Chuyên viên phân tích rủi ro tín dụng là gì năm 2024

Tín dụng là việc thực hiện các thủ tục cần thiết của 1 tổ chức tài chính, ngân hàng để cho người vay vốn được sử dụng vốn vay, tài sản vay trong một thời gian nhất định được quy định trong hợp đồng vay vốn. Người thực hiện công việc tín dụng được gọi là Chuyên viên tín dụng. Chuyên viên giám sát rủi ro tín dụng là người giám sát các hoạt động này.

Chuyên viên phân tích rủi ro tín dụng là gì năm 2024

Công việc của Chuyên viên giám sát rủi ro tín dụng

  • Thực hiện việc kiểm soát sau giải ngân
  • Chịu trách nhiệm phân tích các khách hàng nợ để phát hiện những khách hàng có tiềm ẩn rủi ro
  • Trực tiếp xây dựng, triển khai các Mô hình, phương pháp đo lường rủi ro tín dụng (xếp hạng, phân loại, định mức …)
  • Trực tiếp việc giám sát, cảnh báo và lập các Báo cáo quản lý rủi ro tín dụng
  • Tham gia xây dựng các chính sách, quy chế, quy định, quy trình liên quan tới hoạt động của đơn vị
  • Quản lý chất lượng tín dụng
  • Rà soát các khoản tín dụng

Môi trường công việc

Môi trường làm việc linh hoạt, cởi mở, thân thiện, chuyên nghiệp, hiện đại. Chịu trách nhiệm với cấp trên phát hiện ra khách hàng, nhóm khách hàng tiềm ẩn rủi ro trong công tác tín dụng. Công việc này khá nhạy cảm, đôi khi phải trở thành những nhân viên điều tra về gia cảnh kinh tế của đối tượng để xác định chính xác nguy cơ, thường xuyên tiếp xúc với khách hàng,…vì vậy thường xuyên đối mặt với nhiều cám dỗ bên ngoài.

Những tố chất cần thiết

Ngoài trình độ chuyên môn, kinh nghiệm có sẵn, Chuyên viên kiểm sát rủi ro tín dụng cần có những tố chất sau:

  • Có kiến thức trong lĩnh vực tài chính, tín dụng, luật pháp, đặc biệt là các quy định liên quan đến hoạt động ngân hàng, các quy trình, quy định của Nhà nước và Pháp luật về hoạt động tín dụng.
  • Cẩn thận, nhiệt tình, kiên nhẫn trong công việc
  • Tác phong làm việc chuyên nghiệp.
  • Có khả năng nắm bắt công việc nhanh
  • Quản lý, tổ chức thực hiện công việc khoa học
  • Khả năng làm việc độc lập với cường độ công việc cao
  • Phối hợp làm việc nhóm tốt
  • Khả năng giao tiếp, đàm phán, thuyết phục tốt.
  • Có óc quan sát, phân tích, đánh giá tốt

Triển vọng nghề nghiệp

Hoàn thành tốt công việc tại vị trí này, bạn có khả năng được cân nhắc đề bạt các vị trí quan trọng trong ngân hàng như phó phòng, trưởng phòng giám sát tín dụng, giám đốc rủi ro tín dụng, giám đốc khối với mức lương và thù lao rất hấp dẫn giao động từ 300$ đến 4.000$ và nhiều ưu đãi khác.

Cơ hội đào tạo và phát triển bản thân để ngày càng hoàn thiện hơn. Sinh viên tốt nghiệp Đại học loại khá, giỏi trong các trường kinh tế có thể đảm nhận tốt vai trò này.

Thứ hai, rủi ro tất yếu của quá trình tự do hóa tài chính, hội nhập quốc tế. Quá trình tự do hóa tài chính và hội nhập quốc tế có thể làm cho nợ xấu gia tăng khi tạo ra một môi trường cạnh tranh gay gắt, khiến hầu hết các doanh nghiệp, những khách hàng thường xuyên của ngân hàng phải đối mặt với nguy cơ thua lỗ và quy luật chọn lọc khắc nghiệt của thị trường. Bên cạnh đó, sự cạnh tranh của các ngân hàng thương mại trong nước và quốc tế ở môi trường hội nhập kinh tế khiến các ngân hàng trong nước gặp phải nguy cơ rủi ro nợ xấu tăng lên bởi hầu hết các khách hàng có tiềm lực tài chính lớn sẽ bị các ngân hàng nước ngoài thu hút.

.JPG)

Sự cạnh tranh của các ngân hàng thương mại trong nước và quốc tế ở môi trường hội nhập kinh tế

khiến các ngân hàng trong nước phải đối mặt với thách thức về rủi ro tín dụng

Thứ ba, sự tấn công của hàng nhập lậu. Với hàng trăm km biên giới đường bộ và đường biển cùng địa hình địa lí phức tạp, tình hình đời sống nghèo khó của dân cư vùng biên giới, cuộc chiến đấu với hàng lậu đã kéo dài dai dẳng từ rất nhiều năm nay mà kết quả là hàng lậu vẫn tràn lan tại các thành phố lớn, làm điêu đứng các doanh nghiệp trong nước và các ngân hàng đầu tư vốn cho các doanh nghiệp này. Các mặt hàng kim khí điện máy, gạch men, đường cát, vải vóc, quần áo, mĩ phẩm… là những mặt hàng điển hình cho tình hình hàng lậu ở nước ta.

Thứ tư, thiếu sự quy hoạch, phân bổ đầu tư một cách hợp lí đã dẫn đến khủng hoảng thừa về đầu tư trong một số ngành. Nền kinh tế thị trường tất yếu sẽ dẫn đến cạnh tranh, các nhà kinh doanh sẽ tìm kiếm ngành nào có lợi nhất để đầu tư và sẽ rời bỏ những ngành không đem lại lợi nhuận, do đó, có sự chuyển dịch vốn từ ngành này qua ngành khác, đây cũng là một hiện tượng khách quan. Tuy nhiên, ở nước ta thời gian qua, sự cạnh tranh đã phát triển một cách tự phát, hoàn toàn không đi kèm với sự quy hoạch hợp lí, hợp tác, phân công lao động, chuyên môn hóa lao động, sự hạn chế vai trò của các hiệp hội nghề nghiệp và điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Điều này dẫn đến sự gia tăng đáng kể vốn đầu tư vào một số ngành, dẫn đến khủng hoảng thừa, lãng phí tài nguyên quốc gia.

1.2. Rủi ro tín dụng do môi trường pháp lí chưa thuận lợi

Thứ nhất, hoạt động chưa thực sự hiệu quả của cơ quan pháp luật cấp địa phương. Trong những năm gần đây, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và các cơ quan liên quan đã ban hành nhiều luật, văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành luật liên quan đến hoạt động tín dụng ngân hàng. Tuy nhiên, hệ thống văn bản pháp quy đã có, song, việc triển khai vào hoạt động ngân hàng còn gặp nhiều vướng mắc, bất cập như một số văn bản về việc cưỡng chế thu hồi nợ. Những văn bản này đều có quy định: Trong những trường hợp khách hàng không trả được nợ, ngân hàng có quyền xử lí tài sản bảo đảm nợ vay. Trên thực tế, các ngân hàng không làm được điều này vì ngân hàng là một tổ chức kinh tế, không phải là cơ quan quyền lực nhà nước, không có chức năng cưỡng chế buộc khách hàng bàn giao tài sản bảo đảm cho ngân hàng để xử lí hoặc việc chuyển tài sản bảo đảm nợ vay để tòa án xử lí qua con đường tố tụng… cùng nhiều quy định khác dẫn đến tình trạng ngân hàng khó giải quyết được nợ tồn đọng, tài sản tồn đọng.

Thứ hai, công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát vẫn còn những bất cập. Bên cạnh những cố gắng và kết quả đạt được, hoạt động thanh tra ngân hàng và đảm bảo an toàn hệ thống cần được cải thiện hơn nữa về chất lượng. Một số cán bộ thanh tra, giám sát còn hạn chế về năng lực, đặc biệt ở một số nghiệp vụ kinh doanh và công nghệ mới. Vai trò kiểm toán chưa thực sự phát huy và hệ thống thông tin chưa được tổ chức một cách hữu hiệu. Thanh tra tại chỗ vẫn là phương pháp chủ yếu, nhiều khi hoạt động theo kiểu xử lí vụ việc đã phát sinh, ít có khả năng ngăn chặn, phòng ngừa rủi ro và vi phạm. Do vậy, có những sai phạm chưa được cảnh báo kịp thời, dẫn đến rủi ro, đe dọa sự an toàn của hệ thống.

Thứ ba, hệ thống thông tin quản lí còn bất cập. Hiện nay, Việt Nam chưa có một cơ chế công bố thông tin đầy đủ về doanh nghiệp và ngân hàng. Trung tâm Thông tin Tín dụng quốc gia Việt Nam (CIC) đã hoạt động hơn một thập niên và có được những kết quả bước đầu rất đáng khích lệ trong việc cung cấp thông tin kịp thời về tình hình hoạt động tín dụng nhưng chưa phải là cơ quan định mức tín nhiệm doanh nghiệp một cách độc lập và hiệu quả. Đó cũng là thách thức cho hệ thống ngân hàng trong việc mở rộng và kiểm soát tín dụng cho nền kinh tế trong điều kiện thiếu một hệ thống thông tin tương xứng. Nếu các ngân hàng, mở rộng tín dụng trong điều kiện môi trường thông tin không cân xứng thì sẽ gia tăng nguy cơ nợ xấu cho hệ thống ngân hàng.

1.3. Rủi ro tín dụng do các nguyên nhân từ phía khách hàng vay

Thứ nhất, sử dụng vốn sai mục đích, không có thiện chí trong việc trả nợ vay. Đa số các doanh nghiệp khi vay vốn ngân hàng đều có các phương án kinh doanh cụ thể, khả thi. Số lượng các doanh nghiệp sử dụng vốn sai mục đích, cố ý lừa đảo ngân hàng để chiếm đoạt tài sản không nhiều. Tuy nhiên, những vụ việc phát sinh lại hết sức nặng nề, liên quan đến uy tín của các cán bộ, làm ảnh hưởng xấu đến các doanh nghiệp khác.

Thứ hai, khả năng quản lí kinh doanh kém. Khi các doanh nghiệp vay tiền ngân hàng để mở rộng quy mô kinh doanh, đa phần là tập trung vốn đầu tư vào tài sản vật chất chứ ít doanh nghiệp nào mạnh dạn đổi mới cách thức quản lí, đầu tư cho bộ máy giám sát kinh doanh, tài chính, kế toán theo đúng chuẩn mực. Quy mô kinh doanh mở rộng quá lớn so với tư duy quản lí là nguyên nhân dẫn đến sự phá sản của các phương án kinh doanh đầy khả thi mà lẽ ra phải thành công trên thực tế.

Thứ ba, tình hình tài chính doanh nghiệp yếu kém, thiếu minh bạch. Quy mô tài sản, nguồn vốn nhỏ bé, tỉ lệ nợ so với vốn tự có cao là đặc điểm chung của hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam. Ngoài ra, thói quen ghi chép đầy đủ, chính xác, rõ ràng các sổ sách kế toán vẫn chưa được các doanh nghiệp tuân thủ nghiêm túc và trung thực. Do vậy, sổ sách kế toán mà các doanh nghiệp cung cấp cho ngân hàng nhiều khi chỉ mang tính chất hình thức hơn là thực chất. Khi cán bộ ngân hàng lập các bản phân tích tài chính của doanh nghiệp dựa trên số liệu do các doanh nghiệp cung cấp thường thiếu tính thực tế và xác thực. Đây là nguyên nhân vì sao ngân hàng vẫn luôn xem nặng phần tài sản thế chấp như là chỗ dựa cuối cùng để phòng, chống rủi ro tín dụng.

1.4. Rủi ro tín dụng do các nguyên nhân từ phía ngân hàng cho vay

Thứ nhất, thiếu chặt chẽ trong công tác kiểm tra nội bộ các ngân hàng. Công tác kiểm tra nội bộ có điểm mạnh ở tính thời gian vì nó nhanh chóng, kịp thời ngay khi vừa phát sinh vấn đề và tính sâu sát của người kiểm tra viên, do việc kiểm tra được thực hiện thường xuyên cùng với công việc kinh doanh. Tuy nhiên, thời gian qua, công việc kiểm tra nội bộ của các ngân hàng còn nhiều tồn tại. Kiểm tra nội bộ cần phải được xem như hệ thống “thắng” của cỗ xe tín dụng. Cỗ xe càng lao đi với vận tốc lớn thì hệ thống này càng phải an toàn, hiệu quả thì mới tránh cho cỗ xe khỏi đi vào những ngã rẽ rủi ro vốn luôn luôn tồn tại thường trực trên con đường đi tới.

Thứ hai, vẫn còn cán bộ thiếu đạo đức và trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Thời gian qua xuất hiện một số vụ việc liên quan đến cán bộ ngân hàng tiếp tay với khách hàng làm giả hồ sơ vay, hay nâng giá tài sản thế chấp, cầm cố lên quá cao so với thực tế để rút tiền ngân hàng. Đạo đức của cán bộ là một trong các yếu tố vô cùng quan trọng để giải quyết vấn đề hạn chế rủi ro tín dụng. Một cán bộ kém năng lực có thể bồi dưỡng thêm, nhưng một cán bộ tha hóa về đạo đức mà lại giỏi về mặt nghiệp vụ thì vô cùng nguy hiểm khi được bố trí làm công tác tín dụng.

Thứ ba, hạn chế trong giám sát và quản lí sau khi cho vay. Các ngân hàng thường tập trung nhiều công sức cho việc thẩm định trước khi cho vay hơn quá trình kiểm tra, kiểm soát đồng vốn sau khi cho vay. Khi ngân hàng cho vay thì khoản cho vay cần phải được quản lí một cách chủ động để đảm bảo sẽ được hoàn trả. Theo dõi nợ là một trong những trách nhiệm quan trọng nhất của cán bộ tín dụng nói riêng và của ngân hàng nói chung. Việc theo dõi hoạt động của khách hàng vay nhằm tuân thủ các điều khoản đề ra trong hợp đồng tín dụng giữa khách hàng và ngân hàng nhằm tìm ra những cơ hội kinh doanh mới và mở rộng cơ hội kinh doanh. Tuy nhiên, trong thời gian qua, công tác này chưa thực sự hiệu quả. Điều này một phần do yếu tố tâm lí ngại gây phiền hà cho khách hàng của cán bộ ngân hàng, một phần do hệ thống thông tin quản lí phục vụ kinh doanh tại các doanh nghiệp còn lạc hậu, không cung cấp được kịp thời, đầy đủ các thông tin mà ngân hàng yêu cầu.

Thứ tư, sự hợp tác giữa các ngân hàng còn thiếu chặt chẽ. Kinh doanh ngân hàng là một nghề nhạy cảm, do vậy vấn đề rủi ro trong hoạt động tín dụng là không thể tránh khỏi, các ngân hàng cần phải hợp tác chặt chẽ với nhau nhằm hạn chế rủi ro. Sự hợp tác nảy sinh do nhu cầu quản lí rủi ro đối với cùng một khách hàng khi khách hàng này vay tiền tại nhiều ngân hàng. Trong quản trị tài chính, khả năng trả nợ của khách hàng là một con số cụ thể, có giới hạn tối đa. Nếu do sự thiếu trao đổi thông tin, dẫn đến việc nhiều ngân hàng cùng cho vay một khách hàng đến mức vượt quá giới hạn tối đa này thì rủi ro chia đều cho tất cả chứ không chừa một ngân hàng nào.

2. Mô hình quản lí rủi ro tín dụng

Mô hình quản lí rủi ro tín dụng chính là hệ thống bao gồm mô hình tổ chức quản lí rủi ro, mô hình đo lường rủi ro và mô hình kiểm soát rủi ro được xây dựng và vận hành một cách đầy đủ, toàn diện và liên tục trong hoạt động quản lí tín dụng của ngân hàng.

Mô hình quản lí rủi ro tín dụng phản ánh một cách hệ thống các vấn đề về cơ chế, chính sách, quy trình nghiệp vụ nhằm thiết lập các giới hạn hoạt động an toàn và các chốt kiểm soát rủi ro trong một quy trình thực hiện nghiệp vụ; các công cụ đo lường, phát hiện rủi ro; các hoạt động giám sát sự tuân thủ và nhận diện kịp thời các loại rủi ro mới phát sinh và các phương án, biện pháp chủ động phòng ngừa, đối phó khi có rủi ro xảy ra.

Hiện nay, ở Việt Nam đang có hai mô hình phổ biến được áp dụng. Đó là mô hình quản lí rủi ro tín dụng tập trung và mô hình quản lí rủi ro tín dụng phân tán.

2.1. Mô hình quản lí rủi ro tín dụng tập trung

Mô hình này có sự tách biệt một cách độc lập giữa ba chức năng: Quản lí rủi ro, kinh doanh và tác nghiệp. Sự tách biệt giữa ba chức năng nhằm mục tiêu hàng đầu là giảm thiểu rủi ro ở mức thấp nhất, đồng thời phát huy được tối đa kĩ năng chuyên môn của từng vị trí cán bộ làm công tác tín dụng.

Điểm mạnh: Quản lí rủi ro một cách hệ thống trên quy mô toàn ngân hàng, đảm bảo tính cạnh tranh lâu dài; thiết lập và duy trì môi trường quản lí rủi ro đồng bộ, phù hợp với quy trình quản lí gắn với hoạt động của các bộ phận kinh doanh; nâng cao năng lực đo lường giám sát rủi ro; xây dựng chính sách quản lí rủi ro thống nhất cho toàn hệ thống; thích hợp với ngân hàng quy mô lớn.

Điểm yếu: Việc xây dựng và triển khai mô hình quản lí tập trung này đòi hỏi phải đầu tư nhiều công sức và thời gian; đội ngũ cán bộ phải có kiến thức cần thiết và biết áp dụng lí thuyết với thực tiễn.

2.2. Mô hình quản lí rủi ro tín dụng phân tán

Mô hình này chưa có sự tách bạch giữa chức năng quản lí rủi ro, kinh doanh và tác nghiệp. Trong đó, phòng tín dụng của ngân hàng thực hiện đầy đủ ba chức năng và chịu trách nhiệm đối với mọi khâu chuẩn bị cho một khoản vay.

Điểm mạnh: Gọn nhẹ; cơ cấu tổ chức đơn giản; thích hợp với ngân hàng quy mô nhỏ.

Điểm yếu: Nhiều công việc tập trung hết một nơi, thiếu sự chuyên sâu; việc quản lí hoạt động tín dụng đều theo phương thức từ xa dựa trên số liệu chi nhánh báo cáo lên hoặc quản lí gián tiếp thông qua chính sách tín dụng.

3. Một số khuyến nghị

Xuất phát từ đòi hỏi thực tiễn của hoạt động tín dụng, theo khuyến cáo của Ủy ban Basel và tuân thủ thông lệ quốc tế, căn cứ vào các điều kiện chung về pháp lí, thị trường, công nghệ, con người, mô hình các ngân hàng tại Việt Nam, xin được khuyến nghị nên áp dụng mô hình quản lí rủi ro tín dụng tập trung. Tại Hội sở chính, tách bạch chức năng ra quyết định tín dụng với chức năng quản lí tín dụng trên cơ sở phân định trách nhiệm và chức năng rõ ràng giữa các bộ phận thẩm định, phê duyệt tín dụng, quản lí tín dụng, quản lí rủi ro tín dụng. Tại chi nhánh, tách các bộ phận, chức năng bán hàng (tiếp xúc khách hàng, tiếp thị...), chức năng phân tích tín dụng (phân tích, thẩm định, dự báo, đánh giá khách hàng...) và chức năng tác nghiệp (xử lí hồ sơ, theo dõi, giám sát khoản vay, thu nợ, thu lãi...).

Với mô hình này, bộ phận quan hệ khách hàng chịu trách nhiệm tìm kiếm, phát triển và chăm sóc khách hàng. Bộ phận này sẽ tìm hiểu nhu cầu của khách hàng, hướng dẫn khách hàng hoàn thiện hồ sơ vay vốn, sau đó chuyển toàn bộ hồ sơ và các thông tin liên quan đến khách hàng cho bộ phận phân tích tín dụng. Bộ phận phân tích tín dụng kiểm tra thông tin, thu thập các thông tin bổ sung qua các kênh thông tin lưu trữ ngân hàng, CIC, các phương tiện thông tin đại chúng… Trên cơ sở thông tin đó, bộ phận phân tích tín dụng thực hiện phân tích, đánh giá toàn bộ các nội dung từ tình hình chung về khách hàng, tình hình tài chính, phương án, dự án vay vốn đến các nội dung về đảm bảo tiền vay. Bộ phận phân tích tín dụng trực tiếp báo cáo kết quả, phân tích đánh giá khách hàng lên người phê duyệt tín dụng. Kết quả phê duyệt tín dụng sau đó sẽ được chuyển cho bộ phận phân tích tín dụng để lưu trữ thông tin đồng thời được chuyển cho bộ phận quan hệ khách hàng để thực hiện các khâu tiếp theo trong quy trình tín dụng.

Rủi ro tín dụng có thể phát sinh do rất nhiều nguyên nhân chủ quan hoặc khách quan. Các biện pháp phòng, chống rủi ro có thể nằm trong tầm tay của các ngân hàng nhưng cũng có những biện pháp vượt ngoài khả năng của riêng từng ngân hàng, liên quan đến vấn đề nội tại của bản thân nền kinh tế đang chuyển đổi, đang định hướng mô hình phát triển ở Việt Nam. Trong phạm vi tầm tay của các ngân hàng, rủi ro tín dụng phụ thuộc vào năng lực của bộ phận tín dụng trong việc phát hiện và hạn chế rủi ro từ lúc xem xét quyết định cho vay cũng như trong suốt thời gian vay. Năng lực cấp tín dụng phụ thuộc vào chuyên môn của cán bộ tín dụng, nhân viên của họ và nguồn lực của ngân hàng về nhân sự cũng như về cơ sở vật chất. Do vậy, biện pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng sâu sắc nhất vẫn là các biện pháp liên quan đến việc đào tạo, bố trí cán bộ và cơ chế kiểm tra, giám sát hành vi của cán bộ trong quá trình xử lí công việc.

Tài liệu tham khảo:

1. Quốc hội (2017), Luật số 17/2017/QH14, ngày 20/11/2017 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng.

2. GS., TS. Nguyễn Văn Tiến (2020), Giáo trình Quản trị ngân hàng thương mại, Nhà xuất bản Thống kê.

3. VDB (2020), Kinh nghiệm quản lí rủi ro tín dụng của một số ngân hàng và bài học đối với VDB, Tạp chí Hỗ trợ phát triển.

Chuyên viên quản lý rủi ro tín dụng là gì?

Chuyên viên quản lý rủi ro là người phân tích các hồ sơ, rà soát, đánh giá và đề xuất tín dụng, đề xuất đầu tư cho khách hàng; lập báo cáo thẩm định rủi ro, đề xuất các biện pháp và trình cấp có thẩm quyền.

Chuyên viên phân tích rủi ro là gì?

Financial Risk Analyst (Chuyên viên Phân tích rủi ro) là vị trí hỗ trợ cấp đầu vào, gắn liền với các đầu việc cơ bản như hỗ trợ cấp quản lý, phân tích - nghiên cứu các cơ hội tiềm năng và tìm hiểu các quy trình giảm thiểu rủi ro cụ thể của công ty.

Chuyên viên thẩm định tín dụng là làm gì?

Chuyên viên thẩm định tín dụng sẽ là người đánh giá thẩm định và đưa ra quan điểm xét duyệt về khả năng vay, giới hạn vay của khách hàng. Người này đòi hỏi phải có chuyên môn, kỹ năng phân tích, chuyên môi trong ngành để có sự hiểu biết nhất định.

Chuyên viên khách hàng tín dụng là làm gì?

“Nhân viên tư vấn tín dụng là người tư vấn, giải đáp thắc mắc của khách hàng về các điều khoản vay, đánh giá thông tin tài chính của khách hàng và tính toán tỷ lệ rủi ro, hướng dẫn khách làm các thủ tục vay vốn, chăm sóc khách hàng đang có hợp đồng vay.”