người sở hữu có thể chuyển đổi giá trị sử dụng một cách dễ dàng
–   Tiền tệ làm cho sự trao đổi hàng hoá không bị ràng buộc về không gian và thời gian.
–   Tiền tệ làm cho việc hạch toán hiệu quả sản xuất kinh doanh dễ dàng

2.2    Tiền tệ nó biểu hiện giá trị quan hệ xã hội

Quá trình sản xuất giữa các cá nhân, doanh nghiệp luôn diễn ra hoàn toàn độc lập và riêng lẻ nhưng khi thực hiện trao đổi tiền là sợi dây nối liền giữa những người sản xuất hàng hoá với nhau. Về hình thức thì chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau nhưng về thực chất thì chúng có mối quan hệ chia rẻ, tiền phân hoá mối quan hệ trong xã hội thành kẻ giàu, người nghèo và có sự phân cấp địa vị xã hội.

2.3    Tiền phục vụ cho mục đích của người sở hữu chúng

Đối với dân cư: tiền là phương tiện phục vụ nhu cầu sống
Đối với chính sách tài chính quốc gia: tiền là cơ sở để hình thành nên các khoản thu chi của ngân sách
Đối với chính sách kinh tế đối ngoại: tiền là cơ sở hình thành nên tỷ giá hối đoái hoặc là phương tiện chi trả giữa các quốc gia
Đối với chính sách kinh tế vi mô: cơ sở hình thành vốn và các chỉ tiêu tài chính như chi phí sản xuất, giá thành sản phẩm, doanh thu, lợi nhuận
Đối với chính sách kinh tế vĩ mô: tiền là phương tiện để nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Các bài có thể xem: 
+  Khái niệm và đặc điểm thẻ thanh toán ngân hàng ,
+  Quy trình cho vay khách hàng cá nhân,
+  Các hình thức cho vay khách hàng cá nhân,
+  Tìm hiểu chiêu thi – promotion trong marketing,
+  Tìm hiểu sensory marketing ,
+  Các nhân tố ảnh hướng đến văn hóa doanh nghiệp.,
+  Mã hóa là gì,
+  Thị trường tiền tệ là gì,
+  Định nghĩa vai trò và công cụ của chính sách tiền tệ

Trên thực tế, không có gì là bí mật đối với bất kỳ ai rằng tiền đang trong quá trình lưu thông hàng hóa là một phương tiện để nhận ra giá trị của chúng. Do đó, chức năng chính bắt đầu và đồng thời trong hệ thống quan hệ tiền tệ là thước đo giá trị. Nó là cái gì Các tính năng chính của nó là gì? Chủ đề này có liên quan ngày hôm nay không?

Khía cạnh dứt khoát của thước đo giá trị

Thước đo giá trị là chức năng quan trọng nhất của tiền, giúp nó có thể thay đổi một cách định tính và thể hiện chính xác giá trị của một đối tượng dưới dạng tiền tệ. Vì vậy, một điều cụ thể được chỉ định một hình thức giá. Tác động của chức năng này không phụ thuộc vào chính phủ của bất kỳ quốc gia nào. Thang đo của giá là một biểu hiện của giá trị của đối tượng và hoàn toàn hợp pháp về bản chất.

Vì sao tiền là thước đo giá trị

Chức năng của tiền là thước đo giá trị có một tính năng rất thú vị, đó là khả năng đo lường chính xác chi phí lao động, kết hợp lại một phần thu nhập quốc gia nhất định (ví dụ, trong trường hợp không khớp giá trị giá) và cũng đánh giá chính xác hàng hóa thông qua hệ thống định giá.

Giá cả, thước đo giá trị và các tính năng chính của chúng

Giống như bất kỳ chức năng nào khác của tiền, thước đo giá trị được ban cho các tính năng cụ thể và không cụ thể. Thứ nhất, chức năng này chỉ có thể được thực hiện bằng tiền có giá trị đầy đủ và giá đóng vai trò là một hình thức công nhận tiền là thước đo giá trị. Do đó, trong trường hợp cân bằng hàng hóa và một số tiền nhất định, bạn có thể thay đổi giá trị một cách định lượng. Thứ hai, thước đo chi phí là một chức năng cho phép bạn lập kế hoạch và tính toán đầy đủ, thực hiện các hoạt động phân phối trên sản phẩm xã hội và cũng tính toán các khía cạnh của chi phí sản xuất. Nhờ có nó, ngày nay không khó để duy trì một cách định tính các kết nối của các chủ thể kinh tế khác nhau (ví dụ: doanh nghiệp và nhân viên, doanh nghiệp và trung gian, hoặc hai doanh nghiệp có định hướng tương tự về sản xuất và bán sản phẩm).

Vì sao tiền là thước đo giá trị

Chức năng của thước đo giá trị là tiền.

Dựa vào thông tin được trình bày trong các chương trước, có thể đưa ra một định nghĩa chi tiết và chính xác nhất về khái niệm đang được xem xét. Do đó, thước đo giá trị là một chức năng kinh tế của tiền, mà hoạt động của nó không có cách nào kết nối với nhà nước. Quy mô của giá cả được ban cho một đặc tính pháp lý và không thể hiện gì hơn giá của một loại hàng hóa. Để xác định có thẩm quyền giá trị của tài sản cố định theo tỷ lệ giá trị, các điều kiện sau đây phải được đáp ứng đồng thời:

  • Bình đẳng tuyệt đối về giá cả so với một không gian kinh tế chung.
  • Một mức độ xứng đáng của sự phát triển của các thể loại như quan hệ thị trường và cạnh tranh.
  • Sự ổn định tương đối của tiền tệ quốc gia.
  • Sự tương đương về mặt trao đổi.

Vì sao tiền là thước đo giá trị

Trang lịch sử

Thước đo giá trị là một phạm trù, trong quá trình nghiên cứu mà trọng tâm chính là vàng. Xét cho cùng, chức năng chính của kim loại là đảm bảo đầy đủ việc xác định tiền tệ của giá cả hàng hóa, để làm cho chúng có thể so sánh với nhau, cả về mặt định tính và định lượng. Theo thời gian, xã hội đã chọn từ bỏ vàng, từ đó chuyển chức năng được xem xét trong bài viết sang một loại tiền tương đương thuận tiện hơn. Nhờ vậy, một hệ thống chuyển đổi dễ sử dụng đã được hình thành.

Điều quan trọng cần lưu ý là ngày nay, tất cả các quốc gia đều có thước đo giá trị được thiết lập riêng lẻ (khía cạnh này được gọi là thang giá và được thảo luận dưới đây). Ví dụ, ở Hoa Kỳ, đồng tiền quốc gia (đô la Mỹ) đóng vai trò là thước đo giá trị, ở Mexico - đồng peso, ở Nhật Bản - đồng yên, ở Nga - đồng rúp, v.v.

Vì sao tiền là thước đo giá trị

Khái niệm cơ bản về hình thành thước đo giá trị

Hóa ra, bằng các đơn vị tiền tệ quốc gia ngày nay, có thể đo lường giá trị của tất cả các đối tượng (xem ở trên: thước đo giá trị là …). Đây là cách khả năng quan trọng nhất của tiền được thể hiện - hoạt động như một thước đo giá trị và như một trung gian trong quá trình xác định. Thời gian trước không ai biết về tiền giấy - chúng được thay thế bằng hàng hóa thông thường. Do đó, sự xuất hiện của một mức giá tương đương cho các đơn vị tiền tệ của hàng hóa (tất nhiên, tuân theo các quy luật giá trị nhất định) được đảm bảo theo cách thức một lần. Ngoài ra, cả hai đối tượng của giao dịch (những thứ cụ thể) và tiền đều có một cơ sở chung để so sánh, đó là lao động (cần lưu ý rằng khái niệm này là trừu tượng). Điều này có nghĩa là thông qua chức năng đo lường giá trị, hàng hóa có thể được quy cho tiền cũng như tương đương chung. Để giải quyết vấn đề này, điều quan trọng là xác định chính xác quy mô của giá cả.

Vì sao tiền là thước đo giá trị

Khái niệm về quy mô giá cả

Quy mô của giá cả không có gì ngoài đối tượng xác định giá trị của hàng hóa bằng tiền. Khái niệm này là sự cố định chặt chẽ tỷ lệ trọng lượng của vàng (dưới dạng kim loại tiền) với đồng nội tệ (gọi tắt là tiền tệ quốc gia) ở một quốc gia cụ thể. Tại thời điểm sản xuất hàng hóa được tích cực thực hành, tiền giấy có thể được trao đổi ở nhiều thị trường khác nhau (cả trong một trạng thái nhất định và trên trường quốc tế). Đương nhiên, trong quá trình chuyển đổi sang loại tiền có tính chất không thể di chuyển, chức năng này đã được cân bằng: các quỹ tín dụng chỉ có thể thực hiện chức năng đại diện, nghĩa là phục vụ như một phương tiện của tài khoản.

Lạm phát và đo lường chi phí

Cần lưu ý rằng máy đo giá trị hàng hóa là một thành phần của hệ thống quan trọng nhất, trong đó lạm phát cũng được coi là một phần (nó đóng vai trò quyết định trong quá trình giảm giá tiền). Một ví dụ nổi bật của hiện tượng này có thể đóng vai trò là giá du lịch trong giao thông công cộng. Giả sử bạn có 100 rúp. Trên thực tế, không có gì thay đổi về mặt danh nghĩa, nhưng trong một cuộc kiểm tra thực tế về tình huống, hóa ra năm ngoái bạn có thể mua 10 vé khẩu phần cho số tiền này, và trong số hiện tại - chỉ 8 hoặc 7.

Lịch sử nhắc nhở chúng ta rằng trong những năm 90 siêu lạm phát đã diễn ra trên lãnh thổ Nga. Sau đó, tiền đã bị khấu hao với tốc độ chóng mặt. Ngay cả các sinh viên thời đó cũng cố gắng dành học bổng của mình càng nhanh càng tốt, bởi vì trong suốt thời gian tháng, số tiền này có thể dễ dàng bị mất một phần đáng kể của nó. Nhưng sau năm 1998, lạm phát hàng năm khoảng 20% ​​có thể được quan sát ở nước này hàng năm và cuộc khủng hoảng năm 20082002009 đã thúc đẩy ổn định lạm phát ở mức 7% 8%.

Vì sao tiền là thước đo giá trị

Còn gì nữa không

Khi hệ thống xã hội chủ nghĩa diễn ra ở Nga và các cơ chế thị trường hoàn toàn không hoạt động, không có lạm phát. Tuy nhiên, có một thâm hụt, ngụ ý lạm phát ẩn.

Cần phải nói thêm rằng trong nền kinh tế có một thứ như giảm phát, nhưng ở Nga nó chưa bao giờ được quan sát. Điều duy nhất nó có thể phù hợp vào tháng 8-9, vì lúc đó giá rau giảm. Lạm phát cực đại rơi vào tháng Giêng. Chính trong khoảng thời gian này, các nhà độc quyền tự nhiên tăng thuế quan đáng kể, dẫn đến giá cao hơn trong các ngành công nghiệp khác. Một thực tế thú vị là một tác động đáng kể đến quá trình lạm phát của mức độ tăng trưởng kinh tế. Vì vậy, nếu nó đủ cao, thì lạm phát đạt đến các chỉ số tương ứng.