Tại hội thảo phổ biến và tập huấn thực hiện quy định trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất, nhập khẩu (EPR) theo quy định mới của Luật Bảo vệ môi trường năm 2020, diễn ra ngày 4/3, ông Phan Tuấn Hùng, Vụ trưởng Vụ Pháp chế (Bộ Tài nguyên và Môi trường) cho biết EPR được kỳ vọng là giải pháp hiệu quả nhất giúp giải quyết vấn đề rác thải nhựa hiện nay và sẽ đặt nền móng cho nền kinh tế tuần hoàn tại Việt Nam. “Chìa khóa” để giải quyết vấn đề rác thải Thông tin thêm tại hội thảo được tổ chức theo hình thức trực tiếp và trực tuyến với hơn 300 đại biểu đến từ các cơ quan, tổ chức, hiệp hội, doanh nghiệp khu vực miền Bắc tham dự, ông Phan Tuấn Hùng nhấn mạnh EPR là cách tiếp cận mới của chính sách môi trường, trong đó trách nhiệm của nhà sản xuất một loại sản phẩm được mở rộng tới giai đoạn thải bỏ trong vòng đời của sản phẩm đó. Theo đó, nhà sản xuất, nhập khẩu được yêu cầu có trách nhiệm đối với các tác động môi trường vòng đời sản phẩm, nhất là rác thải của sản phẩm. Bên cạnh đó, EPR cũng là một công cụ kinh tế và được xem là một cách tiếp cận mới nhằm tác động thay đổi thói quen sản xuất ít quan tâm tới môi trường sang sản xuất xanh, sạch, thân thiện với môi trường, giảm thiểu chất thải; đồng thời tìm kiếm giải pháp tài chính xử lý vấn đề quản lý chất thải, tăng cường tái chế, giúp Chính phủ đạt mục tiêu về môi trường mà không cần tăng thuế hay phí môi trường. [Luật Bảo vệ môi trường: Tạo đột phá trong quản lý, bảo vệ môi trường] Vì thế, để thúc đẩy một nền kinh tế tuần hoàn, phát triển bền vững thì EPR là một trong những công cụ, động lực để thúc đẩy và duy trì nền kinh tế tuần hoàn. Ngoài ra, EPR còn giúp tái cấu trúc hệ thống quản lý chất thải hiện nay, góp phần hình thành ngành công nghiệp tái chế hiện đại. Nếu thực hiện đúng, đáp ứng theo các yêu cầu, Việt Nam hoàn toàn có thể đảm bảo sự khép kín, tuần hoàn tài nguyên giữa nguồn nguyên liệu đầu vào và chất thải sinh ra trong các hoạt động sản xuất. Với tầm quan trọng trên, đại diện Bộ Tài nguyên và Môi trường tin tưởng rằng EPT sẽ là một giải pháp hiệu quả và rõ ràng nhất giúp giải quyết vấn đề rác thải nhựa hiện nay, từ đó đặt nền móng cho nền kinh tế tuần hoàn tại Việt Nam. Nhà sản xuất, nhập khẩu thuốc lá, kẹo cao su… phải có trách nhiệm đóng góp tài chính vào Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam để hỗ trợ thu gom, xử lý chất thải. (Ảnh: TTXVN phát) Nhìn nhận ở góc độ doanh nghiệp, đại diện Unilever Việt Nam cũng cho rằng bảo vệ môi trường là “xương sống” trong các hoạt động sản xuất, kinh doanh. Vì thế, doanh nghiệp cũng sẽ xây dựng kế hoạch và lộ trình thực hiện các cam kết về hành động ứng phó với vấn nạn ô nhiễm nhựa toàn cầu, trong đó có Việt Nam. Không tái chế sẽ phải đóng góp tài chính Tại hội thảo, đại diện Bộ Tài nguyên và Môi trường đã chia sẻ, hướng dẫn các doanh nghiệp trong thực hiện quy định chi tiết về trách nhiệm mở rộng nhà sản xuất, nhập khẩu như: đối tượng, hình thức thực hiện, lộ trình, đăng ký, kê khai và báo cáo kết quả tái chế, chế tài xử lý vi phạm… Cụ thể, nhà sản xuất, nhập khẩu săm lốp, pin ắc quy, dầu nhớt và các sản phẩm có bao bì (như bao bì thực phẩm, mỹ phẩm, thuốc, phân bón, thức ăn chăn nuôi, thuốc thú y, xi măng, chất tẩy rửa và chế phẩm dùng trong nông nghiệp, y tế…) phải thực hiện tái chế sản phẩm, bao bì từ ngày 1/1/2024. Tương tự, nhà sản xuất, nhập khẩu các sản phẩm điện, điện tử phải thực hiện tái chế từ ngày 1/1/2025; nhà sản xuất, nhập khẩu các phương tiện giao thông thực hiện tái chế từ ngày 1/1/ 2027. Trường hợp doanh nghiệp không thực hiện tái chế thì phải đóng tiền vào Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam để hỗ trợ hoạt động tái chế. Về trách nhiệm xử lý chất thải, nhà sản xuất, nhập khẩu thuốc bảo vệ thực vật (có bao bì), pin sử dụng một lần, tã bỉm, kẹo cao su, thuốc lá và một số sản phẩm có thành phần nhựa tổng hợp như bóng bay, đồ chơi trẻ em, giầy dép, quần áo, đồ nhựa dùng một lần, đồ dùng một lần, đồ nội thất, vật liệu xây dựng, túi nilong kích thước nhỏ… phải có trách nhiệm đóng góp tài chính vào Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam để hỗ trợ thu gom, xử lý chất thải từ ngày 1/1/2022. Ngoài ra, tại hội thảo, đại diện Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng tham vấn ý kiến của các cơ quan, tổ chức, hiệp hội, doanh nghiệp về đề xuất định mức tái chế (Fs) và xin ý kiến doanh nghiệp đối với dự thảo Thông tư ban hành quy chế quản lý đóng góp tài chính hỗ trợ tái chế, xử lý chất thải áp dụng trong thời gian tới./.
(TN&MT) - Đến nay, hệ thống pháp luật Việt Nam liên quan đến công tác bảo vệ môi trường (BVMT) nói chung và BVMT trong các khu công nghiệp (KCN) đã từng bước được hoàn thiện, đồng bộ và thống nhất, trong đó quy định rõ trách nhiệm bảo vệ môi trường của các doanh nghiệp trong khu công nghiệp Để quản lý và kiểm soát ô nhiễm KCN, Chính phủ đã ban hành 14 Nghị định, Thủ tướng Chính phủ ban hành 17 Quyết định, Bộ Tài nguyên và Môi trường, và các Bộ, ngành liên quan đã ban hành 54 Thông tư và Thông tư liên tịch, 48 quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường có liên quan trực tiếp. Đó là, Nghị định số 82/2018/NĐ-CP về quản lý khu công nghiệp, khu kinh tế; Nghị định số 18/2015/NĐ-CP quy định về quy hoạch BVMT, đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường và kế hoạch BVMT; Nghị định số 38/2015/NĐ - CP về quản lý chất thải và phế liệu; Nghị định số 80/2014/NĐ-CP ngày 06/8/2014 về thoát nước và xử lý nước thải; Thông tư số 35/2015/TT - BTNMT về BVMT khu kinh tế, khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao… Đặc biệt, Luật Bảo vệ môi trường 2020, có hiệu lực từ đầu năm 2022 với 9 nội dung mang tính đột phá, trong đó có các nội dung liên quan trực tiếp đến doanh nghiệp trong KCN như: mở rộng đối tượng phải lập báo cáo đánh giá tác động môi trường; phí nước thải bằng 10% giá nước sạch; phải có giấy phép mới được xử lý chất thải nguy hại; chỉ được nhập khẩu phế liệu làm nguyên liệu sản xuất; cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng bị công khai thông tin… Các văn bản pháp luật này đã quy định rõ trách nhiệm bảo môi trường của doanh nghiệp từ giai đoạn chuẩn bị đầu tư xây dựng khu công nghiệp. Ở giai đoạn này, các doanh nghiệp phải có nghĩa vụ lập báo cáo đánh giá tác động môi trường hoặc kế hoạch bảo vệ môi trường (trước đây là cam kết bảo vệ môi trường) của doanh nghiệp là chủ đầu tư xây dựng và kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp. Trong đó, các yêu cầu về bảo vệ môi trường trong lập quy hoạch xây dựng khu công nghiệp được quy định cụ thể như: Quy hoạch các khu chức năng trong khu công nghiệp phải bảo đảm giảm thiểu ảnh hưởng của các loại hình sản xuất gây ô nhiễm với các loại hình sản xuất khác; thuận lợi cho công tác phòng ngừa, ứng phó sự cố môi trường; Các dự án trong khu công nghiệp có khoảng cách an toàn môi trường theo quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về các công trình hạ tầng kỹ thuật để giảm thiểu khả năng ảnh hưởng đến các cơ sở khác trong khu công nghiệp và các đối tượng kinh tế - xã hội xung quanh khu công nghiệp; Hạ tầng kỹ thuật bảo vệ môi trường được bố trí phù hợp với các loại hình đầu tư trong khu công nghiệp, bảo đảm giảm thiểu tác động xấu đối với môi trường xung quanh; Diện tích cây xanh trong phạm vi khu công nghiệp tối thiểu chiếm 10% tổng diện tích của toàn bộ khu công nghiệp. Bên cạnh đó, chủ đầu tư xây dựng và kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp có nghĩa vụ lập báo cáo đánh giá tác động môi trường hoặc kế hoạch bảo vệ môi trường trình cơ quan có thẩm quyền thẩm định, phê duyệt. Chủ dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp tự mình hoặc thuê tổ chức tư vấn thực hiện đánh giá tác động môi trường và chịu trách nhiệm trước pháp luật về kết quả thực hiện đánh giá tác động môi trường. Trong giai đoạn triển khai xây dựng khu công nghiệp; trách nhiệm bảo vệ môi trường chủ yếu thuộc về doanh nghiệp là chủ đầu tư xây dựng và kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp. Song song với quá trình hoàn thiện cơ sở vật chất kỹ thuật trong khu công nghiệp, các hạng mục về bảo vệ môi trường phải được xây dựng. Các hạng mục đó gồm: hệ thống thoát nước mưa, hệ thống xử lý nước thải tập trung (gồm hệ thống thu gom nước thải, nhà máy xử lý nước thải tập trung, hệ thống thoát nước thải), khu vực lưu giữ chất thải rắn (nếu có), hệ thống quan trắc nước thải tự động và các công trình hạ tầng kỹ thuật bảo vệ môi trường khác. Đối với hệ thống thoát nước, xử lý nước thải tập trung, hệ thống thoát nước mưa phải hoàn thành trước khi khu công nghiệp đi vào hoạt động. Ngoài ra còn phải thực hiện thêm một số nghĩa vụ quan khác gồm: Quản lý chất thải rắn; Quan trắc môi trường; Ký văn bản thỏa thuận điều kiện đấu nối nước thải với chủ đầu tư xây dựng và kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp; đấu nối nước thải của cơ sở vào hệ thống thu gom nước thải của nhà máy xử lý nước thải tập trung dưới sự giám sát của chủ đầu tư xây dựng và kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp hoặc phải có hệ thống xử lý nước thải bảo đảm đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường Đối với giai đoạn khu công nghiệp đi vào hoạt động, doanh nghiệp phải vận hành thường xuyên, liên tục công trình hạ tầng kỹ thuật bảo vệ môi trường khu công nghiệp, bảo đảm diện tích cây xanh trong khu công nghiệp theo quy định của pháp luật. Thực hiện chương trình quan trắc môi trường khu công nghiệp theo quy định của pháp luật. Tổng hợp, báo cáo kết quả quan trắc môi trường và công tác bảo vệ môi trường khu công nghiệp, các cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ trong khu công nghiệp gửi Ban quản lý các khu công nghiệp, Sở Tài nguyên và Môi trường trước ngày 31 tháng 12 hàng năm. Chủ dự án và chủ cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ trong khu công nghiệp phải đảm bảo toàn bộ chất thải trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ phải được xử lý đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường trước khi xả thải vào môi trường. Chủ dự án và chủ cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ trong khu công nghiệp có thể tự mình hoặc ký hợp đồng với các đơn vị đủ điều kiện để xử lý chất thải theo quy định của pháp luật. Thực hiện chương trình quan trắc môi trường báo cáo theo quy định của pháp luật và thông báo kết quả quan trắc cho chủ đầu tư xây dựng và kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp... |