Viết tắt ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn

Giới thiệu

Ngân hàng Agribank  có tên đầy đủ là Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam. Tên tiếng Anh là Vietnam Bank for Agriculture and Rural Development.

Được thành lập ngày 26/3/1988, hiện nay Agribank được xem là ngân hàng thương mại lớn nhất Việt Nam, có mạng lưới rộng khắp trên toàn quốc với gần 2.300 chi nhánh và phòng giao dịch được kết nối trực tuyến. Agribank là ngân hàng thương mại duy nhất có mặt tại 9/13 huyện đảo, với số lượng cán bộ, nhân viên lên tới gần 40.000 người.

Với vai trò trụ cột của nền kinh tế đất nước, chủ đạo chủ lực trên thị trường tài chính nông nghiệp, nông thôn, Agribank luôn chú trọng mở rộng mạng lưới hoạt động rộng khắp xuống các huyện, xã nhằm tạo điều kiện cho khách hàng ở tất cả mọi vùng, mọi miền đất nước dễ dàng tiếp cận nguồn vốn ngân hàng.

Trong những nỗ lực cải tiến về sản phẩm, dịch vụ của mình, Agribank đang không ngừng đơn giản hoá các thủ tục cho vay, cải tiết mô hình, phương thức cho vay, kết hợp với các ban ngành để triển khai hơn 68.000 tổ vay vốn với gần 1,5 triệu thành viên….

Hiện tại, Agribank là đối tác tin cậy của hơn 60.000 doanh nghiệp, 4 triệu hộ sản xuất và 10 triệu khách hàng cá nhân. Nhờ mạng lưới hoạt động rộng khắp đã góp phần tạo nên thế mạnh vượt trội của Agribank so với các ngân hàng khác.

Để đáp ứng mọi yêu cầu về thanh toán xuất, nhập khẩu của khách hàng trong và ngoài nước, Agribank đã luôn chú trọng mở rộng quan hệ ngân hàng đại lý trong khu vực và trên quốc tế. Cụ thể, Agribank có quan hệ ngân hàng đại lý với 761 ngân hàng tại 86 quốc gia và vùng lãnh thổ. Agribank cũng đã tiến hành ký kết thỏa thuận với Ngân hàng Nông nghiệp Lào, Ngân hàng Phongsavanh (Lào), Ngân hàng ACLEDA (Campuchia), Ngân hàng Nông nghiệp Trung Quốc (ABC), Ngân hàng Công thương Trung Quốc (ICBC), Ngân hàng Trung Quốc (BOC),...

Là ngân hàng thương mại hàng đầu trong hệ thống ngân hàng Việt Nam, Agribank còn sở hữu các công ty con bao gồm: Công ty cho thuê Tài chính I (ALC I), Công ty TNHH MTV DV NHNo Việt Nam, Công ty CP Chứng khoán Agribank, Công ty CP Bảo hiểm Agribank và Công ty TNHH MTV Quản lý nợ & Khai thác tài sản Agribank.

Mục tiêu được Agribank đề ra là giữ vững vị trí Ngân hàng Thương mại hàng đầu Việt Nam, có nền tảng công nghệ, mô hình quản trị hiện đại, hoạt động kinh doanh đa năng, hiệu quả, phát triển ổn định và bền vững; giữ vai trò chủ lực về tín dụng, cung cấp các dịch vụ, tiện ích ngân hàng trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn; Hội nhập sâu rộng, đi tắt đón đầu những thành tựu mới trong ứng dụng khoa học, công nghệ tiên tiến của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, theo lộ trình và chiến lược cụ thể nhằm phát triển dịch vụ ngân hàng số, cung cấp SPDV tài chính ngân hàng mọi lúc, mọi nơi, mọi đối tượng, hỗ trợ đắc lực cho khách hàng nhất là khu vực nông nghiệp, nông thôn và nông dân.

Skip to content

Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam (Agribank) là ngân hàng thương mại lớn nhất Việt Nam tính theo tổng khối lượng tài sản, thuộc loại doanh nghiệp nhà nước hạng đặc biệt.

1. Giới thiệu chung về Agribank

  • Công ty: Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam (Agribank)
  • Thành lập: 1988
  • Trụ sở: Quận Ba Đình, Hà Nội, Việt Nam
  • Lĩnh vực: Ngân hàng
  • Website: http://www.agribank.com.vn/
  • Tìm hiểu thêm các công ty và thương hiệu khác tại đây: Network | Brade Mar
Viết tắt ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
Logo của Agribank

Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam (Vietnam Bank for Agriculture and Rural Development) viết tắt Agribank, là ngân hàng thương mại lớn nhất Việt Nam tính theo tổng khối lượng tài sản, thuộc loại doanh nghiệp nhà nước hạng đặc biệt. Theo báo cáo của Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) năm 2007, Agribank cũng là doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam.

Agribank được thành lập ngày 26 tháng 3 năm 1988. Lúc mới thành lập, ngân hàng mang tên là Ngân hàng Phát triển Nông nghiệp Việt Nam. Cuối năm 1990, ngân hàng được đổi tên thành Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam. Cuối năm 1996 ngân hàng lại được đổi tên thành tên gọi như hiện nay.

Năm 2003, Chủ tịch nước Việt Nam đã trao tặng Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn danh hiệu Anh hùng Lao động thời kỳ Đổi mới.

Viết tắt ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
Agribank là một trong bốn ngân hàng thương mại lớn của Việt Nam, thường được gọi là Bộ Tứ (Big 4)

2. Quy mô của Agribank

Agribank là ngân hàng lớn nhất Việt Nam cả về vốn, tài sản, đội ngũ cán bộ nhân viên, mạng lưới hoạt động và số lượng khách hàng. Đến tháng 3/2007, vị thế dẫn đầu của Agribank vẫn được khẳng định trên nhiều phương diện: Tổng nguồn vốn đạt gần 26.700 tỷ đồng, vốn tự có gần 15.000 tỷ đồng; Tổng dư nợ đạt gần 23.900 tỷ đồng, tỷ lệ nợ xấu theo chuẩn mực mới, phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế là 1,9%. Năm 2007, Agribank có hơn 2200 chi nhánh và điểm giao dịch được bố trí rộng khắp trên toàn quốc với gần 30.000 cán bộ nhân viên.

Năm 2017, tổng tài sản của Agribank vượt 1 triệu tỷ đồng.

Năm 2019, tổng tài sản của ngân hàng đạt 1,4 triệu tỷ đồng; nguồn vốn huy động đạt 1,29 triệu tỷ đồng; dư nợ cho vay nền kinh tế đạt hơn 1,05 triệu tỷ. Như vậy, Agribank là ngân hàng đứng thứ 2 (sau BIDV) về tổng tài sản trong toàn hệ thống ngân hàng. Lợi nhuận 10 tháng đầu năm 2019 của Agribank đạt trên 10.350 tỷ đồng, vượt 35% kế hoạch 10.000 tỷ đồng đề ra cho cả năm 2019.

Năm 2020, Agribank là ngân hàng thương mại nhà nước hàng đầu Việt Nam cả về vốn điều lệ, tổng tài sản, quy mô mạng lưới, đội ngũ cán bộ công nhân viên và số lượng khách hàng với gần 40.000 cán bộ viên chức; 2.300 chi nhánh và phòng giao dịch trong toàn hệ thống. Tổng tài sản của Agribank đạt trên 1,57 triệu tỷ đồng, vượt qua BIDV để đứng thứ nhất trong số các ngân hàng tại Việt Nam. Nguồn vốn đạt trên 1,45 triệu tỷ đồng. Tổng dư nợ cho vay nền kinh tế đạt trên 1,21 triệu tỷ đồng; tỷ trọng dư nợ nông nghiệp – nông thôn chiếm xấp xỉ 70% dư nợ cho vay. Agribank đã thiết lập quan hệ với gần 900 ngân hàng tại 90 quốc gia và vùng lãnh thổ.

Là ngân hàng 100% vốn Nhà nước với dư nợ cho vay nông nghiệp – nông thôn chiếm xấp xỉ 70% tổng dư nợ và là ngân hàng chiếm tỷ trọng lớn nhất trong việc cấp tín dụng “Tam nông” tại Việt Nam, Agribank là đơn vị tiên phong, chủ lực để Chính phủ Việt Nam triển khai 07 chương trình tín dụng chính sách và 02 chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới và giảm nghèo bền vững.

Agribank đã được trao tặng nhiều danh hiệu như: Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới, Huân chương Lao động, Sao Vàng đất Việt, Doanh nghiệp phát triển bền vững; Doanh nghiệp có thành tích xuất sắc phục vụ phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn và nông dân trong thời kỳ đổi mới; Doanh nghiệp thực hiện tốt trách nhiệm xã hội và phát triển cộng đồng; Top 10 Doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam VNR500; Top 3 Doanh nghiệp nộp thuế thu nhập doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam; Top 50 Doanh nghiệp xuất sắc nhất Việt Nam; Ngân hàng tiêu biểu về hỗ trợ đầu tư nông nghiệp công nghệ cao, Ngân hàng tiêu biểu vì cộng đồng.

Viết tắt ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
Agribank là ngân hàng thương mại lớn nhất Việt Nam tính theo tổng khối lượng tài sản, thuộc loại doanh nghiệp nhà nước hạng đặc biệt

3. Lịch sử của Agribank

1988:

  • 26 tháng 3: Ngân hàng Phát triển Nông nghiệp Việt Nam ra đời theo Nghị định số 53/NĐ-HĐBT ngày 26/3/1988 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ), và chính thức đi vào hoạt động ngày 01/07/1988 trên phạm vi cả nước.
  • 6 tháng 10: Tổng Giám đốc (nay là Thống đốc) NHNN đã ra Quyết định số 104/NH-QĐ cho phép Ngân hàng Phát triển Nông nghiệp Việt Nam (NHPTNo) thành lập chi nhánh Ngân hàng Phát triển Nông nghiệp Đồng bằng sông Cửu Long. Giám đốc chi nhánh là ông Lê Chí Thành (Phó Tổng Giám đốc thứ nhất NHPTNo) kiêm nhiệm. Ngân hàng Phát triển Nông nghiệp Đồng bằng sông Cửu Long hoạt động theo nguyên tắc hạch toán độc lập, tự huy động, tự cho vay để phát triển sản xuất nông nghiệp vùng đồng bằng sông Cửu Long.

1989:

  • 1 tháng 5: NHNN đã ra quyết định thành lập Chi nhánh Ngân hàng phục vụ lương thực tại thành phố Hồ Chí Minh do ông Nguyễn Thanh Châu làm Giám đốc chi nhánh.
  • Từ giữa năm 1989: NHPTNo Việt Nam thực hiện thí điểm cho vay tới hộ nông dân tại một số chi nhánh của ở các tỉnh như Hà Bắc, An Giang, Cửu Long, Long An và huyện Bình Chánh tại thành phố Hồ Chí Minh. Việc thí điểm đạt kết quả tốt, ngân hàng thu được cả gốc lẫn lãi đúng kỳ hạn, nông dân rất phấn khởi.

1990:

  • 24 tháng 5: Chủ tịch Hội đồng Nhà nước nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã công bố Sắc lệnh số 37-NTC/HĐNN ban hành Pháp lệnh Ngân hàng nhà nước Việt Nam và Sắc lệnh số 38-NCT/HĐNN ban hành Pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính, nhằm tổ chức lại và đưa hệ thống Ngân hàng vào hoạt động phù hợp với yêu cầu của sản xuất hàng hóa, bảo đảm phát triển nền tiền tệ một cách an toàn, điều hòa việc sử dụng tiền tệ có hiệu quả, thúc đẩy kinh tế thị trường phát triển năng động, trật tự.
  • 14 tháng 11: Quyết định số 400/CTcủa Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng về việc Thành lập Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam đã đổi tên Ngân hàng Phát triển nông nghiệp Việt Nam thành Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam.
  • Tháng 12: Chính phủ Việt Nam và Cộng đồng châu Âu (EC) đã ký Hiệp định về dự án Tài trợ của EC “Chương trình hồi hương và tái hòa nhập” bao gồm 6 Chương trình: Y tế, Đào tạo (nghề nghiệp), Doanh nghiệp nhỏ, Dự án, Thông tin tuyên truyền, Tín dụng, trong đó Tín dụng là chương trình quan trọng với số vốn nhiều nhất. Sau khi khảo sát nhiều ngân hàng thương mại, EC quyết định chọn NHNNVN là ngân hàng đầu tiên thực hiện dự án.
Viết tắt ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
Chính phủ Việt Nam và Cộng đồng châu Âu (EC) đã ký Hiệp định về dự án Tài trợ của EC “Chương trình hồi hương và tái hòa nhập”

1991:

  • Đầu năm 1991: Hội nghị Ban điều hành Hiệp hội tín dụng Nông nghiệp Nông thôn khu vực châu Á-Thái Bình Dương (APRACA) tại Bắc Kinh đã công nhận NHNo Việt Nam là hội viên.
  • 18 tháng 1: Tổng Giám đốc NHNo Việt Nam đã ban hành văn bản số 45/KH-NHNo về Hướng dẫn lập và quản lý kế hoạch kinh doanh trong hệ thống NHNNVN; Văn bản số 53/NHNg về “Biện pháp cho vay ngắn hạn, trung hạn đối với hộ nông dân”.
  • 1 tháng 3: Văn phòng Đại diện NHNo Việt Nam ở miền Nam được thành lập tại thành phố Hồ Chí Minh theo Quyết định số 18/NH-QĐ của Thống đốc NHNN, và Văn phòng Đại diện NHNo Việt Nam ở miền Trung được thành lập tại thành phố Quy Nhơn (thuộc tỉnh Bình Định) theo văn bản số 439/CV-TCCB của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước.
  • 23 tháng 7: Tổng Giám đốc NHNo Việt Nam đã ban hành văn bản 499/NHNo về việc cho vay hộ nông dân.
  • 1 tháng 9: NHNo Việt Nam ban hành Văn bản số 946/NHNo về chế độ khoán tài chính.
  • Tháng 10: NHNo Việt Nam chính thức gia nhập APRACA

1992:

  • 24 tháng 6: NHNo Việt Nam ban hành Văn bản số 495/NHNo-KH về Quy chế xây dựng, tổ chức thực hiện kế hoạch tín dụng tổng hợp trong hệ thống NHNN Việt Nam.
  • Tháng 10: Thành lập Sở Giao dịch đối ngoại (tức Sở Kinh doanh hối đoái sau này).
  • 10 tháng 12: NHNo Việt Nam thí điểm thực hiện chuyển tiền qua mạng tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh với 5 đơn vị tham gia, tiến đến triển khai mở rộng.
  • 22 tháng 12: Thống đốc NHNN ra Quyết định số 603/NH-QĐ về việc thành lập các chi nhánh của NHNo ở các tỉnh, thành phố gồm 3 Sở Giao dịch (Sở Giao dịch I tại Hà Nội, Sở Giao dịch II tại thành phố Hồ Chí Minh và Sở Giao dịch III tại Đà Nẵng), 43 chi nhánh tại tỉnh, thành phố, và 475 chi nhánh quận, huyện, thị xã.
  • Cuối năm 1992: NHNo Việt Nam thực hiện sắp xếp lại tổ chức bộ máy theo Điều lệ NHNo Việt Nam ban hành theo Quyết định số 250/QĐ-NH5 ngày 11/11/1992 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước.

1993:

  • 12 tháng 2: NHNo đã ban hành văn bản số 152/NHNo-TT hướng dẫn thực hiện thanh toán qua mạng trong hệ thống.
  • 20 tháng 9: NHNo ban hành văn bản số 1234/NHNo-TT hướng dẫn thanh toán tay ba giữa người đi vay, ngân hàng, và người cung ứng dịch vụ (khi cho hộ sản xuất vay vốn qua cửa hàng bán vật tư nông nghiệp).
  • 27 tháng 8: Tổng Giám đốc NHNo ban hành văn bản 495D/NHNo-KH quy định về xây dựng, tổ chức thực hiện KHKD trong toàn hệ thống NHNNVN. Văn bản này thay thế cho văn bản văn bản số 495/NHNo-KH.
  • 2 tháng 9: Tổng Giám đốc NHNo ban hành văn bản số 499A/NHNo-TDNT về biện pháp nghiệp vụ cho vay hộ sản xuất.
  • Từ năm 1993: NHNo đã nhận làm dịch vụ ủy thác đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn Việt Nam thông qua các dự án phát triển có vốn nước ngoài

1994:

  • 1 tháng 1: Văn bản 946A đã được ban hành thay thế văn bản 946 trước đây, và được gọi là Khoán 946A. Khoán 946A thực chất là khoán tiền lương trên kết quả thu chi của từng đơn vị, có chênh lệch thu chi càng cao thì quỹ tiền lương càng cao và ngược lại.
  • 30 tháng 7: Thống đốc NHNN ra Quyết định số 160/QĐ-NHN9 chấp thuận đổi mới mô hình tổ chức quản lý của NHNo Việt Nam.
  • Từ tháng 8: Hình thành Khối kinh tế đối ngoại và Quản lý hối đoái (do ông Đỗ Tất Ngọc làm Giám đốc) có chức năng tham mưu và chỉ đạo các hoạt động quan hệ quốc tế, dự án nước ngoài và kinh doanh đối ngoại. Sở Kinh doanh hối đoái (do ông Nguyễn Gia Huân làm giám đốc) là đơn vị trực tiếp thực hiện hoạt động kinh doanh đối ngoại tại Trung tâm điều hành.
  • 20 tháng 9: NHNo ban hành văn bản số 1082/NHNo-Việt Nam quy định tổ chức mạng lưới và nghiệp vụ thu đổi ngoại tệ.
  • 4 tháng 10: NHNo ra văn bản số 1164/NHNO-TT hướng dẫn các đơn vị chuẩn bị các điều kiện, mở rộng triển khai mở tài khoản cá nhân, khuyến khích thanh toán séc cá nhân.

1995:

  • Tháng 2: NHNo tham gia hệ thống thanh toán ngân hàng quốc tế (SWIFT), đây là điều kiện thuận lợi cho NHNo Việt Nam mở rộng và nâng cao chất lượng thanh toán quốc tế.
  • Tháng 3: Quỹ Cho vay ưu đãi hộ nghèo được thành lập theo quyết định của Thống đốc NHNN.
  • 24 tháng 3: Công bố Quyết định của Thống đốc NHNN về việc thiết lập Quỹ Cho vay ưu đãi hộ nghèo thiếu vốn sản xuất của NHNo.
  • 15 tháng 8: Khai trương Ngân hàng Liên doanh VINASIAM – liên doanh giữa NHNo với Ngân hàng thương mại Siam và Tập đoàn CP (Thái Lan) với số vốn điều lệ ban đầu của ngân hàng này là 15.000.000 USD.
  • 31 tháng 8: Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 525/QĐ-TTg cho phép thành lập Ngân hàng phục vụ người nghèo.
  • 1 tháng 9: Thống đốc NHNN Cao Sỹ Kiêm ký Quyết định số 230/QĐ-NH5 về việc thành lập Ngân hàng Phục vụ người nghèo.
Viết tắt ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
Khai trương Ngân hàng Liên doanh VINASIAM

1996:

  • 1 tháng 1: Ngân hàng Phục vụ người nghèo chính thức đi vào hoạt động.
  • 23 tháng 1: Lễ trao tặng Huân chương Lao động cho NHNo tại Hà Nội.
  • 19 tháng 5: NHNo ra Quyết định 210/NHNo-QĐ cho triển khai toàn hệ thống hình thức Chi nhánh loại IV thay cho tên gọi Ngân hàng liên xã.
  • Tháng 6: NHNo đăng cai tổ chức Hội nghị lần thứ 34 Ban điều hành APRACA tại Hà Nội. Đây là dấu mốc quan trọng trong quan hệ đối ngoại nhằm đẩy mạnh sự hợp tác có hiệu quả của của NHNo với APRACA.
  • 15 tháng 11: Quyết định số 280/QĐ-NHNN của NHNN đổi tên NHNo Việt Nam thành Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam (Agribank), hoạt động theo mô hình Tổng Công ty Nhà nước theo quy định tại Quyết định số 90/TTg ngày 7/3/1994 của Thủ tướng Chính phủ.
  • 20 tháng 12: Agribank thực hiện thí điểm thanh toán xuất nhập khẩu, mậu dịch biên giới giữa hai ngân hàng – Ngân hàng Nông nghiệp Hải Ninh (Quảng Ninh) và Ngân hàng Nông nghiệp Đông Hưng (Quảng Tây, Trung Quốc) tại cửa khẩu quốc tế Móng Cái.
  • 26 tháng 12: Công đoàn Agribank được thành lập theo Quyết định số 312/ToC-CĐNH của Chủ tịch Công đoàn Ngân hàng Việt Nam.

1997:

  • 27 tháng 8: Tổng Giám đốc Agribank ban hành văn bản số 1667/NHNo-06 quy định hộ sản xuất vay tối đa 5 triệu đồng không phải thế chấp tài sản, chỉ cần kê danh mục tài sản làm đảm bảo trong đơn xin vay.
  • Tháng 11: Tổng Giám đốc Agribank ban hành văn bản 1022/NHNo-06 bổ sung đối tượng vay vốn đến 10 triệu đồng không phải thế chấp tài sản gồm trồng cây dài ngày, chè, cà phê, cao su, điều, cây ăn quả có giá trị cao, kinh tế trang trại.

1998:

  • 14 tháng 7: Công ty Cho thuê tài chính I là đơn vị hoạch toán độc lập trực thuộc Agribank được thành lập theo Quyết định thành lập số 238/QD-NHNN5 của Thống đốc NHNN.
  • Tháng 7: Công ty cho thuê Tài chính 2 (ALC2) là doanh nghiệp nhà nước, đơn vị thành viên hạch toán độc lập của Agribank được thành lập theo Quyết định số 239/1998/QĐ-NHNN5 của Thống đốc NHNN.

1999:

  • Tháng 4: Triển khai thực hiện Quyết định 67/1999/ QĐ-TTg về một số chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp nông thôn.
  • Tháng 10: Hệ thống máy ATM của Agribank được đưa vào hoạt động.
  • 23 tháng 10: Agribank có Nghị quyết liên tịch số 2308 với Hội nông dân Việt Nam

2000:

  • Tháng 9: Hệ thống chuyển tiền điện tử áp dụng công nghệ tiên tiến đã được vận hành tại 9 chi nhánh gồm: Sở giao dịch, NHNo Hà Nội, Sở giao dịch I, NHNo Hà Tây, NHNo Láng Hạ, Sở giao dịch III (NHTP Đà Nẵng), Sở giao dịch II (NHNo Sài Gòn), NHNo Cần Thơ, NH 50 Bến Chương Dương.
  • 20 tháng 12: Công ty Cổ phần Chứng khoán Ngân hàng Nông nghiệp (Agriseco), một trong những công ty chứng khoán đầu tiên hoạt động trên thị trường chứng khoán Việt Nam, được thành lập theo Quyết định số 269/QĐ/HĐQT của Agribank.
  • Trong năm 2000: Ban Lãnh đạo Agribank đã xây dựng tầm nhìn và chiến lược phát triển cho đến năm 2010 với phương châm và triết lý kinh doanh: “Mang phồn thịnh đến với khách hàng”.
  • Cuối năm 2000: Agribank đã phát triển được hơn 2.300 chi nhánh trên mọi miền đất nước.
Viết tắt ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
Cuối năm 2000 Agribank đã phát triển được hơn 2.300 chi nhánh trên mọi miền đất nước

2001: Hội đồng Quản trị Agribank đã có quyết sách quan trọng thể hiện tại Quyết định số 80/QĐ-HĐQT-02, ban hành mô hình cơ cấu tổ chức và quản lý điều hành của Ngân hàng.

2002: Agribank thực hiện đầy đủ hệ thống kế toán theo tiêu chuẩn quốc tế.

2003:

  • 24 tháng 3: Tổng Công ty Vàng Agribank Việt Nam – CTCP (VIET NAM AGRIBANK GOLD CORPORATION JSC. – AJC) được thành lập theo Quyết định số 44/QĐ/HĐQT-TCCB.
  • 16 tháng 6: Quyết định số 596/NHNN-TCCB ngày của Tổng Giám đốc Agribank “Quy định về công tác đào tạo trong hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam”
  • 18 tháng 7: Trung tâm thẻ của Agribank được thành lập.
  • Trong năm 2003: Agribank xây dựng hoàn chỉnh hệ thống thông tin khách hàng trên cơ sở dữ liệu Oracle. Agribank đã ký hợp đồng đại lý trực tiếp với Công ty chuyển tiền nhanh Western Union. Agribank ủng hộ Quỹ “Đền ơn đáp nghĩa” tổng số tiền 1.468 triệu đồng và sử dụng vào việc xây dựng 35 căn nhà tình nghĩa tại 9 tỉnh tặng các đối tượng chính sách.

2004:

  • 29 tháng 1: Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên Dịch vụ Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam được thành lập theo Quyết định số 43/QĐ/GĐQT-TCCB.
  • Tháng 7: Agribank là ngân hàng thương mại đầu tiên ban hành cuốn sổ tay tín dụng, quy định những hệ thống chính sách trình tự cho vay chặt chẽ theo thông lệ quốc tế.
  • Trong năm 2004: Agribank đã thành lập Ủy ban Quản lý tài sản nợ và tài sản có trực thuộc Hội đồng Quản trị.

2005:

  • Thẻ ghi nợ nội địa Success ra đời như một bước đột phá trong việc cung cấp các dịch vụ tiện ích tới khách hàng.
  • Tổ chức thẻ quốc tế VISA đã tiến hành lắp đặt thiết bị hỗ trợ chuẩn chi (VAP) tại Agribank, tạo thuận lợi cho quá trình tham gia thị trường thẻ quốc tế của Agribank.
  • Thành lập thêm Sở Quản lý và Kinh doanh vốn và ngoại tệ.

2006: Công ty Cổ phần Bảo hiểm Ngân hàng Nông nghiệp được thành lập.

2007:

  • Agribank ký kết hợp đồng đào tạo có giá trị 5 triệu Euro với nguồn vốn do Cơ quan Phát triển Pháp (AFD) tài trợ, nhằm tập trung đào tạo kỹ năng quản lý cho đội ngũ lãnh đạo chủ chốt trong toàn hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam.
  • Agribank mở Văn phòng đại diện tại Campuchia.

2008: Agribank hoàn thành xây dựng module phân loại nợ tự động trên hệ thống IPCAR, đáp ứng yêu cầu của Quyết định 493/2005/NHNN và Quyết định số 18/2007/QĐ-NHNN.

2009: Chủ tịch HĐQT Agribank đã ký Quyết định phê duyệt Đề án “Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam mở rộng và nâng cao hiệu quả đầu tư vốn cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020”. Theo đó, Agribank đặt mục tiêu giữ vững tỷ trọng cho vay nông nghiệp, nông dân, nông thôn chiếm 70% dư nợ vào năm 2020

2010:

  • 28 tháng 6: Chính thức khai trương chi nhánh tại Campuchia.
  • 16 tháng 7: Agribank đã có Quyết định số 881/QĐ-HĐQT-TDHo ngày về việc ban hành quy định thực hiện Nghị định 41 về cho vay hộ gia đình sản xuất và các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Tổng dư nợ của khu vực này luôn ở mức 70% tổng dư nợ của toàn hệ thống.
  • Tháng 12: Agribank được Tổ chức thẻ Quốc tế MasterCard vinh danh tại lễ trao giải “MasterCard Hall of Fame 2010”. Agribank phát hành 2,1 triệu thẻ chỉ riêng trong năm 2010, nâng tổng số thẻ lên đến hơn 6,3 thẻ triệu,khẳng định vị trí ngân hàng số 1 Việt Nam trong lĩnh vực phát triển chủ thẻ.
  • Hội đồng Quản trị Agribank đã ra quyết định số 1269/QĐ-HĐQT ban hành Điều lệ tổ chức và hoạt động của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam, được ngân hàng Nhà nước Việt Nam phê chuẩn tại Quyết định số 2339/QĐ-NHNN ngày 5/10/2010 thay thế Điều lệ tổ chức và hoạt động của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam theo Quyết định số 117/QĐ/HĐQT-TCCB ngày 3/6/2002.
Viết tắt ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
Chính thức khai trương chi nhánh Agribank tại Campuchia

2011:

  • 31 tháng 1: Quyết định số 214/QĐ-NHNN của Thống đốc NHNN chuyển đổi mô hình hoạt động của Agribank sang mô hình Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ.
  • Cuối năm 2011: Đầu tư cho “tam nông” của Agribank đạt mốc 300.000 tỷ đồng, dẫn đầu các tổ chức tín dụng trong việc cho vay thí điểm xây dựng nông thôn mới.

2012:

  • 9 tháng 4: Công ty Quản lý nợ và khai thác tài sản được thành lập theo Quyết định số 635/QĐ-NHNN ngày của NHNN.
  • Đội ngũ cán bộ, viên chức của Agribank lên tới gần 40.000 người, chiếm trên 40% cán bộ, viên chức ngành Ngân hàng cả nước.
  • Agribank trở thành ngân hàng lớn nhất Việt Nam về mạng lưới hoạt động với gần 2.400 chi nhánh và phòng giao dịch trên toàn quốc, có chi nhánh tại Campuchia.
  • Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã chỉ định Agribank là ngân hàng phục vụ Khoản tài trợ bổ sung cho Dự án “Phòng chống dịch cúm gia cầm, cúm ở người và dự phòng đại dịch ở Việt Nam” với tổng giá trị 23 triệu USD.

2014:

  • Tháng 10: Agribank phối hợp với Hiệp hội Tín dụng Nông nghiệp Nông thôn Châu Á Thái Bình Dương (APRACA) tổ chức thành công hội thảo “Hệ thống cho vay nông nghiệp” với sự tham gia của các đại biểu từ 12 quốc gia thành viên.
  • Agribank ký kết 36 hiệp định khung và biên bản ghi nhớ, 96 thỏa thuận với các đối tác nước ngoài, đặc biệt ngân hàng đã hoàn thành đàm phán ký kết thỏa thuận khung ISDA với Ngân hàng BNP Paribas.
  • Triển khai “Chương trình thi đua ABIC cùng Agribank chung tay xây dựng nông thôn mới”.

2015:

  • Tháng 8: Agribank đã hoàn thành mục tiêu giảm nợ xấu về mức dưới 3% sớm hơn 4 tháng theo phê duyệt của NHNN và tiếp tục nỗ lực giảm nợ xấu về 1,89% tại thời điểm 31/12/2016.
  • Tháng 9: Agribank trở thành thành viên của Eurogiro – Liên minh giữa Ngân hàng và Tổ chức Bưu điện tại các nước. Ra mắt hệ thống phát hành và thanh toán thẻ chip theo chuẩn EMV với chủ đề “Công nghệ kết nối tương lai”.

2016:

  • Agribank ký thỏa thuận với Văn phòng điều phối Nông thôn mới Trung ương về việc hợp tác trong xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2016-2020.
  • Agribank tiếp tục ký kết thỏa thuận liên ngành với các hội: Hội Nông dân và Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam.
  • Agribank nhận giải thưởng Sao Khuê 2016 cho hai ứng dụng phần mềm xuất sắc trong lĩnh vực tài chính-ngân hàng là Agribank E-Mobile Banking và Hệ thống phát hành và thanh toán thẻ Chip theo chuẩn EMV.
  • Agribank “mở đường” phát triển nông nghiệp sạch thông qua cung cấp gói tín dụng tối thiểu 50.000 tỷ đồng nhằm đầu tư chuỗi sản xuất sản phẩm nông nghiệp an toàn với quy mô lớn.
  • Agribank là một trong 3 ngân hàng có doanh số đấu thầu trái phiếu lớn nhất thị trường, được Bộ Tài chính tặng bằng khen đã có thành tích xuất sắc trong công tác huy động vốn cho Ngân sách Nhà nước thông qua phát hành Trái phiếu Chính phủ.
  • Agribank ký kết 104 biên bản ghi nhớ, thỏa thuận với đối tác nước ngoài, trong đó có 40 thỏa thuận chung, 13 thỏa thuận TTTM, 36 thỏa thuận cung cấp sản phẩm dịch vụ, 15 thỏa thuận chia sẻ phí.
  • Trong khuôn khổ Hội nghị Thượng đỉnh Thương mại và Đầu tư Trung Quốc-ASEAN, Agribank đã ký Biên bản ghi nhớ với ICBC.

2017:

  • Tập trung đẩy mạnh việc triển khai dự án E-Banking để xây dựng nền tảng dịch vụ đa kênh hoàn chỉnh, giúp khách hàng có thể sử dụng dịch vụ ngân hàng qua nhiều kênh khác nhau, đặc biệt là Internet Banking và Mobile Banking.
  • Thực hiện Nghị quyết số 30/2017/NQ-CP của Chính phủ về gói tín dụng 100.000 tỷ đồng dành cho nông nghiệp sạch từ nguồn vốn vay thương mại, Agribank đã dành 50.000 tỷ đồng để thực hiện chương trình, với lãi suất cho vay giảm 0,5%-1,5%/năm so với lãi suất ưu đãi cho vay đối với lĩnh vực nông nghiệp nông thôn theo quy định hiện hành của NHNN và Agribank.
Viết tắt ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
Tập trung đẩy mạnh việc triển khai dự án E-Banking

2018:

  • Tổng tài sản đạt gần 1,3 triệu tỷ đồng, nguồn vốn huy đạt trên 1,2 triệu tỷ đồng, tổng dư nợ tín dụng và đầu tư đạt trên 1,1 triệu tỷ đồng, trong đó dư nợ nông nghiệp, nông thôn chiếm 73,6%/tổng dư nợ và chiếm 51% thị phần tín dụng của ngành Ngân hàng đầu tư lĩnh vực này.
  • Các giải thưởng: Huân chương Lao động hạng Nhất; Top 50 Doanh nghiệp thành tựu theo bảng xếp hạng VNR500 (dẫn đầu các NHTM trong Bảng xếp hạng 500 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam năm 2018, đứng thứ 7 trong số 500 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam); Thương hiệu quốc gia 2018; Giải “Sao khuê 2018” với Hệ thống/Phần mềm CNTT xuất sắc trong lĩnh vực tài chính ngân hàng; “Chất lượng thanh toán xuất sắc năm 2018” do Ngân hàng J.P.Morgan trao tặng; Top 3 ngân hàng dẫn đầu thị trường thẻ; Được tổ chức xếp hạng quốc tế Fitch Ratings nâng mức đánh giá xếp hạng tự nguyện về Nhà phát hành nợ dài hạn từ mức “B+” lên “BB-” với triển vọng “Ổn định”; Tạp chí The Banker bình chọn Agribank đứng thứ 465 trong Top 1.000 ngân hàng lớn nhất thế giới và xếp thứ 2 quốc gia năm 2018…

2019:

  • Tổng tài sản đạt trên 1,45 triệu tỷ đồng; Nguồn vốn đạt trên 1,34 triệu tỷ đồng; Tổng dư nợ và đầu tư đạt trên 1,3 triệu tỷ đồng, trong đó cho vay nền kinh tế đạt trên 1,12 triệu tỷ đồng. Dư nợ trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn luôn chiếm tỷ trọng trên 70%/tổng dư nợ.
  • Năm 2019, Agribank tiếp tục được khẳng định là Quán quân các NHTM được vinh danh vị trí thứ 8 trong Bảng xếp hạng VNR500; được tổ chức xếp hạng tín nhiệm quốc tế Moody’s công bố mức xếp hạng của Agribank là Ba3, tương đương mức tín nhiệm quốc gia và là mức xếp hạng cao nhất đối với các NHTM ở Việt Nam; Agribank được xếp hạng thứ 142/500 ngân hàng lớn nhất Châu Á về quy mô tài sản; Giữ vững vị thế TOP 3 ngân hàng thương mại dẫn đầu trên thị trường thẻ; Vinh dự đón nhận các giải thưởng: Ngân hàng hỗ trợ đầu tư nông nghiệp công nghệ cao tiêu biểu năm 2019, Ngân hàng tiêu biểu vì cộng đồng năm 2019, Top 10 Ngân hàng thương mại Việt Nam uy tín năm 2019, Top 20 doanh nghiệp nộp thuế lớn nhất Việt Nam, 02 Giải thưởng Sao Khuê 2019 dành cho hạng mục hệ thống công nghệ thông tin xuất sắc trong lĩnh vực ngân hàng đối với 02 sản phẩm Hệ thống thanh toán Kiều hối tập trung (ARS) và Hệ thống thanh toán hóa đơn (Bill Payment), Giải thưởng thương hiệu Quốc gia (đối với 05 sản phẩm: Thẻ chip EMV, Agribank E-Mobile Banking, AgriTax, Thanh toán biên mậu qua Internet Banking, Cho vay nông nghiệp).
Viết tắt ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
Agribank được vinh danh vị trí thứ 8 trong Bảng xếp hạng VNR500

2020:

  • Đến 31/12/2020, tổng tài sản đạt trên 1,57 triệu tỷ đồng; nguồn vốn đạt trên 1,45 triệu tỷ đồng; tổng dư nợ cho vay nền kinh tế đạt trên 1,21 triệu tỷ đồng, trong đó gần 70% dư nợ dành cho đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn.
  • Năm 2020, Agribank tiếp tục được khẳng định là Quán quân các NHTM được vinh danh vị trí thứ 8 trong Bảng xếp hạng VNR500; được tổ chức xếp hạng tín nhiệm quốc tế Moody’s công bố mức xếp hạng của Agribank là Ba3, tương đương mức tín nhiệm quốc gia và là mức xếp hạng cao nhất đối với các NHTM ở Việt Nam. Agribank đứng thứ 190 – xếp hạng cao nhất trong các ngân hàng Việt Nam tại bảng xếp hạng Brand Finance Banking 500. Agribank nhận giải thưởng Tỷ lệ điện thanh toán chuẩn xuất sắc năm 2019 do ngân hàng The Bank of New York Mellon trao tặng. Agribank được nhận 03 giải thưởng do Asian banking & Finance trao tặng (Ngân hàng thực hiện trách nhiệm xã hội và chương trình Xanh của năm (giải nhì khu vực Châu á Thái bình dương); ngân hàng có giải pháp ứng dụng thanh toán trên điện thoại hay nhất của năm (phạm vi Việt nam); ngân hàng bán lẻ nội địa tốt nhất năm Việt Nam)
  • Agribank vinh dự đạt giải Top 10 Ngân hàng thương mại Việt Nam uy tín năm 2020; TOP 3 Doanh nghiệp nộp thuế lớn nhất Việt Nam năm 2019; Thương hiệu Quốc gia Việt Nam 2020. Agribank tiếp tục đạt giải thưởng Ngân hàng vì cộng đồng 2020 vì những đóng góp tích cực hỗ trợ cộng đồng qua các chương trình tín dụng chính sách, các hoạt động an sinh xã hội… Ngoài ra, ngân hàng tự động Agribank AutoBank CDM 24/7 cũng đã xuất sắc đạt giải thưởng Sao Khuê cho phần mềm/hệ thống xuất sắc nhất trong lĩnh vực Ngân hàng – Tài chính năm 2020. Agribank được nhận bằng khen vì những nỗ lực trong kết nối, cung cấp dịch vụ thanh toán trên Cổng dịch vụ công Quốc gia năm 2020. Agribank được tặng thưởng nhiều danh hiệu cao quý tại Đại hội Thi đua yêu nước ngành Ngân hàng lần thứ VIII giai đoạn 2020 – 2025…

Brade Mar (Cập nhật 01/2022)

(*) Lưu ý: Bài viết mang tính chất nghiên cứu cá nhân, không đại diện cho bất cứ tổ chức nào.