Xét về mặt thể loại văn học ở nước ta có truyền thống lâu đời

Căn cứ vào hiểu biết về các thể loại văn học Việt Nam

  • Để văn học Việt “bay xa”

Đánh giá về nền văn học Việt Nam, nhà thơ Andrzej Grabowski, Ủy viên BCH Hội Nhà văn Ba Lan, Giám đốc Liên hoan thơ Galicja nhận xét: “Khi điểm lại những thành tựu của văn học Việt Nam, chúng ta mới thấy trong đó thế hệ các nhà văn, nhà thơ là những người lao động nghiêm túc và có sự nhạy cảm tuyệt vời, họ đã ghi lại được tất cả những gì của lịch sử dù là nhỏ nhất, và khẳng định được cái riêng của mình trong cái chung của thời cuộc”.

Nhiều nhà thơ, nhà văn, dịch giả quốc tế đã nhận định Việt Nam là đất nước nước nghìn năm văn hiến, có nền giáo dục lâu đời là nền tảng để có nhiều nhà văn, nhà thơ giỏi, cho ra đời rất nhiều tác phẩm có giá trị. Nền văn học cổ điển với những tên tuổi lớn như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương… đã được đánh giá cao ở nhiều nước. Văn học thời kỳ chiến tranh cũng là những tác phẩm được độc giả các nước yêu thích và quan tâm khá nhiều với nhiều tên tuổi lớn.

“Có thể khẳng định nền văn học Việt Nam là một nền văn học đã theo suốt cả chiều dài lịch sử của dân tộc, luôn đi chung đường với Tổ quốc và đồng lòng với nhân dân. Mỗi chặng đường lịch sử, đều có những tác phẩm có giá trị mang đậm dấu ấn của lịch sử, đã đóng góp quan trọng cho văn học Việt Nam và nền văn học thế giới và sự tiến bộ của loài người”, dịch giả người Trung Quốc Chúc Ngưỡng Tu nhận xét.

Xét về mặt thể loại văn học ở nước ta có truyền thống lâu đời

Nhiều nhà văn, nhà thơ quốc đánh giá cao nền văn chương của Việt Nam.


Cũng theo dịch giả Chúc Ngưỡng Tu, ông đã từng đọc và dịch rất nhiều thể loại văn học Việt Nam, có cả tiểu thuyết, truyện ngắn, thơ... điều đó đã cho ông niềm yêu thích đặc biệt với văn học Việt Nam. Ông cũng từng dịch một truyện ngắn, chỉ vỏn vẹn có 2.200 chữ nhưng đã được rất nhiều người khen hay.

Tuy số lượng các tác phẩm ra được bên ngoài ranh giới quốc gia chưa phải là nhiều, nhưng những tác phẩm đã từng đến với độc giả các nước đều nhận được những sự yêu thích đặc biệt. Được quan tâm nhất có lẽ là giai đoạn văn chương cách mạng với nhiều tên tuổi lớn như: Ngô Tất Tố, Nguyễn Tuân, Nguyễn Khải, Tô Hoài, Nguyễn Minh Châu, Tố Hữu, Xuân Diệu...

“Vừa qua, tôi có tìm đọc những tiểu thuyết phiêu lưu của các nền văn học kinh điển thế giới có liên quan đến các hòn đảo như: “Những hòn đảo bí mật” của Jules Verne, “Đảo giấu vàng” của Robert Stevenson, “Robinson Crusoe” của Daniel Defoe và “Đảo hoang” của Tô Hoài. Qua đọc và nghiên cứu tôi thấy, cuốn tiểu thuyết của tác giả Việt Nam không hề kém cạnh so với các tác phẩm khác, thậm chí còn có nhiều điểm xuất sắc hơn như: tuyến cốt truyện thú vị, nhiều tình tiết hấp dẫn, nhiều thông tin về văn hóa lịch sử đất nước... Cuốn sách của Tô Hoài chỉ là một ví dụ cụ thể, những tôi có thể khẳng định rằng đông đảo người đọc Nga không bỏ qua những bản dịch thú vị của các tác phẩm văn học Việt Nam”, Trưởng ban Biên tập Hãng Thông tấn quốc tế “Nước Nga ngày nay” chia sẻ.

Văn học chiến tranh của Việt Nam cũng là dòng văn học được đánh giá cao và được độc giả nhiều nước yêu thích vì đã cho họ thêm hiểu và đồng lòng với sự nghiệp đấu tranh của Việt Nam. Đặc biệt là sức hấp dẫn từ những góc tiếp cận sáng tạo của các nhà thơ, nhà văn Việt Nam.

Theo nhà thơ Mỹ Martha Collins: “Tôi đã từng được cộng tác dịch tác phẩm với 3 nhà thơ Việt Nam là: Nguyễn Quang Thiều, Lâm Thị Mỹ Dạ và Ngô Tự Lập và tôi đã học được rất nhiều từ họ, họ đã có những bài thơ rất hay về chiến tranh. Những bài thơ đó tuy không nói trực diện về chiến tranh nhưng tôi lại thấy chiến tranh hiện hữu ở khắp mọi nơi cùng những hậu quả của nó. Cũng bởi những góc nhìn mới và sáng tạo như vậy đã cho người ta có thể hiểu về những hậu quả và di chứng của chiến tranh, một vấn đề đáng để khám phá ngang với những sự kiện trong cuộc chiến”.

Cách thể hiện văn chương bằng ngôn ngữ điêu luyện cũng là một thế mạnh của văn học Việt Nam nói chung, theo nhiều đánh giá của các dịch giả, nhà văn, nhà thơ nước ngoài, điều này đôi khi còn “làm khó những người dịch” khi làm công tác dịch thuật các tác phẩm tiếng Việt ra tiếng các nước khác. Tuy được đánh giá cao cả về số lượng và chất lượng các tác phẩm, nhưng văn học Việt Nam mới chỉ được nhắc đến nhiều với các tác phẩm văn học cổ điển và thời kỳ cách mạng. Còn hiện nay là thời của các tác phẩm đương đại thì lại chưa được nhắc tới nhiều, thậm chí nhiều chuyên gia nước ngoài cũng thường xuyên đặt câu hỏi về nền văn học đương đại với hơi thở thời đại của Việt Nam đang như thế nào? Các kỳ hội nghị và các hoạt động giao lưu trên thế giới đều có nhà văn trẻ Việt Nam tham dự nhưng chưa thực sự khẳng định được gương mặt văn học đương đại.

Tuy nhiên, hoàn toàn tự tin, nhà thơ Ba Lan, Andrzej Grabowski khẳng định: “Một dân tộc đã nuôi dưỡng được những nhà thơ, nhà văn nhạy cảm và tinh tế như Việt Nam thì các bạn hoàn toàn có thể yên lòng về sự phát triển của nền văn học trong tương lai. Hiện nay, các tác giả hiện đại có nền tảng vững chắc của một nền văn học nhiều thành tựu trong quá khứ để tìm về, và chắc chắn sẽ không có ai lạc lối nếu biết cảm nhận truyền thống đó ở những “người thầy” của mình”.


Tạ Nguyên

Xét về mặt thể loại văn học ở nước ta có truyền thống lâu đời

Thơ Việt đẹp trong mắt bạn bè quốc tế

Năm nay, Ngày thơ Việt Nam còn có sự tham gia của hai lực lượng: Bộ Tư lệnh Hải quân và Bộ Tư lệnh Biên phòng, làm đậm nét chủ đề của Ngày thơ “Hướng về biển đảo”.

Chia sẻ:

Từ khóa:

  • Văn học Việt Nam,
  • bạn bè,
  • quốc tế,
  • nhận xét,

I. Các bộ phận hợp thành của văn học Việt Nam

Văn học Việt Nam được hợp thành từ hai bộ phận văn học có liên quan mật thiết với nhau gồm văn học dân gian và văn học viết.

1. Văn học dân gian.

- Văn học dân gian là sáng tác mang tính tập thể, truyền miệng của nhân dân lao động.

- Các thể loại chính gồm thần thoại, sử thi, truyền thuyết, truyện cổ tích, truyện ngụ ngôn, truyện cười, tục ngữ, câu đố, ca dao, truyện thơ... và các loại hình diễn xướng như chèo, tuồng, dân ca.

- Các đặc trưng cơ bản: Tính tập thể, tính truyền miệng và gắn bó với các sinh hoạt khác nhau trong đời sống cộng đồng.

2. Văn học viết.

- Văn học viết là những sáng tác của giới trí thức, được lưu giữ bằng chữ viết. Là những sáng tạo của cá nhân nên mang dấu ấn của từng tác giả.

a). Chữ viết:

- Văn học Việt Nam được viết bằng chữ Hán, chữ Nôm và chữ Quốc ngữ.

- Chữ Hán là văn tự của người Hán song được đọc theo cách riêng của người Việt, gọi là cách đọc Hán Việt. Chữ Nôm là chữ viết cổ của ngưòi Việt, dựa trên chữ Hán đặt ra. Chữ Quốc ngữ là thứ chữ sử dụng chữ cái La-tinh để ghi âm tiếng Việt.

b). Hệ thống thể loại:

-  Văn học từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX: Trong văn học chữ Hán có ba nhóm thể loại chủ yếu gồm: Văn xuôi (truyện, kí, tiểu thuyết chương hồi...); thơ (thơ cổ phong, thơ Đường luật, từ khúc...); văn biền ngẫu là hình thức trung gian giữa thơ và văn xuôi, được dùng nhiều trong phú, cáo, văn tế…

- Văn học từ đầu thế kỉ XX đến nay: Các loại hình và loại thể văn học chủ yếu có ranh giới rõ ràng. Loại hình tự sự có tiểu thuyết, truyện ngắn kí (bút kí, tùy bút, phóng sự). Loại hình trữ tình có thơ trữ tình, trường ca. Loại hình kịch có kịch nói, kịch thơ.

II. Quá trình phát triển của văn học viết Việt Nam

- Văn học Việt Nam gắn chặt với lịch sử, chính trị, văn hóa, xã hội của đất nước và phát triển qua ba thời kì lớn:

+ Văn học từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX (văn học trung đại).

+ Văn học từ đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám 1945.

+ Văn học từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 đến hết thế kỉ XX.

- Thời kỳ văn học từ đầu thế kỉ XX đến nay cùng nằm trong một xu hướng phát triển chung của quá trình hiện đại hóa văn học được gọi chung là văn học hiện đại.

1. Văn học trung đại.

- Văn học viết bằng chữ Hán đã xuất hiện từ thời Bắc thuộc, song phải đến thế kỉ thứ X, khi dân tộc ta giành được chủ quyền từ các thế lực đô hộ phương Bắc mới chính thức trở thành một dòng văn học. Dòng văn học này chịu ảnh hưởng trực tiếp của văn hóa, văn học Trung Quốc, mang tư tưởng Nho, Phật, Lão, có các hình thức thể loại gần giống với văn học Trung Quốc, trong đó đặc biệt phát triển là thơ Đường Luật.

- Những tác phẩm tiêu biểu: Bình Ngô Đại cáo (Nguyễn Trãi), Truyền kì mạn lục (Nguyễn Dữ), Hoàng Lê nhất thống chí (Ngô gia văn phái), Chinh phụ ngâm (Đặng Trần Côn), Thượng kinh kí sự (Lê Hữu Trác).

- Văn học viết bằng chữ Nôm bắt đầu phát triển từ thế kỉ XV và đạt tới đỉnh cao ở cuối thế kỉ XVIII, đầu thế kỉ XIX. Văn học chữ Nôm là bằng chứng của ý chí xây dựng nền văn hiến độc lập của dân tộc Việt Nam.

- Những tác phẩm tiêu biểu: Quốc âm thi tập, Hồng Đức quốc âm thi tập, Bạch Vân quốc ngữ thi tập, Sơ kính tân trang, Truyện Kiều, Chinh phụ ngâm, Xuân Hương thi tập, Tống Trân – Cúc Hoa, thơ Bà Huyện Thanh Quan, các sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu...

2. Văn học hiện đại (văn học từ đầu thế kỉ XX đến hết thế kỉ XX).

- Văn học Việt Nam hiện đại chủ yếu được viết bằng chữ Quốc Ngữ, do kế thừa tinh hoa truyền thống và tiếp thu những nền văn học lớn trên thế giới để hiện đại hóa nên có một số điểm khác biệt lớn so với văn học trung đại:

+ Về tác giả: Xuất hiện đội ngũ sáng tác chuyên nghiệp, lấy việc viết văn, sáng tác thơ làm nghề nghiệp.

+ Về đời sống văn học: Nhờ có báo chí và kĩ thuật in ấn hiện đại, tác phẩm văn học đến đời sống nhanh hơn, mối quan hệ với độc giả vì thế mật thiết hơn, đời sống văn học sôi nổi, năng động hơn.

+ Về thể loại: Một vài thể loại của văn học trung đại vẫn tồn tại nhưng không còn giữ vai trò chủ đạo, các thể loại thơ mới, tiểu thuyết, kịch…dần thay thế hệ thống thể loại cũ.

+ Về thi pháp: Lối viết sùng cổ, ước lệ, phi ngã của văn học trung đại dần dần bị thay thế bởi lối viết hiện thực, đề cao cá tính nhân đạo, đề cao "cái tôi" cá nhân được khẳng định.

- Giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám năm 1945:

+ Là giai đoạn tiếp thu nhiều thành tựu văn hóa của nhân loại.

+ Văn học giai đoạn này có nhiều cách tân, văn học hiện thực ghi lại không khí ngột ngạt của xã hội thực dân nửa phong kiến, dự báo cuộc cách mạng xã hội sắp diễn ra; văn học lãng mạn khám phá, đề cao cái tôi cá nhân, đấu tranh cho hạnh phúc và quyền sống cá nhân.

- Sau Cách mạng tháng Tám, văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa đi sâu phản ánh sự nghiệp đấu tranh cách mạng và xây dựng cuộc sống mới..

- Sau năm 1986, văn học hiện đại Việt Nam đã phản ánh một cách sâu sắc công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; phản ánh được tâm tư, tình cảm của con ngưòi Việt Nam trước những vấn đề mới mẻ của thời đại.

- Thành tựu nổi bật của văn học thế kỉ XX thuộc về văn học yêu nước và cách mạng, gắn liền với công cuộc giải phóng dân tộc.

- Những thể loại nổi bật gồm: Thơ mới, tiểu thuyết, văn xuôi, truyện ngắn, bút kí…

III. Con người Việt Nam qua văn học

Văn học Việt Nam thể hiện tư tưởng, tình cảm, quan niệm về chính trị, văn hóa, đạo đức, thẩm mĩ của con người Việt Nam qua nhiều thời kì trong nhiều mối quan hệ đa dạng.

1. Con người Việt Nam trong quan hệ với thế giới tự nhiên:

- Trong văn học dân gian (ca dao, dân ca) chứa đựng nhiều hình ảnh tươi đẹp và đáng yêu của thiên nhiên.

- Trong thơ ca trung đại, hình tượng thiên nhiên gắn với lí tưởng, đạo đức, thẩm mĩ.

- Trong văn học hiện đại, hình tượng thiên nhiên thể hiện tình yêu quê hương, đất nước, yêu cuộc sống…

2. Con người Việt Nam trong quan hệ với quốc gia, dân tộc:

- Lịch sử dân tộc Việt Nam phải trải qua nhiều lần đấu tranh để bảo vệ nền độc lập và phản ánh sự nghiệp bảo vệ độc lập ấy là dòng văn học yêu nước phong phú mang giá trị nhân văn sâu sắc.

+ Tinh thần yêu nước trong văn học dân gian thể hiện qua tình yêu làng xóm, quê hương, căm ghét các thế lực xâm lược giày xéo quê hương.

+ Chủ nghĩa yêu nước trong văn học trung đại thể hiện qua ý thức sâu sắc về quốc gia, dân tộc, về truyền thống văn hiến lâu đời.

+ Chủ nghĩa yêu nước trong văn học cách mạng gắn liền với sự nghiệp đấu tranh giai cấp và lí tưởng xã hội chủ nghĩa.

- Lòng yêu nước trong văn học Việt Nam thể hiện qua tình yêu quê hương, niềm tự hào về truyền thống văn hóa dân tộc, lịch sử dựng nước và giữ nước; tinh thần hi sinh vì độc lập, tự do của đất nước.

3. Con người Việt Nam trong quan hệ với xã hội:

- Nhiều tác phẩm văn học thể hiện ước mơ về một xã hội công bằng, tốt đẹp.

- Trong xã hội phong kiến và thực dân, các nhà văn đã tố cáo, phê phán các thế lực chuyên quyền và bày tỏ cảm thông với người dân bị áp bức.

- Nhận thức, phê phán và cải tạo xã hội là truyền thống của văn học Việt Nam. Nhân vật trong các tác phẩm văn học không chỉ là nạn nhân của áp bức, bất công mà còn đấu tranh cho tự do, hạnh phúc.

- Từ sau năm 1975, văn học đi sâu phản ánh công cuộc xây dựng cuộc sống mới tuy còn khó khăn, gian khổ nhưng đầy niềm tin vào tương lai.

4. Con người Việt Nam và ý thức về bản thân:

- Trong hoàn cảnh đấu tranh chống ngoại xâm, con người Việt Nam thường đề cao ý thức cộng đồng, ý thức xã hội, trách nhiệm công dân…

- Trong những hoàn cảnh khác, các nhà văn, nhà thơ thường đề cao quyền sống cá nhân, quyền được hưởng hạnh phúc và tình yêu.

- Xu hướng chung của văn học dân tộc là xây dựng đạo lí làm người với nhiều phẩm chất tốt đẹp như nhân ái, thủy chung, tình nghĩa, vị tha, đức hi sinh vì chính nghĩa. 


Page 2

Xét về mặt thể loại văn học ở nước ta có truyền thống lâu đời

SureLRN

Xét về mặt thể loại văn học ở nước ta có truyền thống lâu đời