Theo tư tưởng Hồ Chí Minh mục tiêu cuối cùng của cách mạng là gì

đăng 20:20 12 thg 11, 2008 bởi Dung. MPT

Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Đó là:

1. Tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.

Toàn bộ cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh và mong muốn của Người là mục tiêu giành độc lập, tự do cho đất nước, đem lại hạnh phúc cho nhân dân, làm cho nhân dân "ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành". Để thực hiện mục tiêu đó cần thực hiện sự giải phóng triệt để: Đó là giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Chính vì mục tiêu cao cả đó, Người đi tìm đường cứu nước và đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho cách mạng Việt Nam, đóng góp quan trọng vào sự nghiệp giải phóng nhân dân lao động trên toàn thế giới.

2. Tư tưởng về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.

Người đã chỉ ra rằng: "Muốn cứu nước, giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản". Người đã giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc và giai cấp, quốc gia và quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại. Những tư tưởng quan trọng này xuất phát từ một đòi hỏi thực tiễn bức xúc: Phải chống chủ nghĩa thực dân, phải gắn liền cách mạng thuộc địa với cách mạng ở chính quốc. Con đường để giữ vững độc lập, tự do, hạnh phúc, ấm no cho dân tộc là con đường đi lên xã hội chủ nghĩa, phải tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên mọi lĩnh vực. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tư tưởng chủ đạo trong toàn bộ di sản lý luận Hồ Chí Minh.

3. Tư tưởng về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc.

Thấm nhuần quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin: Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, Hồ Chí Minh đã đưa vai trò của nhân dân lên tầm cao mới: Nhân dân là chủ thể sáng tạo ra lịch sử, là người chủ thực sự của đất nước; coi nhân tố con người là nguồn lực cơ bản tạo nên sức mạnh vô địch để kháng chiến, kiến quốc. Người thường nói: Dễ trăm lần không dân cũng chịu; khó vạn lần dân liệu cũng xong. Sức mạnh của nhân dân được nhân lên gấp bội khi thực hiện được khối đại đoàn kết toàn dân tộc, trên nền tảng liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng tạo nên sức mạnh vô địch của cách mạng Việt Nam. Người khẳng định: "Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công"..

4. Tư tưởng về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân.

Dân chủ là bản chất của chế độ XHCN. Dân chủ là mục tiêu, là động lực của cách mạng XHCN. Thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng, trong nhân dân là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Đảng và Nhà nước ta. Nhà nước là công cụ chủ yếu để nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình. Do đó, Hồ Chí Minh coi trọng việc xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, của dân, do dân, vì dân. Nhà nước ta mang bản chất giai cấp công nhân, có tính dân tộc và nhân dân sâu sắc do Đảng lãnh đạo, hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, thống nhất quyền lực; đội ngũ cán bộ Nhà nước phải có đức, có tài, phải thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, là công bộc của nhân dân, vì nhân dân mà phục vụ. Để xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chỉ rõ phải kiên quyết đấu tranh chống tham ô, lãng phí, quan liêu. Coi tham ô, lãng phí, quan liêu là ba thứ "giặc nội xâm" rất nguy hiểm.

5. Tư tưởng về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân.

Vận dụng sáng tạo tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin về bạo lực cách mạng, Hồ Chí Minh luôn coi bạo lực cách mạng là sức mạnh tổng hợp của nhân dân, bao gồm các hình thức: Chính trị, quân sự và sự kết hợp giữa chính trị và quân sự. Trong quá trình đấu tranh giành và giữ chính quyền, giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, bên cạnh việc chăm lo xây dựng lực lượng chính trị, phải chăm lo xây dựng, củng cố lực lượng vũ trang, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân, thực hành chiến tranh nhân dân với sức mạnh tổng hợp. Người nhấn mạnh: Quân sự phải phục tùng chính trị, lấy chính trị làm gốc. Quân đội ta là quân đội nhân dân, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà phục vụ, quân đội ta là đội quân chính trị, đội quân chiến đấu, đội quân công tác. Lực lượng vũ trang nhân dân đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng.

6. Tư tưởng về phát triển kinh tế và văn hóa, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.

Suốt đời Hồ Chí Minh phấn đấu cho độc lập dân tộc và hạnh phúc của nhân dân. Người chỉ rõ: Nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì! Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: "Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân".

7. Tư tưởng về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư.

Hồ Chí Minh luôn chăm lo giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên và mọi người dân về phẩm chất đạo đức cách mạng. Người đặt lên hàng đầu tư cách "Người cách mệnh" và bản thân Người cũng là một tấm gương sáng về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư. Người coi đạo đức như là gốc của cây, là nguồn của các dòng sông. Người cộng sản mà không có đạo đức thì dù tài giỏi đến mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Cốt lõi của đạo đức cách mạng trong tư tưởng Hồ Chí Minh là trung với nước, hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do, vì CNXH.

8. Tư tưởng về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau.

Người coi bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết "Vì lợi ích mười năm trồng cây; vì lợi ích trăm năm trồng người". Người nói: Đảng cần phải chăm lo, giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng CNXH vừa "hồng" vừa "chuyên".

9. Tư tưởng về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.

Theo Hồ Chí Minh, muốn làm cách mạng trước hết phải có Đảng cách mạng, Đảng có vững cách mạng mới thành công. Đảng muốn vững phải có chủ nghĩa chân chính làm cốt, chủ nghĩa như trí khôn của người, như la bàn của con tầu. Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Muốn vậy, Đảng phải trong sạch, vững mạnh về mọi mặt: Chính trị, tư tưởng và tổ chức, kiên định mục tiêu, lý tưởng; có đường lối cách mạng đúng đắn; thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, thực hành tự phê bình và phê bình; thực sự đoàn kết nhất trí; mỗi đảng viên phải không ngừng rèn luyện đạo đức cách mạng, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ để thật sự xứng đáng là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, xứng đáng với niềm tin yêu của quần chúng nhân dân.

Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh có nội dung rất phong phú, toàn diện và sâu sắc về những vấn đề rất cơ bản của cách mạng Việt Nam, đã và đang soi đường cho thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam, cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Dưới ngọn cờ tư tưởng Hồ Chí Minh, cách mạng Việt Nam đã vững bước tiến lên giành những thắng lợi lịch sử có ý nghĩa thời đại sâu sắc.

Hiện nay, đất nước ta đang thực hiện đổi mới, mở cửa và hội nhập, công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Bên cạnh thuận lợi, chúng ta cũng có nhiều khó khăn, do đó mỗi người cần nghiên cứu, học tập, nắm vững chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nắm vững đường lối, quan điểm của Đảng và pháp luật của Nhà nước để kiên định mục tiêu lý tưởng cách mạng: Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, như Bác Hồ hằng mong muốn.

---------------------------------------------------------------------------------

Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh - tư tưởng bất diệt 

PGS.TS Lê Doãn Tá

(VietNamNet) - Hồ Chí Minh quan niệm: Con người không phải là thần thánh, có cả cái tốt và cái xấu. Bởi vậy, phải "làm cho phần tốt trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi". Người yêu cầu phải thức tỉnh, tái tạo lương tâm, đánh thức những gì tốt đẹp trong con người.

 Quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam đã hun đúc nên truyền thống nhân ái của dân tộc ta. Nhân dân ta đã trải qua mấy ngàn năm chinh phục thiên nhiên, chống thiên tai, bão lụt, khai hoang mở đất. Nhân dân ta lại phải chống chọi với nạn ngoại xâm liên miên từ phương Bắc xuống, rồi chủ nghĩa thực dân phương Tây xâm lược. Công cuộc lao động gian khổ và chiến đấu hy sinh hun đúc nên truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta, trong đó nổi bật là lòng nhân ái, là tư tưởng nhân văn, nhân đạo.

Tình đoàn kết, yêu thương lẫn nhau "Bầu ơi thương lấy bí cùng", "Thương người như thể thương thân" là nét đẹp nổi bật của con người Việt Nam, nhất là trong cơn hoạn nạn, rủi ro. Lòng nhân ái của từng người dân đã gắn chặt vận mệnh của họ với sự sống còn, tồn vong của dân tộc, với sự hùng cường, thịnh trị của Tổ quốc. Càng yêu con người, càng thương con người, càng có thêm ý chí kiên cường, bất khuất, dám xả thân, hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc; dám vươn lên để tìm con đường thoát cho dân tộc khỏi đói nghèo, xây dựng đất nước cường thịnh. 

Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trong lòng một dân tộc có truyền thống nhân ái lại tiếp nhận được những tinh hoa văn hoá phương Đông và phương Tây, về "đạo làm người" của Nho giáo, về "cứu khổ cứu nạn", nhân ái, khoan dung của Phật giáo; về lý tưởng nhân văn thời cách mạng tư sản đang lên, chống phong kiến, giải phóng xã hội… Từ khi đến với chủ nghĩa Mác Lênin, thấm nhuần học thuyết nhân đạo hiện thực của chủ nghĩa Mác, tư tưởng nhân văn ở Hồ Chí Minh đã có những chuyển biến bước ngoặt mang tính tổng hợp từ nhiều giá trị tinh hoa của nhân loại. Tình yêu thương con người ở Hồ Chí Minh đã trở thành lẽ sống của Người, yêu thương con người gắn với lòng tin ở con người, dùng sức của con người để giải phóng con người, trọng nhân tài, vì con người và phục vụ con người với chữ Người viết hoa.

Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh vô cùng rộng lớn. Có thể nêu lên mấy khía cạnh chủ yếu sau đây:

Một là, thương yêu con người, thương yêu nhân dân, hết sức bao la, thắm thiết. Người từng nói "Nghĩ cho cùng, mọi vấn đề… là vấn đề ở đời và làm người. Ở đời và làm người phải là thương nước, thương dân, thương nhân loại đau khổ bị áp bức"(1).

Tình yêu thương con người ở Hồ Chí Minh xuất phát từ tình yêu thương của những người đồng cảnh ngộ, mất nước, bị nô lệ, cùng chung số phận bị áp bức bóc lột, đi tìm lối thoát cho dân tộc. Khi bôn ba nơi hải ngoại, chứng kiến cảnh bị áp bức bóc lột của công nhân, của nhân dân lao động các nước tư bản chủ nghĩa, chứng kiến cảnh bị áp bức của nhân dân các thuộc địa khác, tình yêu thương con người ở Người mở rộng sang yêu thương những người cùng cảnh ngộ, những người lao động nghèo đói, "cùng khổ, thiếu thốn", những người thuộc các dân tộc khác có chung số phận với dân tộc Việt Nam. "Chữ người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn… Nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng nữa là cả loài người", Người đã từng nói như vậy. 

Xuất phát từ tình yêu thương ấy mà Người đã đi tìm con đường giải phóng cho dân tộc, giải phóng khỏi mọi áp bức, bất công. Mục tiêu của Hồ Chí Minh đã từng nói rõ trong Lời ra mắt của báo Người cùng khổ (Le Paria) năm 1921: "đi từ giải phóng những người nô lệ mất nước, những người lao động cùng khổ đến giải phóng con người".

Với mục tiêu được xác định, Người trở về nước thực hiện sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam khỏi ách áp bức của thực dân Pháp và bè lũ tay sai. Với đường lối đúng đắn mà Người đề ra, tập hợp xung quanh mình những nhân tài trên nhiều lĩnh vực, ở nhiều độ tuổi, đoàn kết toàn dân tộc vào một Mặt trận thống nhất và tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ của quốc tế, nhân dân ta đã đánh đuổi đế quốc thực dân, giải phóng dân tộc, nước ta hoàn toàn độc lập, thống nhất và xây dựng cuộc sống mới.

Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công, Người đã đề ra những nhiệm vụ cấp bách là diệt giặc đói và diệt giặc dốt cùng với việc chống giặc ngoại xâm. Trước mắt, phải xoá đói nghèo, làm cho kinh tế phát triển "làm cho người nghèo thì đủ ăn, người đủ ăn thì khá giàu và người khá giàu thì giàu thêm"(2). Kinh tế có phát triển đời sống đồng bào có ấm no thì đất nước mới cường thịnh. 

Người từng nói "Tôi thấy các cháu bụng ỏng, mắt choẹt, tôi hết sức đau lòng". Người yêu cầu những người lãnh đạo chính quyền phải chăm lo đến đời sống nhân dân, phải chăm lo từ việc "tương cà mắm muối của dân", không được ức hiếp quần chúng nhân dân. 

Bác Hồ thăm hỏi đồng bào dân tộc Pác Pó, Cao Bằng năm 1961. 

Người chăm lo đến việc nâng cao dân trí, chống giặc dốt, xoá nạn mù chữ, phát triển giáo dục. Người từng nói "Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu". Người yêu cầu Đảng cầm quyền phải chăm lo đến nâng cao trình độ học vấn cho nhân dân, chăm lo phát triển mọi mặt của dân tộc ta. Người thường nói chế độ thực dân đã dùng mọi thủ đoạn ngu dân để đầu độc dân tộc ta, để hủ hoá nhân dân ta bằng những thói xấu như lười biếng, gian xảo, tham ô…Cho nên phải làm sao để dân tộc Việt Nam trở thành một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động , một dân tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc lập, "sánh vai với các cường quốc năm châu".

Tình yêu thương con người ở Hồ Chí Minh không chỉ giới hạn ở nhân dân Việt Nam mà là tình bác ái bao la. Người từng vạch rõ "Trừ bọn Việt gian bán nước, trừ bọn phát xít thực dân, là những ác quỷ mà ta phải kiên quyết đánh đổ, đối với tất cả những người khác thì ta phải yêu quý, kính trọng, giúp đỡ… Phải thực hành chữ bác - ái" (3). 

Người còn nói "Lòng yêu thương của tôi đối với nhân dân và nhân loại không bao giờ thay đổi" và trước lúc vĩnh viễn đi xa, Người viết " Đầu tiên là vấn đề con người" và "Cuối cùng tôi để lại muôn vàn tình thân yêu cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh niên và nhi đồng. Tôi cũng gửi lời chào thân ái đến các đồng chí, các bầu bạn và các cháu thanh niên, nhi đồng quốc tế".

Hai là, Bác Hồ tin tưởng vững chắc vào khả năng và phẩm giá tốt đẹp của con người. Hồ Chí Minh kế thừa tư tưởng kiệt xuất của các anh hùng, hào kiệt của dân tộc như Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi… về sức mạnh của nhân dân: "Khoan thư sức dân để làm kế bền gốc, sâu rễ"; "đẩy thuyền cũng là dân, mà lật thuyền cũng là dân". Người còn kế thừa tư tưởng nhân văn "lấy dân làm gốc" và chủ nghĩa nhân đạo hiện thực của học thuyết Mác để hình thành tư tưởng nhân văn mới, tin tưởng mãnh liệt vào sức mạnh, tính chủ động, sáng tạo của quần chúng nhân dân và lòng tôn trọng, kính trọng nhân dân lao động.

Người nói "Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân" (4).

Trong điều kiện bị đế quốc thực dân thống trị, kẻ thù đàn áp dã man, cùng với chính sách ngu dân của chúng, người dân các nước thuộc địa tưởng chừng không thể gượng dậy nổi, song Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh vẫn tin tưởng ở nhân dân mình, dân tộc mình"… đằng sau sự phục tùng tiêu cực, người Đông Dương giấu một cái gì đang sôi sục, đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm khi thời cơ đến…" và "sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi: chủ nghĩa xã hội chỉ cần phải làm cái việc là gieo hạt giống của công cuộc giải phóng nữa thôi".

Trong quá trình đấu tranh, Người đã làm cho nhân dân thế giới nhận thức rõ vấn đề thuộc địa, đoàn kết giúp đỡ phong trào giải phóng dân tộc là giúp đỡ cho chính mình. Người nhận thấy rõ vai trò của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp cách mạng, "người là gốc của làng nước", "nước lấy dân làm gốc", "gốc có vững cây mới bền", "xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân" (5),

Người còn nói rằng: "Dân như nước, mình như cá", "lực lượng nhiều là ở dân hết". "Công việc đổi mới là trách nhiệm ở dân". Do đó, Người yêu cầu "Đem tài dân, sức dân, của dân, làm lợi cho dân". Ngày nay, nội dung trên càng có ý nghĩa lớn lao, bởi nếu chúng ta biết tiến cử nhân tài, dùng nhân tài đúng lúc, đúng chỗ, mạnh dạn cất nhắc nhân tài trong mọi lĩnh vực thì sẽ càng làm lợi cho dân.

Ba là, chăm lo bồi dưỡng, sử dụng, phát động sức mạnh của con người, của nhân dân. Xuất phát từ truyền thống yêu nước, thương dân bị nô lệ, Hồ Chí Minh đi tìm đường cứu nước, cứu dân. Suốt cuộc đời của người là vì dân, vì nước.

"Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là nước được độc lập, tự do, nhân dân ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành".

Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, tại cuộc họp đầu tiên của Uỷ ban nghiên cứu kế hoạch kiến quốc, Hồ Chí Minh nêu rõ mục tiêu của Nhà nước là: 

"1. Làm cho dân có ăn.

2. Làm cho dân có mặc.

3. Làm cho dân có chỗ ở.

4. Làm cho dân có học hành".

Người còn nói "Chúng ta đã hy sinh phấn đấu để giành độc lập. Chúng ta đã tranh được rồi… Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ"(6).

Trong kháng chiến, kiến quốc, Người luôn chăm lo, bồi dưỡng sức dân. Vì dân, vì con người là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong tư tưởng của Người. Song ở Người, sự nghiệp đó chính là của nhân dân. Đoàn thể, Nhà nước phải là người tổ chức nhân dân, biết đem sức dân, tài của dân mà đem lại lợi ích cho nhân dân. 

Do vậy, khi có chính quyền rồi, Người luôn nhắc nhở phải xây dựng bộ máy trong sạch, đấu tranh với những biểu hiện của thói quan liêu, hách dịch, nhũng nhiễu nhân dân; phải dựa vào nhân dân, khơi dậy sức mạnh tiềm tàng trong nhân dân để phục vụ cho sự nghiệp đổi mới, xây dựng đời sống mới trong nhân dân…

Bác Hồ thăm trường mẫu giáo Mầm non tỉnh Thanh Hóa, ngày 10/12/1961. 

Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người rất toàn diện. Con người không phải là thần thánh, có cả cái tốt và cái xấu. Bởi vậy, theo Người phải "làm cho phần tốt trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi"(7), Người yêu cầu phải thức tỉnh, tái tạo lương tâm, đánh thức những gì tốt đẹp trong con người.

Ngay cả những người đã lầm đường lạc lối, Hồ Chí Minh cũng tỏ rõ sự khoan dung, độ lượng: "Năm ngón tay cũng có ngón vắn, ngón dài. Nhưng vắn dài đều họp lại nơi bàn tay. Trong mấy triệu người cũng có người thế này, thế khác, nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi của tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan hồng đại độ (8).

Cả cuộc đời của Người là một hình mẫu của con người nhân văn của thời đại mới. Trong con người Hồ Chí Minh là sự thống nhất giữa lòng yêu thương con người với lòng tin, sự tôn trọng và ý chí cùng hành động triệt để giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người.

(1) Hồ Chí Minh: Nhà nước và pháp luật Việt Nam, Nxb.Pháp lý, H.1990, tr.174

Tư Tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp giành độc lập cho xứ sở 

Tư tưởng Đại đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong sự nghiệp giải phóng dân tộc

Giữa thế kỷ XIX, nhân dân Việt Nam điêu đứng trong cảnh ngộ mất nước, bị xóa tên trên bản đồ thế giới, bị áp bức về chính trị, bị bóc lột về kinh tế, bị đầu độc về văn hóa, bị đày đọa trong đói rách và bệnh tật. Toàn xã hội Việt Nam đặc biệt là tầng lớp lao động lâm vào số phận bi thảm, quyền sống và mọi quyền con người bị chà đạp.

Khát vọng giải phóng được ấp ủ từ lâu trong dân tộc Việt Nam càng thêm nung nấu và trở thành vấn đề sống còn. Vào những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, những người Việt Nam nhiệt thành yêu nước, đã từng ao ước hướng vào các phong trào Đông Du, Đông Kinh nghĩa thục, Duy Tân và chống thuế ở Trung kỳ…, đã từng hy vọng vào ngọn cờ của Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh… nhưng đau xót thay mọi sự nỗ lực gắng gỏi của các thế hệ tiền bối đều không đi đến kết quả. Đối với Hồ Chí Minh, mặc dù khi đó chưa lý giải được thấu đáo nguyên nhân thất bại của phong trào yêu nước cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX song Người đã nhận thấy ở các nhà ái quốc tiền bối còn có những lầm lẫn, mơ hồ trong việc phân biệt bạn thù, trong việc tập hợp lực lượng, xây dựng phong trào cách mạng ... Hồ Chí Minh trân trọng mọi công phu tìm kiếm, khâm phục tâm huyết của các bậc tiền bối, nhưng thấy rõ tất cả các con đường đã được chọn đều không có hiệu quả. Vì vậy, Người quyết định xuất dương để xem xét thế giới, quan sát cuộc sống của các dân tộc, nghiên cứu cách làm của các nước, cốt tìm ra con đường cho dân tộc Việt Nam tự giải phóng mình. Những năm tháng bôn ba ở nước ngoài để tìm chân lý cứu nước, Hồ Chí Minh đã thâm nhập sâu sắc đời sống và phong trào cách mạng của giai cấp công nhân ở các nước TBCN, của các dân tộc bị áp bức bóc lột ở thuộc địa. Cuộc khảo nghiệm thực tiễn rộng lớn đã giúp Người nhận thức một sự thật: giới cần lao và các dân tộc thuộc địa tiềm ẩn một sức mạnh vĩ đại, song cuộc đấu tranh của họ chưa đi đến thắng lợi, bởi vì các dân tộc bị áp bức chưa biết tập hợp lại, chưa có sự liên kết chặt chẽ với giai cấp công nhân ở các nước “chính quốc”, chưa có tổ chức.

Từ nhận thức khoa học này, Hồ Chí Minh đã làm tất cả từ tuyên truyền, thức tỉnh, đến vận động, đến tổ chức dể làm xây dựng một chiến lược đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế, chống chủ nghĩa đế quốc, chống chủ nghĩa thực dân, giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp. Trên con đường hoạt động cách mạng Hồ Chí Minh tiếp tục tìm tòi, kiểm nghiệm những cơ sở lý luận thực tiễn trên một quy mô, phạm vi rộng lớn để dần dần xây dựng những luận điểm đầu tiên về đại đoàn kết đó là những luận điểm về sự cần thiết phải kết hợp cách mạng thuộc địa với cách mạng chính quốc, về sự cần thiết phải có một chính đảng của giai cấp công nhân để đoàn kết các lực lượng yêu nước, cách mạng ở thuộc địa và cuộc chiến tranh chống chủ nghĩa thực dân; về vai trò của liên minh công nông do giai cấp công nhân lãnh đạo. Những luận điểm này được phản ánh trong các bài viết của Người đăng trên Tạp chí Cộng sản (bản tiếng Pháp) số 18, 19 năm 1921, trên các báo “ Le Pari” (Người cùng khổ), “Luymanitê” (Nhân đạo), tạp chí “Thư tín quốc tế”, “Đời sống công nhân”…, trong các bài tham luận của Người tại Đại hội Nông dân quốc tế (1923), (trong thư gửi các bạn cùng hoạt động ở Pháp) Người viết: “Đối với tôi câu trả lời được rõ ràng: trở về nước đi vào quần chúng thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập”, Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ V (1924) Người đã tuyên bố rõ: “lao động tất cả các nước! đoàn kết lại”.

Nhận thức được sức mạnh đoàn kết, vai trò của đại đoàn kết trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh đã nhanh chóng hình thành một mặt trận đoàn kết chiến đấu giữa nhân dân lao động ở các nước có bọn thực dân đi xâm lược với nhân dân các dân tộc bị xâm lược, Người coi khối liên minh đó là một trong những nhân tố bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng.

Các nhà yêu nước tiền bối chưa thấy được số phận của các dân tộc bị áp bức khác cũng đau khổ, tủi nhục như nhau, có chung một nguyện vọng là phấn đấu cho tự do, độc lập của dân tộc mình. Hồ Chí Minh từ những năm 20 đã thấy rõ điều đó và Người đã nỗ lực phấn đấu để góp phần tích cực xây dựng mặt trận đoàn kết chiến đấu giữa các dân tộc bị áp bức để chông kẻ thù chung. Hội Liên hiệp thuộc địa (ở Pháp), “Hội các dân tộc bị áp bức” của các nước châu á, mà chính Người đã tham gia sáng lập. Trước Hồ Chí Minh trên thế giới chưa bao giờ hình thành một khối liên minh ấy.

Hầu hết các nhà yêu nước tiền bối đều dựa vào tầng lớp trên làm nòng cốt cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, coi quần chúng nhân dân chỉ đóng vai trò thứ yếu. Hồ Chí Minh trong khi lấy “công nông là gốc của cách mạng” lại vẫn sẵn sàng mở rộng cửa đón tiếp những người thuộc tầng lớp trên có tinh thần yêu nước vào Mặt trận dân tộc thống nhất chống đế quốc vì độc lập tự do của tổ quốc. Mặt trận Việt minh (1941), Mặt trận Tổ quốc Việt Nam sau này chính là biểu hiện của tinh thần ấy.

Là người quán triệt và vận dụng một cách sáng tạo những luận điểm của Mac-Lênin về cách mạng giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh đã góp phần làm phong phú những luận điểm ấy trong thời đại mới. Người đã rút ra một kết luận quan trọng là: “trong điều kiện thuận lợi cho phong trào cách mạng của thời đại ngày nay, bất cứ một dân tộc nào dù nhỏ, nhưng nếu đoàn kết chặt chẽ và kiên quyết chiến đấu theo đường lối chính trị và quân sự đúng đắn lại được sự ủng hộ và giúp đỡ tích cực của phe XHCN và của nhân dân cách mạng thế giới thì có thể đánh thắng bất cứ bọn đế quốc nào, kể cả tên đầu sỏ là đế quốc Mỹ ”.

Kết luận nổi tiếng ấy của Người được nêu ra trong lúc đế quốc Mỹ đang ào ạt đưa hàng chục vạn quân và hàng triệu tấn vũ khí vào miền Nam Việt Nam, loài người đang hồi hộp lo lắng cho số phận của dân tộc Việt Nam trước sự xâm lược của tên đế quốc đầu sỏ, lại càng có ý nghĩa trọng đại. Nó chẳng những củng cố niềm tin tất thắng vào sự nghiệp đấu tranh cách mạng của các dân tộc bị bọn đế quốc xâm lược, mà còn nêu lên một chân lý có tính thời đại về sự chiến đấu để bảo vệ thiêng liêng quyền dân tộc mình.

Tự nhận lấy trách nhiệm và sứ mệnh lịch sử trước đất nước, dân tộc và thời đại, Hồ Chí Minh vô cùng thấm thía giá trị của đại đoàn kết. Sau 30 năm ra đi tìm đường cứu nước năm 1941 trở về Cao Bằng, Hồ Chí Minh trong tay không có vũ khí, không có quân đội nhưng Người đã một cẩm nang thần kỳ, cống hiến cho dân tộc. “Dân ta muốn sống chỉ có một đường là đoàn kết lại để đánh Tây, đuổi Nhật” và truyền cẩm nang đó qua một trong nhiều phương tiện như báo Việt Nam độc lập số 102. Ngay từ số báo đầu tiên Bác đã khẳng định rõ:

“Mau mau đoàn kết cùng nhau

Để đánh Tây, đánh Nhật, để lo tự cường”.

Một lời kêu gọi thiết tha như thấy từ sâu thẳm đáy lòng yêu nước của Người.

Đoàn kết lại đồng bào ta ơi!

Trước thời cứu nước sau thời cứu dân.

Không một số báo Việt Nam độc lập nào trong những năm 1941- 1942 lại không có những lời kêu gọi, căn dặn, yêu cầu, mong mỏi, hướng dẫn, vận động toàn dân đoàn kết xung quanh Hội Việt Minh. Đoàn kết trong một tổ chức, trong một mặt trận đó là vũ khí mạnh nhất, không vũ khí nào, không ai thắng nổi. Không chỉ có kêu gọi, mà Hồ Chí Minh còn viết hàng loạt thơ ca như: Hòn đá, Dân cày, Công nhân, Phụ nữ, Ca binh lính, Ca sợi chỉ, Con Cáo và tổ Ong v.v… với tinh thần cốt lõi là kêu gọi toàn dân ta:

“Đoàn kết vững bền như khối sắt

Để cùng nhau cứu nước Nam ta”.

Với tư tưởng đó của Hồ Chí Minh được thể hiện rất đậm nét trong bài diễn ca Lịch sử nước ta, với hơn 200 câu lục bát truyền thống của dân tộc. Hồ Chí Minh đã tái hiện lại dòng lịch sử dân tộc, làm sống lại trong lòng người dân đất Việt những mốc son chói lọi; nêu cao những chiến công hiển hách của cha anh, khơi dậy lòng tự hào dân tộc, đồng thời động viên lớp lớp cháu con noi gương các bậc tiền bối đứng lên đánh đuổi giặc thù:

 …Bất kỳ nam nữ nghèo giầu

Bất kỳ già trẻ cùng nhau kết đoàn

Người giúp sức, kẻ giúp tiền

Cùng nhau giành lấy chủ quyền của ta…

Hồ Chí Minh còn dùng những hình ảnh sinh động có thực, với lý lẽ sắc bén, phân tích những đúng, sai, lợi, hại nhằm tuyên truyền giáo dục, thuyết phục lôi cuốn tập hợp quần chúng cách mạng lên đường tranh đấu. Vì thế, Hồ Chí Minh luôn nghĩ rằng: trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân nên toàn dân ta đồng tình đồng sức, đồng lòng sẽ tạo nên sức mạnh kỳ diệu và hùng hậu, thành phong trào cách mạng sôi sục để đánh đuổi Nhật - Pháp cứu nước, cứu nhà. Sức mạnh đó đã được Hồ Chí Minh khẳng định trong bài thơ Nhóm lửa viết năm 1941. Và đúng như lời tiên đoán của Người chỉ 4 năm sau, dưới sự lãnh đạo của Đảng, toàn dân ta đã tập hợp thành lực lượng to lớn trong Mặt trận Việt Minh giương cao ngọn cờ đại đoàn kết dân tộc. Bằng tinh thần quyết chiến, quyết tháng, vượt qua bao khó khăn, thử thách, nhân dân ta đã làm nên cuộc Cách mạng tháng Tám long trời lở đất, đưa dân tộc ta từ kiếp lầm than nô lệ sang kỷ nguyên độc lập tự do và CNXH. Đầu năm 1951, phát biểu tại Đại hội thống nhất Mặt trận Việt Minh và Hội Liên Việt, Hồ Chí Minh chỉ rõ:

Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết

Thành công, thành công, đại thành công.

Như vậy, theo Hồ Chí Minh đoàn kết càng rộng rãi, đoàn kết càng chặt chẽ thì thắng lợi càng to, thành tích càng lớn. Lịch sử dân tộc Việt Nam nói chung, lịch sử cách mạng Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng chứng minh sự khẳng định này của Người là hoàn toàn đúng.

Cách mạng tháng Tám thành công, 9 năm kháng chiến chống Pháp thắng lợi, hơn 20 năm chống Mỹ cứu nước toàn thắng, góp phần cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc ở á, Phi, Mỹ Latinh. Tất cả những chiến công lịch sử phi thường ấy của nhân dân ta không thể không kể đến công lao vĩ đại của Hồ Chí Minh- Người anh dùng kiệt xuất của sự nghiệp giải phóng dân tộc. Bởi lẽ trong suốt quá trình đấu tranh, nhất là vào những lúc diễn ra bước ngoặt của cách mạng thì tầm nhìn xa, trông rộng của Hồ Chí Minh; tư tưởng bất tử: “Không có gì qúy hơn độc lập tự do” của Người; những chủ trương quyết đoán và sáng suốt của Người; tài năng động viên và tổ chức tuyệt vời của Người; phương pháp cách mạng vừa sắc bén vừa mềm dẻo, linh hoạt với tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Người, thực sự là những nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Hồ Chí Minh đã từng là hạt nhân đoàn kết của các dân tộc bị áp bức, đã thúc đẩy cuộc giải phóng dân tộc trong thế kỷ XX giành thắng lợi, đã từng mơ ước “Bốn phương vô sản đều là anh em”. Tinh thần đoàn kết đó không bó hẹp trong một nước Việt Nam. Người lấy mục tiêu hoà bình, tự do, bình đẳng, bác ái, ấm no, hạnh phúc cho tất cả những Người lao động và tiến bộ thuộc mọi giống nòi, không phân biệt màu da, chủng tộc làm điểm tương đồng để thực hiện sự liên minh thống nhất đoàn kết quốc tế. Người đã rút ra bài học lớn: “đoàn kết trong mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi, đoàn kết quốc tế để thế giới ủng hộ, giúp đỡ là một trong những nhân tố quan trọng quyết định thắng lợi của cách mạng”. Và Người luôn luôn khẳng định: “lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn”. Trước khi đi vào cõi vĩnh hằng Người đã để lại bản Di chúc cho toàn Đảng, toàn dân ta. Người nhấn mạnh về đoàn kết trong Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết quốc tế. Những dòng cuối cùng của Di chúc Người viết: “điều mong muốn cuối cùng của tôi là toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”.

Đó là những bài học quý báu mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng và phát triển sáng tạo thành công mang ý nghĩa thực tiễn để góp phần vào sự nghiệp giải phóng dân tộc

Trong sự nghiệp giải phóng dân tộc tư tưởng đại đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh là bó đuốc soi đường, dẫn lối cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta từ miền Nam đến miền Bắc, từ miền ngược đến miền xuôi, từ nông thôn đến thành thị, từ trong nước đến nước ngoài tiến lên giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đặc biệt với đại thắng mùa xuân 1975 đã mở ra một kỷ nguyên đất nước độc lập, thống nhất và tiến lên CNXH. Ba mươi năm đã trôi qua kể từ thắng lợi vẻ vang đó, đất nước Việt Nam độc lập thống nhất đã tiến những bước dài chưa từng có trong lịch sử, giành những thành tựu to lớn trong công cuộc đổi mới. Ngày nay, tư tưởng đại đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh đang vẫy gọi chúng ta tiếp tục vững bước tiến lên để thực hiện bằng được “mục tiêu chung là củng cố tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN” mà Nghị quyết Hội nghị Trung ương VII khoá IX đã chỉ rõ.