Nguyên nhân chủ yếu ta mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 là gì

Nguyên nhân chủ yếu ta khi mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 là gì?

A. Phong trào phản đối chiến tranh xâm lược ở thế giới đang lên cao.

B. Tình hình kinh tế chính trị, xã hội Mĩ gặp nhiều khó khăn.

C. So sánh lực lượng thay đổi có lợi cho ta sau hai mùa khô.

Đáp án chính xác

D. Tinh thần chiến đấu của lính Mĩ giảm sút.

Xem lời giải

CHỦ TRƯƠNG MỞ CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY MẬU THÂN 1968 CỦA ĐẢNG

bởi quản trị viên | Ngày đăng: 30-07-2018


CHỦ TRƯƠNG MỞ CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY

MẬU THÂN 1968 CỦA ĐẢNG

ThS. Nguyễn Quốc Hùng*

1. Nghị quyết 15 và phương án tiến hành chiến tranh cách mạng.

Việc ký kết và thi hành Hiệp định Giơnevơ 1954 về Đông Dương làm so sánh lực lượng ở miền Nam thay đổi không có lợi cho cách mạng Việt Nam. Mỹ vào thay chân Pháp, thi hành chính sách thực dân mới, nhằm chia cắt lâu dài nước Việt Nam, biến miền Nam thành một quốc gia riêng biệt thân Mỹ, nằm trong “thế giới tự do”, đối lập với “phe cộng sản”. Từ chỗ là kẻ thù tiềm tàng, Mỹ trở thành đối tượng trực tiếp của cách mạng Việt Nam.

Từ giữa năm 1956, phong trào đấu tranh của nhân dân ta ở miền Nam ngày càng quyết liệt. Cuộc đấu tranh gay go, ác liệt nhất là chống “tố cộng”. Để giữ gìn lực lượng và duy trì hoạt động trong điều kiện quân thù khủng bố dã man, các đảng bộ ở miền Nam đã sắp xếp lại tổ chức và rút vào hoạt động bí mật. Nhiều địa phương đã chủ trương “điều” (cán bộ đã bị lộ đi hoạt động ở địa phương khác) và “lắng” (cán bộ tạm thời rút vào hoạt động bí mật), kiên trì bám dân, bám đất, lãnh đạo phong trào. Cán bộ và nhân dân miền Nam đã phấn đấu kiên cường và hy sinh vô cùng anh dũng. Sôi nổi, mạnh mẽ và rộng rãi nhất là phong trào chống quân dịch, chống bắt lính. Nhiều nơi quần chúng tranh thủ được sự đồng tình của binh lính tại ngũ. Có nơi quần chúng kéo hàng ngàn người lên huyện, tỉnh đấu tranh. Giằng co, gay go, quyết liệt là phong trào đấu tranh chống địch đuổi làng, chiếm đất, dồn dân để lập căn cứ quân sự, làm đường chiến lược, hoặc phá căn cứ cũ của ta. Phổ biến, bền bỉ và liên tục là phong trào đấu tranh cho những quyền lợi dân sinh, dân chủ hàng ngày. Ở thành thị quần chúng đấu tranh chống khủng bố nghiệp đoàn, chống sa thải; đòi tăng lương, cải thiện chế độ làm việc; đòi hạn chế ngoại hóa, bảo vệ nội hóa, đòi thực hiện chương trình học bằng tiếng mẹ đẻ, chống văn hóa nô dịch. Ở thôn quê có những cuộc đấu tranh chống cướp đất, tăng tô thuế, luật lệ hà khắc...

Từ năm 1958, kẻ thù càng tăng cường khủng bố, liên tiếp mở tiếp các cuộc hành quân càn quét, dồn dân quy mô lớn vào các trại tập trung, giết hại hàng ngàn cán bộ cách mạng và đồng bào yêu nước ở trại giam Phú Lợi (Thủ Dầu Một) (1-12-1958). Ngô Đình Diệm tuyên bố “đặt miền Nam trong tình trạng chiến tranh” (3-1959), ra luật 10-59 (6-5-1959), lê máy chém khắp miền Nam. Tòa án quân sự đặc biệt của chúng đưa thẳng người bị bắt ra xét xử và bắn tại chỗ.

Những khó khăn và tổn thất của ta ở miền Nam kéo dài trong 4 năm, nhất là hai năm 1957 và 1958 “chủ yếu là do về mặt chỉ đạo đấu tranh cách mạng, Đảng ta chưa tìm ra được phương pháp và hình thức thích hợp để quần chúng chống trả địch một cách có hiệu quả”[1]. Mặc dù Nghị quyết của Bộ Chính trị (6-1956) đã xác định đấu tranh chính trị “không có nghĩa là tuyệt đối không dùng vũ trang tự vệ trong những hoàn cảnh nhất định...”[2].

Tháng 1-1959, Ban chấp hành Trung ương Đảng họp hội nghị 15 do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì. Hội nghị đã xác định: "Con đường phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân... lấy sức mạnh của quần chúng, dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang nhân dân để đánh đổ quyền thống trị của đế quốc và phong kiến, dựng lên chính quyền cách mạng của nhân dân”[3]. Tiến lên khởi nghĩa giành chính quyền là một quá trình đấu tranh lâu dài, gian khổ, phải tích cực xây dựng, củng cố và phát triển lực lượng cách mạng thì mới có thể có điều kiện nắm lấy thời cơ thuận lợi và giành lấy thắng lợi cuối cùng. Nghị quyết dự báo thêm rằng, đế quốc Mỹ là tên đế quốc hiếu chiến nhất, cho nên trong những điều kiện nào đó, cuộc khởi nghĩa của nhân dân miền Nam cũng có khả năng chuyển thành cuộc đấu tranh vũ trang trường kỳ. “Trong tình hình đó, cuộc đấu tranh sẽ chuyển sang một cục diện mới: đó là chiến tranh trường kỳ giữa ta và địch, và thắng lợi cuối cùng nhất định về ta”[4].

Thắng lợi của phong trào Đồng khởi đã làm lung lay tận gốc rễ bộ máy chính quyền của chủ nghĩa thực dân mới, chuyển cách mạng miền Nam từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công, từ khởi nghĩa từng phần tiến lên làm chiến tranh cách mạng. Đó là mốc đánh dấu bước phát triển nhảy vọt về chất của phong trào cách mạng miền Nam.

Phải đứng lên như thế nào, bằng phương thức gì để đối phó với kẻ thù mới, trong một hoàn cảnh lịch sử mới là một câu hỏi lớn đối với những người hoạch định chiến lược của Đảng cũng như nhân dân miền Nam Việt Nam. Nghị quyết 15 của Đảng đã góp phần giải đáp cho câu hỏi lớn đó. Bạo lực cách mạng trong Đồng khởi 1959-1960 đã tháo nút thắt trong việc hoạch định chiến lược “sống mái” với kẻ thù cho cách mạng miền Nam, đưa cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam tiến lên tiêu diệt kẻ thù, thực hiện mục tiêu giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

2. Con đường dẫn đến cuộc tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968.

Tháng 3-1965, Mỹ chuyển sang thực hiện chiến lược chiến tranh cục bộ ở miền Nam Việt Nam bằng phương thức đưa quân viễn chinh Mỹ cùng quân Đồng minh trực tiếp tham chiến. Quy mô và cường độ cũng như tính chất của cuộc chiến thay đổi, ác liệt và cam go gấp bội phần. Khi buộc phải đối mặt với các loại hình chiến tranh do cường quốc số 1 của thế giới phát động chống nhân dân Việt Nam, thì vấn đề có dám đối đầu với Mỹ hay không là một vấn đề nan giải vào những năm 60 của thế kỷ XX, gây tranh cãi không chỉ ở Việt Nam mà cả hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa.

Đế quốc Mỹ trong những năm 60 của thế kỷ trước “là một cái gì đó” rất ghê gớm đối với nhân dân thế giới, và điều đó không tránh khỏi ảnh hưởng đến quân và dân Việt Nam. Năm 1965 khi Mỹ trực tiếp đem quân tham chiến ở miền Nam Việt Nam và sau đó dùng không quân, hải quân đánh phá miền Bắc, cả thế giới như nín thở và lo lắng cho Việt Nam. Tình hình chiến trường đặt ra một loạt câu hỏi: Phải chăng tương quan lực lượng đã thay đổi theo hướng có lợi cho Mỹ và Việt Nam Cộng hòa; Phải chăng ta phải thay đổi phương châm chỉ đạo, không thể tiếp tục tấn công mà phải quay về phòng ngự; Mỹ có hỏa lực mạnh, cơ giới nhiều, biên chế đầy đủ, ta đánh cách nào, có thể tiêu diệt được không…?

Trước những âm mưu và thủ đoạn mới của Mỹ và chính quyền Việt Nam Cộng hòa, dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và Quân ủy Trung ương, khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược” đã trở thành mục tiêu, lẽ sống của quân dân cả nước. Khẩu hiệu “tìm Mỹ mà đánh, lùng ngụy mà diệt” đã được phổ biến khắp các địa phương miền Nam[5]. Khi quân Mỹ ồ ạt kéo vào Miền Nam, lực lượng vũ trang quân giải phóng chẳng những không bị đẩy lùi về phòng ngự chống đỡ mà trái lại, đã chủ động tiến công một số đơn vị quân Mỹ nhằm tìm hiểu khả năng thực tế quân Mỹ để tìm ra cách đánh phù hợp. Ngay trong năm 1965, với thắng lợi của Quân giải phóng Miền Nam ở trận Núi Thành (3-1965), Vạn Tường (8-1965) và chiến dịch Plâyme (11-1965)… đã làm nức lòng cả nước.

Quán triệt sâu sắc tinh thần của Nghị quyết Trung ương 12, Trung ương Cục miền Nam và Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam đã lãnh đạo quân và dân miền Nam tiếp tục tiến lên giành những thắng lợi mới, tạo thêm những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của cách mạng miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Tháng 6-1967, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương đảng Lao động Việt Nam tính toán một chiến lược có ý nghĩa quyết định, tạo bước ngoặt của cuộc chiến tranh. Bộ Chính trị đã hoạch định một trận đánh nhằm gây tiếng vang lớn“Một cú đập lớn để tung toé ra các khả năng chính trị”, tạo đột phá cho chiến tranh, nhằm buộcHoa Kỳxuống thang chiến tranh đi vào đàm phán. Theo đó, nếu không tranh thủ thời cơ, đi sớm một bước thì sang năm 1968, cách mạng miền Nam sẽ gặp bất lợi lớn khi quân đội Mỹ, dưới áp lực của dư luận nước Mỹ, buộc phải dốc toàn lực thực hiện một hành động quân sự lớn để phá vỡ thế bế tắc và kết thúc chiến tranh theo cách Mỹ muốn. Mặt khác, năm 1968 cũng lại là năm bản lề trước cuộc bầu cử tổng thống Mỹ, khi mà các mâu thuẫn chính trị tại Mỹ bị đẩy lên cao và dư luận Mỹ đặc biệt quan tâm tới tình hình thời sự chính trị.

Tháng 12-1967, Bộ Chính trị họp quyết định thực hiện tổng công kích và tổng khởi nghĩa, giành thắng lợi quyết định cho sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước.

Nghị quyết Hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (1-1968) hạ quyết tâm chuyển cuộc chiến tranh cách mạng ở miền Nam sang một thời kỳ mới, thời kỳ tiến công và nổi dậy giành thắng lợi quyết định. Để thực hiện quyết tâm chiến lược đó, “Nhiệm vụ trọng đại và cấp bách của ta trong thời kỳ mới là động viên những nỗ lực cao nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả hai miền, đưa cuộc chiến tranh cách mạng của ta lên bước phát triển cao nhất, dùng phương pháp tổng công kích và tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định”[6]. Mục tiêu chiến lược của tổng công kích, tổng khởi nghĩa nhằm tiêu diệt và làm tan rã tuyệt đại bộ phận quân ngụy, đánh đổ ngụy quyền các cấp, giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân; tiêu diệt một phần quan trọng sinh lực và phương tiện chiến tranh của Mỹ, làm cho quân Mỹ không thực hiện được các nhiệm vụ chính trị và quân sự của chúng ở Việt Nam. Trên cơ sở đó, đập tan ý chí xâm lược của Mỹ, buộc Mỹ phải chịu thua ở miền Nam, chấm dứt mọi hành động chiến tranh đối với miền Bắc, còn ta thì bảo vệ được miền Bắc xã hội chủ nghĩa và đạt được những mục tiêu trước mắt của cách mạng miền Nam là độc lập, dân chủ, hòa bình, trung lập, tiến tới thống nhất đất nước.

“Cuộc tổng công kích - Tổng khởi nghĩa sắp tới sẽ là một giai đoạn, một quá trình tiến công chiến lược rất mãnh liệt và phức tạp”[7], giai đoạn đó dài hay ngắn tùy thuộc vào sự cố gắng chủ quan của ta và sự đối phó của địch. Tuy nhiên trong tình hình địch đã chuyển vào thế bị động, phòng ngự và đang tiến thoái lưỡng nan về chiến lược thì “những cố gắng chủ quan và nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh của ta có tác dụng quyết định trực tiếp”. Để rút ngắn thời gian tổng công kích, tổng khởi nghĩa, việc chọn hướng tiến công chiến lược giữ vai trò quan trọng. Bộ Chính trị quyết định: Một mặt, phải “sử dụng tốt nhất lực lượng vũ trang của ta, căng địch ra khắp các chiến trường, phải biết điều động lực lượng quân sự của địch ra các chiến trường quan trọng, sử dụng những quả đấm mạnh đánh quỵ các binh đoàn chủ lực của địch, đồng thời biết kịp thời phản công tiêu diệt địch, bẻ gẫy các cuộc phản công của chúng”. Đó là phương hướng tấn công của bộ đội chủ lực. Mặt khác, “đòn chính của ta là phải nhằm vào các đô thị quan trọng, kết hợp lực lượng xung kích về quân sự với lực lượng chính trị của quần chúng ở các đô thị và những vùng nông thôn kế cận vùng dậy đánh sập các cơ quan đầu não của Mỹ - ngụy, đánh phá các hậu cứ của địch, các cơ sở hậu cần, các trung tâm thông tin, phương tiện giao thông vận tải chiến lược của địch là những yếu tố vật chất không thể thiếu được trong bản thân sức mạnh của quân đội chính quy và hiện đại của Mỹ. Đồng thời kêu gọi binh lính địch đứng lên phản chiến cùng nhân dân khởi nghĩa. Đó là đòn ác liệt nhất, đánh vào óc, tim, mạch máu của địch, cũng là cách tốt nhất để phối hợp ba mũi giáp công trên cả ba vùng chiến lược, để tiêu diệt nhiều nhất sinh lực địch, làm sập chỗ dựa chính trị của địch và đè bẹp ý chí xâm lược của chúng”[8].

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy của quân, dân miền Nam như đã diễn ra theo đúng chủ trương và kế hoạch của Đảng vào đầu năm 1968 đã giáng đòn bất ngờ và quyết liệt vào ý chí xâm lược của Mỹ.

Có thể hói, sau “Đồng khởi” năm 1960, Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt Tết Mậu Thân năm 1968làm rung chuyển nước Mỹ là một trong những mốc son lịch sử, sự kiện mở đầu cho chuỗi thắng lợi liên tiếp của dân tộc Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Tết Mậu Thân 1968 không chỉ là đòn quyết định buộc Mỹ phải ngồi vào bàn đàm phán mà còn là cuộc tổng diễn tập lớn cho Tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân vào mùa Xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhấtđất nước./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước - thắng lợi và bài học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996,

2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 15, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001.

3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 20, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001.

4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 24, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001.

5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng về chống Mỹ, cứu nước (1954-1965), tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011.

6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng về chống Mỹ, cứu nước (1966-1975), tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2012.

7. Lịch sử biên niên Xứ ủy Nam Bộ và Trung ương Cục miền Nam (1954-1975), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2008.

8. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 14, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011.

9. Tổng tập Nguyễn Chí Thanh, Nxb. Thời đại, Hà Nội, 2013

10. Vũ Kỳ: “Bác Hồ với Tết Mậu Thân năm ấy”, Báo Văn Nghệ, số Tết Mậu Dần, 1998.

11. David Richard Palmer:Summons of the Trumpet, Nxb. Presido Press, California, 1978.

12. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước: Những mốc son lịch sử, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2010.

13. Phạm Thị Nhung: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 – Một mốc son có ý nghĩa chính trị và quân sự tolớn, website xaydungdang.org.vn.

14. Kết luận của Bộ Chính trị họp ngày 2 3-4-1994, số 215 – BBK/BCT.



* Khoa LLCT&KTĐC

[1] Ban chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước - thắng lợi và bài học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 43.

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 17, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 2002, 225.

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 20, sđd, tr. 82.

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 20, sđd, tr. 85.

[5] Lịch sử biên niên Xứ ủy Nam Bộ và Trung ương Cục miền Nam (1954-1975), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2008, tr.605-606

[6] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng về kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1966-1975), tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2012, tr.194.

[7] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng về kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1966-1975), tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2012, tr.195.

[8] [8] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng về kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1966-1975), tập 29, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2012, tr.197-198.

Mục lục

  • 1 Hoàn cảnh ra đời
  • 2 Kế hoạch của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Giải phóng miền Nam Việt Nam
  • 3 Diễn biến
    • 3.1 Sự khác biệt giờ chuẩn và lịch âm
    • 3.2 Tuyên bố ngừng bắn đơn phương của các bên
    • 3.3 Sự chuẩn bị của Quân Giải phóng Miền Nam
    • 3.4 Chiến sự Đợt 1
      • 3.4.1 Tại Sài Gòn
      • 3.4.2 Tại Huế
      • 3.4.3 Tổn thất của các bên
      • 3.4.4 Thành công
    • 3.5 Chiến sự Đợt 2
    • 3.6 Chiến sự Đợt 3
  • 4 Kết quả
    • 4.1 Về chiến thuật
    • 4.2 Về chiến lược, Chính trị và ngoại giao
      • 4.2.1 Mặt trận ngoại giao, thành quả phối hợp với chính trị-quân sự trong năm 1968
  • 5 Đánh giá
  • 6 Sự kiện Tết Mậu thân trong truyền thông
    • 6.1 Âm nhạc
    • 6.2 Văn chương
    • 6.3 Điện tử
  • 7 Chú thích
  • 8 Tham khảo
  • 9 Xem thêm
  • 10 Liên kết ngoài

Hoàn cảnh ra đời

Năm 1965, với việc đưa quân chiến đấu Mỹ và quân các nước phụ thuộc vào trực tiếp tham chiến ở chiến trường Việt Nam và tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại ác liệt bằng không quân và hải quân chống Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Mỹ đã đẩy cuộc chiến tranh Việt Nam lên quy mô và cường độ chưa từng có. Với chiến lược Chiến tranh cục bộ, sử dụng hai gọng kìm "tìm - diệt" và "bình định nông thôn", Mỹ tuyên bố sẽ tiêu diệt quân Giải phóng miền Nam trong vòng 18 tháng.[15]

Hầu hết các loại vũ khí trang bị cho quân Mỹ dùng trong chiến tranh đều là những loại mới, như súng trường M-16, đại bác M107 175mm, xe tăng kiểu mới M48 Patton đến máy bay trinh sát điện tử, máy bay F-111, B-52; từ quả mìn mỏng "cây nhiệt đới", máy dò điện tử đến máy phát nhiễu cực mạnh, bom vô tuyến, bom điều khiển bằng lade, bom napan và chất độc hoá học, v.v… Ở thời kỳ đỉnh cao 1968 -1969, Mỹ huy động đến miền Nam Việt Nam 24 tiểu đoàn thiết giáp (2.750 chiếc, trong đó có 950 xe tăng) và 83 tiểu đoàn pháo binh với 1412 khẩu pháo. Tướng William Westmoreland "tin tưởng rằng nước Mỹ chưa hề cho ra trận một lực lượng tinh nhuệ, thiện chiến hơn lực lượng ở Việt Nam trong những năm 1966-1969".[16]

Nhưng với hàng ngàn cuộc hành quân lớn nhỏ trên khắp chiến trường miền Nam, mà đỉnh cao là hai cuộc phản công chiến lược quy mô lớn vào mùa khô 1965-1966 và 1966-1967, quân Mỹ vẫn không đạt mục tiêu đáng kể nào. Không thể tiêu diệt bộ chỉ huy cũng như các đơn vị lớn nào của quân Giải phóng, mục tiêu bình định sau 18 tháng cuối cùng vẫn dậm chân tại chỗ.[17]

Cũng từ những thất bại về quân sự trên chiến trường, sự nghi ngờ về kết quả các cuộc ném bom miền Bắc và tăng quân Mỹ vào miền Nam trong nhân dân và Quốc hội Mỹ cũng tăng lên. Nhiều nghị sĩ ở Thượng nghị viện và Hạ nghị viện Mỹ đã nhận thấy "tương lai không thể lường được của một cuộc chiến tranh hiện đang có tác động làm rã rời ý chí nhân dân Mỹ" [18]

Nước Mỹ ngày càng sa lầy vào cuộc chiến tranh không có đường ra, chưa biết bao giờ kết thúc. Chính phủ Mỹ không còn cách nào ngoài việc tiếp tục tăng quân, tăng chi phí quân sự. Đến cuối 1967, quân chiến đấu Mỹ có mặt ở miền Nam Việt Nam lên tới 480.000 quân và 68.800 quân của các nước phụ thuộc Mỹ. Nếu kể cả khoảng hơn 20 vạn quân đóng ở các căn cứ quân sự trên đất Thái Lan, Nhật Bản, Philíppin, Hạm đội 7, một bộ phận Hạm đội 6, đã có tới 80 vạn quân Mỹ trực tiếp tham chiến. Tổng cộng Mỹ đã huy động 70% lục quân, 60% không quân, 40% hải quân, 60% lực lượng lính thuỷ đánh bộ toàn nước Mỹ. Số quân Mỹ huy động lúc cao nhất bằng tổng số lục quân của 4 nước: Anh, Úc, Canada và Tây Ban Nha cộng lại. Năm 1967, quân đội Việt Nam Cộng hòa có 552.000 quân, đến cuối năm 1968 cũng đã tăng lên 555.000 quân.[19][20]

Nếu chi phí cho cuộc chiến tranh Việt Nam 1965-1966 là 4,7 tỉ đôla, thì năm 1967 đã tăng lên 30 tỉ, gấp 1,5 lần Mỹ đã chi cho cuộc chiến tranh Triều Tiên trong ba năm. Do chi phí lớn cho cuộc chiến tranh, nền kinh tế Mỹ bắt đầu suy thoái, thâm hụt ngân sách 4 tỉ đôla, giá cả tăng vọt, lạm phát không kiểm soát được. Ngày 15-4-1967, tại Washington, khoảng 40.000 người, có cả những cựu chiến binh Mỹ ở Việt Nam, tham gia biểu tình phản đối cuộc chiến tranh của Chính phủ Mỹ. Tháng 10-1967, nhiều cuộc biểu tình của nhân dân Mỹ chống chiến tranh lan rộng toàn nước Mỹ nhằm mục tiêu: đòi chăm lo tình cảnh cho người nghèo và chấm dứt chiến tranh Việt Nam. Chính phủ Mỹ phải lo đối phó với những khó khăn lớn về quân sự, chính trị và tài chính không chỉ ở Việt Nam mà ngay cả trong nước Mỹ.[21]

Do lực lượng hai bên chênh lệch quá xa cả về quân số và trang bị, Bộ chính trị Đảng Lao động Việt Nam xác định rằng không thể giành thắng lợi quyết định bằng những cách đánh thông thường, mà phải tìm cách đánh khác để đập tan ý chí tiếp tục chiến tranh của Mỹ, làm cho Mỹ hiểu rằng không thể thắng được dân tộc Việt Nam bằng vũ khí và bom đạn.[21]

Kế hoạch của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Giải phóng miền Nam Việt Nam

Trên thực tế, sự chuẩn bị cho đòn tấn công này đã bắt đầu khởi động từ cuối giai đoạn chiến lược Chiến tranh đặc biệt. Theo PGS-TS-Đại tá Hồ Khang, Phó Viện trưởng Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam thì "Kế hoạch Xuân Mậu Thân có nguồn gốc từ những kế hoạch ban đầu chúng ta hình thành mà một số nhà nghiên cứu gọi là kế hoạch X. Kế hoạch này được khởi phát vào lúc mà cuộc chiến ở miền Nam đang tiến dần đến sự thay đổi, chiến lược chiến tranh đặc biệt của Mỹ tiến hành ở miền Nam đang sa lầy, thất bại". Đại tá Nguyễn Đức Hùng (Tư Chu) - nguyên Chỉ huy trưởng lực lượng biệt động Sài Gòn-Gia Định cho biết: "Tháng 5-1964, tôi được thuyên chuyển về phụ trách một đơn vị mà hồi đó gọi là F100 - biệt động của quân khu Sài Gòn-Gia Định. Sau này dần dần tôi mới biết rõ đơn vị này tổ chức ra để nhằm phục vụ cho ý đồ tập kích chiến lược. Hồi đó, tôi được lệnh là mọi thứ phải chuẩn bị xong trước tháng 12-1965". Nhưng việc Mỹ đổ quân vào bãi biển Đà Nẵng tháng 3-1965 đã làm trì hoãn việc thực hiện kế hoạch X. Quân Giải phóng tiếp tục chuẩn bị, khi nào có thời cơ sẽ đánh.[22]

Tháng 6-1967, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, Trung ương Cục tính toán một chiến lược có ý nghĩa quyết định, tạo bước ngoặt cho chiến tranh. Theo đó, nếu không tranh thủ thời cơ, đi sớm một bước thì sang năm 1968, cách mạng miền Nam sẽ gặp bất lợi lớn khi quân đội Mỹ, dưới áp lực của dư luận nước Mỹ, buộc phải dốc toàn lực thực hiện một hành động quân sự lớn để phá vỡ thế bế tắc và kết thúc chiến tranh theo cách Mỹ muốn. Mặt khác, năm 1968 cũng lại là năm bản lề trước cuộc bầu cử tổng thống Mỹ, khi mà các mâu thuấn chính trị tại Mỹ bị đẩy lên cao và dư luận Mỹ đặc biệt quan tâm tới tình hình thời sự chính trị. Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương chỉ thị là trong dự thảo kế hoạch, cần phải tính đến các "yếu tố chính trị" sẽ diễn ra vào năm 1968 tại Mỹ, nhằm khoét sâu vào mâu thuẫn chính trị tại Mỹ trong năm này. Theo nhận xét của sử gia Mỹ Merle L. Pribbenow, chỉ thị này đã được thực tế chứng minh là chính xác, việc dự đoán thành công và biết khai thác điểm yếu chính trị của phía Mỹ đã tạo nên chiến thắng của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong chiến dịch[14].

1 trung đội quân chủ lực của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam năm 1968

Do đó, Bộ Chính trị chủ trương: "Nhân lúc đế quốc Mỹ đang đứng trước thế tiến lui đều khó, lại phải tập trung vào cuộc vận động bầu cử Tổng thống Mỹ, ta cần chuẩn bị đánh một đòn quyết định tạo chuyển biến nhảy vọt cho cuộc đấu tranh cách mạng ở miền Nam, buộc Mỹ phải thua." Theo Đại tá Vũ Ba, nguyên cán bộ tham mưu Miền, "... thời cơ lịch sử có thể xảy ra trước hoặc sau năm 1968. Nhưng chắc chắn nó phải rơi vào đúng thời điểm sức mạnh và quân số Mỹ có mặt ở miền Nam lên đến đỉnh điểm nhưng họ không thể giành được thắng lợi quyết định. Và thời điểm đó chính là Mậu Thân 1968. Lúc đó, tiềm lực kinh tế, quân sự, khoa học kỹ thuật của Mỹ gấp 800 lần Việt Nam. Các nhà bình luận phương Tây nhận định: Mỹ là một nước rất mạnh đem quân đánh một nước rất nhỏ, đã đem hết sức mình ra mà không đánh thắng nổi và phải bỏ cuộc, thì có nghĩa là Mỹ đã thua". Cố Trung tướng Nguyễn Đình Ước, Viện trưởng Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam, bình luận: "Nếu năm 1967 ta đã tiến công như tết Mậu Thân thì không được. Westmoreland bảo: "Tôi chưa thực hiện xong kế hoạch ba năm tiêu diệt gãy xương sống Việt cộng. Chiến tranh cục bộ chưa đến đỉnh cao. Các anh chưa cho tôi quân hết, phải đánh ít nhất một năm nữa". Nếu ta để năm 1969, quá đi một năm, qua bầu cử tổng thống Mỹ rồi thì chưa chắc áp lực đã mạnh đến mức Johnson phải từ chức như thế".[22]

Tháng 7 và tháng 8-1967, Cục Tác chiến Bộ Tổng tham mưu bắt tay xây dựng kế hoạch tác chiến chiến lược cho năm 1968 theo tinh thần Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 6 và chỉ thị của Quân ủy Trung ương.

Tướng Văn Tiến Dũng, Tổng Tham mưu trưởng gợi ý cho "Tổ kế hoạch" do Cục trưởng Cục Tác chiến Lê Ngọc Hiền phụ trách là nên nghĩ đến kế hoạch và cách đánh khác cách đánh "truyền thống" mà lâu nay quân Giải phóng vẫn làm, thì mới có thể giành thắng lợi quyết định. Trong khi "Tổ kế hoạch" còn đang suy nghĩ tìm cách đánh mới, thì TBT Lê Duẩn khi trao đổi với Quân uỷ Trung ương về kế hoạch chiến lược năm 1968 đã đề xuất giải pháp đánh thẳng vào sào huyệt địch trong các thành phố, thị xã. Ý kiến của Lê Duẩn được Quân uỷ Trung ương và Tổng Tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng tán thành và trở thành ý định quyết tâm chiến lược năm 1968: chuyển hướng tiến công chiến lược chủ yếu từ rừng núi, nông thôn vào đô thị - nhất là Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng. Tổng bí thư Lê Duẩn nói: "Mỹ không còn con đường nào khác là phát huy sức mạnh quân sự. Đối phó với âm mưu này của Mỹ, ta phải đưa hoạt động quân sự lên một bước mới, đến mức Mỹ không chịu nổi và phải chấp nhận thất bại về quân sự, cô lập về chính trị. Nếu ta thực hiện được, Mỹ sẽ phải rút khỏi miền Nam"[23]

Trong khoảng thời gian này, sức khỏe của chủ tịch Hồ Chí Minh bị sa sút, nên phải gác lại công việc và đi Trung Quốc chữa bệnh. Tuy nhiên với bề dày kinh nghiệm, uy thế to lớn trong Đảng Lao động và nhân dân, mọi quyết sách lớn vẫn phải được phê duyệt bởi chủ tịch. Do vậy, cuối tháng 7/1967, chủ tịch Hồ Chí Minh đã có một chuyến về nước ngắn để nghe Quân ủy Trung ương trình bày kế hoạch. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lưu ý những điểm sau:
1. Dự thảo báo cáo tốt, toàn diện, nhưng cần xem báo cáo của Quân ủy có chủ quan không
2. Tranh thủ giành thắng lợi sớm, nhưng phải chú ý đánh lâu dài.
3. Thuận lợi có nhiều nhưng phải thấy những khó khăn như mặt hậu cần bảo đảm.
4. Nói giành thắng lợi quân sự, nhưng phải chú ý đến việc giữ sức dân.
5. Phải chú ý mở rộng chiến tranh du kích, tăng cường trang bị cho du kích.
6. Phải làm sao ta càng đánh càng mạnh, đánh liên tục, đánh được lâu dài (nghĩa là có khả năng thực hiện một cuộc chiến tranh lâu dài)[24]

Tháng 10-1967, trong các ngày từ 20 đến 24, Bộ Chính trị họp Bàn về kế hoạch chiến lược Đông - Xuân - Hè 1967 – 1968. Tham gia hội nghị này có Uỷ viên Bộ Chính trị Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Duy Trinh, Lê Thanh Nghị, Văn Tiến Dũng, Trần Quốc Hoàn, Lê Đức Thọ. Tuy nhiên cả ba nhân vật quan trọng nhất là Hồ Chí Minh, Lê Duẩn và Võ Nguyên Giáp đều vắng mặt do phải đi chữa bệnh ở nước ngoài.[cần dẫn nguồn]

Bộ Chính trị đề ra ba mức trường hợp:[21]

  • Một là, giành thắng lợi to lớn ở các chiến trường quan trọng, công kích và khởi nghĩa thành công ở các đô thị lớn, ý chí xâm lược của Mỹ bị đè bẹp, phải chấp nhận thương lượng đi đến kết thúc chiến tranh theo mục tiêu, yêu cầu của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
  • Hai là, giành được thắng lợi quan trọng ở nhiều nơi, nhưng Mỹ vẫn còn lực lượng, dựa vào các căn cứ lớn và tăng thêm lực lượng từ ngoài vào phản công giành lại những vị trí quan trọng và các đô thị lớn - nhất là Sài Gòn để tiếp tục chiến tranh.
  • Ba là, Mỹ tăng cường lực lượng, mở rộng chiến tranh ra miền Bắc, sang Lào và Campuchia, buộc quân Giải phóng phải lui về thế thủ, hòng xoay chuyển cục diện chiến tranh và gỡ thế thua về chính trị.

Bộ trưởng Quốc phòng Võ Nguyên Giáp

Về sách lược: Bộ Chính trị đề ra tập trung mũi nhọn đấu tranh nhằm phân hoá, chia rẽ và cô lập Mỹ và chế độ Sài Gòn của Thiệu-Kỳ. Tiếp tục phổ biến thực hiện cương lĩnh Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Lập mặt trận thứ hai (chuẩn bị người cụ thể trước), tiến tới lập chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam. Kêu gọi các tầng lớp nhân dân, các tôn giáo, binh lính Sài Gòn đoàn kết với Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, trung lập Mỹ, đánh đổ Thiệu - Kỳ, thương lượng với miền Bắc. Lập Chính phủ liên hiệp ba thành phần lấy Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam làm nòng cốt. Các sĩ quan cao cấp của Bộ Tổng Tham mưu chỉ thị: cần tính đến các "yếu tố chính trị" – cuộc bầu cử tổng thống Việt Nam Cộng hòa vào tháng 9 năm 1967 và cuộc bầu cử tổng thống Mỹ vào tháng 11 năm 1968.

Về ngoại giao: nhằm phục vụ cho công kích và khởi nghĩa, Bộ Chính trị nêu rõ là phải tranh thủ cao độ sự ủng hộ của các nước xã hội chủ nghĩa. Trong tình hình Liên Xô - Trung Quốc đang có chia rẽ sâu sắc, Bộ Chính trị chủ trương giữ quan hệ tốt với cả hai nước, tránh việc quá nghiêng về 1 bên sẽ làm xấu quan hệ với nước còn lại.

Qua thực tế chiến trường, những ý đồ chiến lược đã dần dần hình thành, từng bước trở thành những quyết sách: Tổng tiến công và nổi dậy, đánh thẳng vào sào huyệt của địch trong các thành phố và thị xã. Từ Kế hoạch chiến lược năm 1968 do Bộ Tổng tham mưu chuẩn bị, hai cuộc họp Bộ Chính trị tháng 10 và tháng 12-1967 đã ra nghị quyết và trở thành Nghị quyết của Hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá III), quyết định chuyển cuộc chiến tranh cách mạng ở miền Nam sang một thời kỳ mới, thời kỳ giành thắng lợi quyết định.[25]

Sau khi thảo luận kỹ khả năng đánh thành phố của lực lượng vũ trang và khả năng nổi dậy của quần chúng, Bộ Chính trị thông qua phương án tổng công kích, tổng khởi nghĩa do Bộ Tổng tham mưu soạn thảo đã được Quân uỷ Trung ương nhất trí. Phương án xác định chiến trường trọng điểm là Sài Gòn - Gia Định, Đà Nẵng, Huế, hướng phối hợp chiến lược quan trọng là Đường 9 - Khe Sanh. Cụ thể là:

Cùng với đòn tiến công của bộ đội chủ lực ở hướng phối hợp chiến lược đặc biệt quan trọng là Đường 9 - Khe Sanh nhằm thu hút, giam chân lực lượng chiến lược của địch, một đòn tiến công chiến lược đánh vào thành phố, thị xã quy mô trên toàn miền Nam, kết hợp với nổi dậy của quần chúng các đô thị và nông thôn, mở đầu cho tổng công kích, tổng khởi nghĩa, lấy chiến trường chính là Sài Gòn - Gia Định, Đà Nẵng, Huế, trọng điểm là Sài Gòn, Đà Nẵng, Huế và các thành phố lớn.

Theo đó, trước Tết Mậu Thân 10 ngày, quân Giải phóng sẽ nổ súng mở màn Chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh, tiến công vào tập đoàn cứ điểm Khe Sanh để buộc Mỹ phải chú ý tập trung điều lực lượng chủ lực ra phía bắc đối phó, tạo điều kiện để giữ bí mật hướng trọng điểm và tiếp tục chuẩn bị.[26]

Lịch sử các cuộc chiến tranh trên thế giới cũng như ở Việt Nam, theo nghệ thuật "truyền thống" thì giai đoạn kết thúc chiến tranh, thông thường một trong các bên tham chiến thực hiện đòn đánh tiêu diệt chiến dịch lớn hoặc đánh tiêu diệt chiến lược lực lượng quân sự, chính trị đối phương, buộc chúng phải chịu thua. Tuy nhiên so sánh tương quan quân Giải phóng và quân Mỹ về quân số, vũ khí trang bị, sức cơ động và tính hiện đại đều thua kém nhiều lần, nên việc đánh tiêu diệt chiến dịch, chiến lược đối với quân viễn chinh Mỹ là điều gần như không thể thực hiện được. Do đó Bộ chính trị chủ trương: "Phải tìm cách đánh mới khác cách đánh truyền thống là đánh bại ý chí xâm lược của Mỹ bằng phương pháp tổng tiến công đồng loạt đánh vào các trung tâm đầu não chính trị, quân sự ở các thành phố, thị xã. Tiến công vào các thành phố, thị xã sẽ tạo ra bất ngờ lớn đối với địch, làm đảo lộn thế bố trí chiến lược của chúng, làm rung chuyển nước Mỹ. Qua đó, ta chứng minh cho Mỹ thấy chúng không thể thắng trong cuộc chiến tranh này, chúng đang đứng trước nguy cơ thất bại hoàn toàn, do đó phải tìm giải pháp chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược, rút ra khỏi cuộc chiến tranh Việt Nam."[27]