Cam và quýt khác nhau như thế nào năm 2024

Cam và quýt vốn có họ với nhau, nhưng đã bao giờ bạn đặt câu hỏi loại quả nào tốt cho sức khỏe hơn chưa.

Cam và quýt vốn có họ với nhau, nhưng đã bao giờ bạn đặt câu hỏi loại quả nào tốt cho sức khỏe hơn chưa.

Về nguồn gốc, cam xuất xứ châu Á còn quýt có nguồn gốc từ Florida, Mỹ.

Quýt có hàm lượng nước lên đến 85%, bao gồm chủ yếu là carbs (4% giá trị hàng ngày) và hầu như không có chất béo. Cam có hàm lượng nước 87%, cũng chủ yếu là carbs (4% giá trị hàng ngày) và cũng gần như không có chất béo.

Cả cam và quýt đều có chất dinh dưỡng tương tự nhau nhưng quýt có xu hướng nhiều calo hơn một chút trong mỗi khẩu phần. Chúng chứa thêm vài gram carb.

Điều khác biệt lớn nhất là cam có lượng vitamin C nhiều gấp đôi quýt. Đây là một chất chống oxy hóa mạnh mẽ, hỗ trợ cho các mô liên kết như da, mạch máu và xương. Nhưng quýt lại chứa nhiều vitamin A hơn cam.

Cam cũng chứa nhiều chất xơ hơn quýt nên là nguồn cung carbohydrate có lợi.

Cả 2 loại quả đều chứa những chất dinh dưỡng tốt như kali, thiamin và folate. Và cả 2 cũng đều bổ sung dinh dưỡng ít calo cho cơ thể người.

Với sự khác biệt trên, mọi người có thể lựa chọn ăn cam hoặc quýt để bổ sung dưỡng chất mà cơ thể thiếu. Về cơ bản thì cả 2 loại trái cây này đều rất tốt.

Nhiều loại trái cây kết hợp với nhau như cam với cà rốt, chanh với đu đủ, nghe qua thì tưởng hợp nhưng thực tế thì chúng lại là nguyên nhân gây bệnh cho cơ thể.

Đừng trộn chuối với ổi

Sinh tố chuối và ổi dễ dàng làm bạn bị buồn nôn, đau đầu, nhiễm toan và xì hơi là một số tác dụng phụ của việc kết hợp hai loại quả này.

Bên cạnh đó, cơ thể bạn sẽ khó tiêu hóa nếu tiêu thụ bánh pudding và chuối cùng nhau Nếu ăn kết hợp hai loại này sẽ khiến bụng đầy hơi ở người lớn và có thể gây nguy cơ tử vong ở trẻ nhỏ.

Không kết hợp cam với cà rốt – dứa – sữa

Sinh tố cam với cà rốt, nghe thì có vẻ hợp màu, hợp vị, nhưng thực tế nếu kết hợp chúng với nhau sẽ khiến đường tiêu hóa của bạn gặp vấn đề. Nguy cơ bị ợ nóng, trào ngược dịch mật thừa và ợ nóng, cũng như gây hại cho hệ thống thận.

Bên cạnh đó, sinh tố cam – dứa cũng là một lựa chọn sai lầm. Nhẹ nhất là bạn sẽ bị khó tiêu, đầy bụng. Nặng hơn bạn thường cảm thấy uể oải, khó chịu và không tỉnh táo.

Sữa và nước cam khi kết hợp với nhau có thể ảnh hưởng nghiêm trọng tới chức năng tiêu hóa của cơ thể bạn. Ngoài ra, nó còn ảnh hưởng đến dạ dày bạn. Khi nước cam và sữa được trộn lẫn trong dạ dày sẽ gây khó tiêu hóa, đặc biệt là ở trẻ em.

Sữa và dứa gây bệnh đường ruột

Khi tiêu thụ sữa và dứa với nhau, bạn có thể bị một số tác dụng phụ như buồn nôn, nhiễm trùng, tiêu chảy, đau đầu và thậm chí đau dạ dày. Nguyên nhân của tình trạng trên là do sự kết hợp giữa bromelain và axit lactic trong hai nguyên liệu với nhau gây ra.

Rau quả và trái cây

Hai loại thực phẩm này đều được coi là khỏe mạnh nhưng không có nghĩa bạn có thể dùng chúng trong một lần. Trái cây chứa đường và mất nhiều thời gian để tiêu hóa. Khi ăn rau cùng với trái cây, hệ thống tiêu hóa có thể quá tải gây ra các vấn đề về xì hơi, tiêu chảy và nhức đầu quá.

Không trộn cà chua với dưa chuột – Khoai lang, khoai tây

Trong dưa chuột chứa một loại men phân giải VitaminC, khi ăn dưa chuột với cà chua hay những loại thực phẩm giàu VitaminC sẽ không tốt vì làm giảm khả năng hấp thụ Vitamin C của cơ thể.

Cà chua chứa nhiều chất toan, cùng với khoai lang trong dạ dày sẽ hình thành chất khó tiêu, rất dễ dẫn đến đau bụng, tiêu chảy và rối loạn tiêu hóa.

Khoai lang và quả hồng gây sỏi dạ dày

Trái hồng có vị chat, đó là do nó chứa chất tanin và pectin. Nếu những chất này gặp phải tinh bột đường trong khoai lang sẽ làm thành những viên sỏi trong dạ dày. Nếu lâu ngày, những sỏi này có thể gây viêm loét dạ dày và xuất huyết kèm theo.

Củ cải trắng và các loại táo, lê, nho, cà rốt

Ceton đồng có trong những loại trái cây như táo, lê, nho phản ứng với axit cianogen lưu huỳnh trong củ cải, khiến người ăn bị suy tuyến giáp trạng và bướu cổ.

Cà rốt chứa nhiều enzym phân giải vitamin C, củ cải giàu vitamin C, hai thứ đối chọi nhau này nếu ăn chung sẽ phá hủy các thành phần dinh dưỡng.

Chanh với đu đủ gây thiếu máu

Sự kết hợp giữa chanh – đu đủ là lựa chọn tồi tệ, nó có thể gây ra các vấn đề hemoglobin và thiếu máu. Chanh kết hợp với đu đủ là một loại đồ uống ảnh hưởng xấu đến máu, đặc biệt là những người thiếu máu rơi vào tình trạng trầm trọng hơn. Trẻ em bị chậm lớn.

Quýt (Citrus reticulata) là loài thực vật cho ra quả có múi nhỏ. Được xem là một loài cam chanh riêng biệt, quả thường được ăn trực tiếp hoặc trộn món xà lách trái cây. Quýt lai là một nhóm trái cây có múi màu cam bao gồm các giống lai của quýt với một số nhánh bưởi.

Quýt nhỏ và dẹt, không giống như quả cam thông thường hình cầu (là loại quả lai giữa quýt và bưởi). Hương vị được xem là ngọt ngào và đậm đà hơn so với cam thường. Quả quýt chín từ rắn chắc đến hơi mềm, nặng so với kích thước quả và vỏ sần sùi. Vỏ mỏng, rời, có ít nội bì trắng, nên thường dễ bóc và tách thành từng múi. Quả lai thường có những đặc điểm này ở mức độ thấp hơn. quýt mềm và dễ bị hư do lạnh. Cây có thể được trồng ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới.

Theo các nghiên cứu di truyền, quýt là một trong những loài cam chanh nguyên thủy; thông qua nhân giống hoặc lai tạo tự nhiên, cây là tổ tiên của nhiều giống cây có múi lai ghép. Cùng với thanh yên và bưởi, quýt là tổ tiên của các giống cây lai quan trọng nhất về mặt thương mại (chẳng hạn như cam chua và ngọt, bưởi chùm cùng nhiều loại chanh và chanh vàng). Quýt cũng đã được lai với các loài cam quýt khác, chẳng hạn như chanh sa mạc và kim quất. Mặc dù quýt tổ tiên có vị đắng, nhưng hầu hết các giống quýt thương mại đều có nguồn gốc khi lai tạo với bưởi, cho quả ngọt.

Danh pháp[sửa | sửa mã nguồn]

Citrus reticulata là danh pháp gốc tiếng Latin, trong đó reticulata có nghĩa là "giống như lưới".

Thực vật học[sửa | sửa mã nguồn]

Cam và quýt khác nhau như thế nào năm 2024
Quả quýt mọc trên cây ở Crete .

Quýt là một loại cây có kích thước vừa phải, cao khoảng 7,6 mét (25 ft). Thân cây và cành chính có gai. Lá sáng bóng, màu xanh lục và khá nhỏ. Cuống lá ngắn, gần như không cánh hoặc hơi có cánh. Hoa mọc đơn độc hay thành cụm nhỏ ở kẽ lá. Quýt thường có khả năng tự sinh sản (chỉ cần một con ong di chuyển mang phấn hoa trong cùng một bông hoa) hoặc tạo quả không hạt (không cần thụ phấn và do đó không có hạt, chẳng hạn như giống cam satsuma). Một cây quýt trưởng thành có thể cho năng suất lên 79 kilôgam (174 lb) trên quả.

Quả[sửa | sửa mã nguồn]

Cam và quýt khác nhau như thế nào năm 2024
Quýt trong túi lưới
Cam và quýt khác nhau như thế nào năm 2024
Hạt quýt

Quả quýt nhỏ 40–80 mm (1,6–3,1 in). Vỏ cam, vàng cam hoặc đỏ cam. Vỏ mỏng và dễ bong ra. Dễ bóc vỏ là một lợi thế quan trọng của quýt so với các loại trái cây có múi khác. Cũng giống như các loại quả cam chanh khác, quả quýt dễ dàng tách ra thành các múi riêng lẻ. Quả có thể không hạt hoặc chứa ít hạt. Quả có vị ngọt, có thể ăn cả quả hoặc ép lấy nước.

Sản xuất[sửa | sửa mã nguồn]

Vào năm 2020, sản lượng quýt trên thế giới (tổng hợp cả quýt lai, clementine và satsuma theo báo cáo của FAOSTAT) là 38,6 triệu tấn, dẫn đầu là Trung Quốc với 60% tổng sản lượng toàn cầu. Tây Ban Nha đã sản xuất hơn hai triệu tấn vào năm 2020, trong khi các nhà sản xuất quan trọng khác với khoảng một triệu tấn mỗi nước là Thổ Nhĩ Kỳ, Ai Cập và Maroc.

Sử dụng[sửa | sửa mã nguồn]

Cam và quýt khác nhau như thế nào năm 2024

Vỏ quýt khô dùng làm gia vị

Cam và quýt khác nhau như thế nào năm 2024

Vỏ quýt phủ socola

Cam và quýt khác nhau như thế nào năm 2024

Các múi quýt đã bóc vỏ và đóng hộp

Tươi[sửa | sửa mã nguồn]

Quýt thường được bóc vỏ và ăn tươi hoặc dùng trong món xa lát, món tráng miệng và món chính. Nước ép quýt tươi và nước ép cô đặc đông lạnh thường có sẵn ở Hoa Kỳ. Số lượng hạt trong mỗi múi (lá noãn) biến đổi đa dạng.

Vỏ[sửa | sửa mã nguồn]

Vỏ được dùng tươi, nguyên quả hoặc chế biến, hoặc sấy khô dưới dạng trần bì. Có thể dùng như một loại gia vị để nấu ăn, làm bánh, đồ uống hoặc kẹo. Tinh dầu từ vỏ tươi có thể được sử dụng làm hương liệu cho kẹo, trong gelatin, kem lạnh, kẹo cao su và đồ nướng. Cũng dùng như một hương liệu nấu rượu mùi. Trong ẩm thực Trung Quốc, vỏ quýt, được gọi là trần bì, được dùng để tạo hương vị cho các món ăn ngọt và nước sốt.

Đóng hộp[sửa | sửa mã nguồn]

Quýt tách múi đóng hộp được bóc vỏ để loại bỏ xơ trắng trước khi đóng hộp; nếu không, khi ăn có vị đắng. Các múi được bóc vỏ bằng quy trình hóa học. Đầu tiên, các múi được ngâm trong nước nóng để làm mềm vỏ; sau đó ngâm trong dung dịch kiềm, dung dịch này sẽ tiêu hóa vỏ quả giữa và màng. Cuối cùng, các múi quýt được rửa sạch nhiều lần trong nước thường. Sau khi sơ chế đúng cách, quýt sẽ trải qua quá trình xử lý nhiệt để loại bỏ vi khuẩn có thể gây hư hỏng. Quýt sau đó được đóng gói trong hộp kín kín khí. Axit ascoricic cũng có thể được thêm vào.

Y học cổ truyền[sửa | sửa mã nguồn]

Trong y học cổ truyền Trung Quốc, vỏ khô của quả được dùng để điều hòa khí và tăng cường tiêu hóa.

Dinh dưỡng[sửa | sửa mã nguồn]

Quýt tươi

Cam và quýt khác nhau như thế nào năm 2024
Giá trị dinh dưỡng cho mỗi 100 g (3,5 oz)Năng lượng223 kJ (53 kcal)

Cacbohydrat

13.34 g

Đường10.58 gChất xơ1.8 g

Chất béo

0.31 g

Chất đạm

0.81 g

VitaminVitamin A equiv.

beta-carotene

(4%)

34 μg

(1%)

155 μg

Thiamine (B1)

(5%)

0.058 mgRiboflavin (B2)

(3%)

0.036 mgNiacin (B3)

(3%)

0.376 mgPantothenic acid (B5)

(4%)

0.216 mgVitamin B6

(6%)

0.078 mgFolate (B9)

(4%)

16 μgCholine

(2%)

10.2 mgVitamin C

(32%)

26.7 mgVitamin E

(1%)

0.2 mgChất khoángCanxi

(4%)

37 mg

(1%)

0.15 mgMagiê

(3%)

12 mg

(2%)

0.039 mg

(3%)

20 mg

(4%)

166 mg

(0%)

2 mg

(1%)

0.07 mgThành phần khácNước85.2 g


Liên kết đến mục Cơ sở dữ liệu USDA

  • Đơn vị quy đổi
  • μg = microgam • mg = miligam
  • IU = Đơn vị quốc tế (International unit)

Tỷ lệ phần trăm xấp xỉ gần đúng sử dụng lượng hấp thụ thực phẩm tham chiếu (Khuyến cáo của Hoa Kỳ) cho người trưởng thành. Nguồn: CSDL Dinh dưỡng của USDA

Một quả quýt chứa 85% nước, 13% carbohydrate và một lượng chất béo và protein không đáng kể (bảng). Trong số các vi chất dinh dưỡng, chỉ có vitamin C là có hàm lượng đáng kể (32% Giá trị hàng ngày) trong khẩu phần tham chiếu 100 gam, còn tất cả các chất dinh dưỡng khác đều có hàm lượng thấp.

Ý nghĩa văn hóa[sửa | sửa mã nguồn]

Quả quýt non

Ở Canada và Hoa Kỳ, chúng thường được mua trong hộp 5 hoặc 10 pound, được gói riêng trong giấy mềm màu xanh lục và được gói vào những chiếc tất Giáng sinh. Phong tục này có từ những năm 1880 khi những người Nhật nhập cư ở Canada và Hoa Kỳ bắt đầu nhận những quả quýt Nhật từ gia đình họ ở quê nhà để làm quà tặng cho Năm mới. Truyền thống lan truyền trong cộng đồng ngoài người gốc Nhật và về phía đông trên khắp đất nước: vào mỗi vụ thu hoạch tháng 11, "Những quả cam nhanh chóng được bốc dỡ và vận chuyển về miền đông bằng đường sắt. 'Orange Trains' - đoàn tàu với toa xe sơn màu cam - cảnh báo mọi người trên đường đi rằng những trái cam hấp dẫn từ Nhật Bản đã quay trở lại vào dịp lễ. Đối với nhiều người, sự xuất hiện của quýt Nhật báo hiệu mùa lễ hội bắt đầu." Truyền thống Nhật Bản này kết hợp với truyền thống châu Âu liên quan đến hành động thả tất Giáng sinh. Thánh Nicholas được cho là đã bỏ những đồng tiền vàng vào tất của ba cô gái nghèo để họ có đủ tiền đi lấy chồng. Đôi khi câu chuyện được kể với quả bóng vàng thay cho túi vàng và quả cam trở thành biểu tượng thay thế cho những quả bóng vàng này và được đặt trong tất vớ Giáng sinh ở Canada cùng với những đồng xu sô cô la bọc trong giấy vàng.

Satsuma cũng được trồng ở Hoa Kỳ từ đầu những năm 1900. Tuy nhiên, Nhật Bản vẫn là nhà cung cấp chính. Hoạt động nhập khẩu cam satsuma của Hoa Kỳ đã bị đình chỉ do chiến sự với Nhật Bản trong Thế chiến II. Mặc dù chúng là một trong những hàng hóa đầu tiên của Nhật Bản được phép xuất khẩu sau khi chiến tranh kết thúc, nhưng sự thù địch còn sót lại đã dẫn đến việc đổi tên số cam này thành cam "mandarin" thay vì cam "Nhật Bản".

Lô quýt đầu tiên được giao từ Nhật Bản tại cảng Vancouver, British Columbia (Canada) được chào đón bằng một lễ hội kết hợp giữa ông già Noel và các vũ công Nhật Bản —những cô gái trẻ mặc trang phục truyền thống kimono.

Trong lịch sử, trái cây Giáng sinh được bán ở Bắc Mỹ chủ yếu là Dancy, nhưng bây giờ chúng thường là quả lai.

Văn học[sửa | sửa mã nguồn]

Trong văn học Canada, đặc biệt là trong cuốn tiểu thuyết của Gabrielle Roy về Montreal, The Tin Flute, một quả quýt được xem là một thứ xa xỉ đối với đứa con trai sắp chết của gia đình Lacasse nghèo, mà cuốn tiểu thuyết thêu dệt nên xung quanh đó. Quýt được nhắc đến trong cuốn tiểu thuyết năm 1942 của Sinclair Ross, As for Me and My House, và truyện ngắn năm 1939 của ông, Cornet at Night.

Di truyền và nguồn gốc[sửa | sửa mã nguồn]

Quýt là một trong những đơn vị phân loại tổ tiên thuần chủng riêng của thực vật cho quả có múi. Loài đã phát triển ở các vùng bao gồm Nam Trung Quốc, Nhật Bản ở Đông Á và Việt Nam ở Đông Nam Á. Quýt dường như đã được thuần hóa ít nhất hai lần, ở phía bắc và phía nam dãy núi Ngũ Lĩnh, có nguồn gốc từ các phân loài hoang dã riêng biệt. Quýt hoang dã vẫn sinh sống ở đây, bao gồm cả quýt Đạo Huyện (đôi khi được đặt tên loài là Citrus daoxianensis) cũng như một số thành viên nhóm theo truyền thống được gọi là 'quýt hoang Mãng Sơn', một nhóm chung cho loại quả giống quýt dại của khu vực Mãng Sơn bao gồm cả quýt thực sự (quýt dại Mãng Sơn, phân loài phía nam) và cam rừng Mãng Sơn khác biệt về mặt di truyền và chỉ có quan hệ họ hàng xa. Quýt hoang dã được tìm thấy không có DNA của bưởi (C. maxima) pha trộn gen như trong quýt nội địa. Tuy nhiên, chúng dường như có một lượng nhỏ (~1,8%) pha trộn gen từ loài cam Nghi Xương, loài mọc hoang trong cùng khu vực.

Dãy núi Ngũ Lĩnh cũng là quê hương của các cụm di truyền phía bắc và phía nam của quýt nội địa có hàm lượng đường trong quả tương tự so với họ hàng hoang dã của chúng nhưng hàm lượng axit xitric thấp hơn đáng kể (ở một số nơi gần 90 lần). Các cụm thể hiện mô hình pha trộn gen bưởi khác nhau, có lịch sử quần thể được suy luận khác nhau và có quan hệ họ hàng gần nhất với loài quýt dại khác biệt, cho thấy hai quá trình thuần hóa độc lập ở phía bắc và phía nam. Tất cả các giống thuần hóa được thử nghiệm đều thuộc về một trong hai cụm di truyền này, với các giống cây như quýt mật Nam Phong, Kishu và Satsuma có nguồn gốc từ sự kiện thuần hóa phía bắc cho quả to hơn, đỏ hơn, trong khi Quýt lá liễu, Dancy, Sunki, Cleopatra, Cam sành, Ponkan và những loại khác có nguồn gốc từ cụm phía nam nhỏ hơn, có quả màu vàng hơn.

Hệ thống phân loại Tanaka chia quýt nội địa và các loại trái cây tương tự thành nhiều loài, đặt tên riêng cho các giống như quýt lá liễu (C. deliciosa), satsuma (C. unshiu), quýt lai (C. tangerina). Theo hệ thống Swingle, tất cả được coi là biến thể của một loài duy nhất, Citrus reticulata . Hodgson đăt đại diện cho chúng như một số nhóm nhỏ: quýt thường (C. reticulata), satsuma, cam sành (C. nobilis), cam Địa Trung Hải (lá liễu), quả nhỏ (C. indica, C. tachibana và C. reshni) và quýt lai. Trong phân loại loài dựa trên hệ gen của Ollitrault và cộng sự, chỉ quýt thuần chủng mới thuộc C. reticulata, trong khi loài pha gen bưởi tìm được trong phần lớn quả quýt sẽ khiến chúng được xếp vào biến thể của C. aurantium.

Phân tích di truyền phù hợp với quýt lục địa đại diện cho một loài duy nhất, với phần lớn sự biến đổi trong quýt là do lai tạo. Một loài riêng biệt, Citrus ryukyuensis tách ra từ các loài trên đất liền từ 2 đến 3 triệu năm trước khi bị cắt đứt do mực nước biển dâng cao tìm được đang phát triển trên đảo Okinawa, sự lai tạo tự nhiên và nông nghiệp của loài với các loài quýt trên đất liền đã tạo ra một số các giống quýt đảo độc đáo của Nhật Bản và Đài Loan, chẳng hạn như quýt Tachibana, trước đây được phân loại là một phân loài của quýt thuần chủng, trước khi cây bố mẹ được xác định, và Shekwisha. Một số ít giống trồng được phát hiện là thuần chủng trong phân tích gen nguyên thủy, bao gồm quýt Tôn Chu Sa và quýt mật Nam Phong, nhưng Wang đã phát hiện ra chúng không chỉ có sự pha trộn gen rõ rệt của cam Nghi Xương có trong tất cả các cuộc kiểm nghiệm quýt mà còn là DNA bưởi riêng biệt có trong quýt thuần hóa. Sau quá trình lai tạo ban đầu, các phép lai tự nhiên hoặc qua trồng trọt của các giống lai quýt-bưởi ban đầu với gốc quýt đã tạo ra loài quýt thường cùng đóng góp gen hạn chế từ loài bưởi, khác nhau giữa các giống thuần hóa phía bắc và phía nam. Một nhóm giống cây trồng 'có tính axit' bao gồm quýt Sunki và Cleopatra trước đây cũng được cho là thuần chủng nhưng do được phát hiện có chứa vùng nhỏ DNA của bưởi pha trộn gen nên quá chua khi ăn, nhưng được sử dụng rộng rãi làm gốc ghép và được trồng để lấy nước ép. Một nhóm quýt khác, bao gồm một số giống quýt lai, satsuma và cam sành, cho thấy sự đóng góp gen lớn hơn của bưởi và xuất phát từ các giống bưởi hạn chế được lai lần nữa với cam ngọt hoặc bưởi thường. Tương tự như thế trong một số trường hợp, tạo ra các giống có năng suất từ trung bình đến cao theo mức độ lai ghép của bưởi. Do đó, quýt lai liên tục tăng tỷ lệ đóng góp gen của bưởi cùng với quýt clementine, cam chua ngọt và bưởi chùm. Quýt và giống lai của chúng được bán dưới nhiều tên khác nhau.

Giống cây biến thể[sửa | sửa mã nguồn]

Cam và quýt khác nhau như thế nào năm 2024
Quả chưa chín

Quýt tự nhiên (Citrus reticulata)[sửa | sửa mã nguồn]

  • Quýt rừng Mãng Sơn (chỉ một số, số khác là cam rừng Mãng Sơn khác biệt về mặt di truyền)
  • Quýt Đạo Huyện
  • Suanpangan

Quýt thuần hóa và giống lai[sửa | sửa mã nguồn]

(Danh pháp loài đặt theo hệ thống Tanaka. Phân tích bộ gen gần đây sẽ xếp tất cả chúng vào Citrus reticulata, ngoại trừ các giống lai C. ryukyuensis )