Chủ quyền vùng biển của nước ta đối với vùng nội thủy và lãnh hải được xác định như thế nào

QPTD -Thứ Hai, 25/02/2013, 22:59 (GMT+7)

Vùng nội thủy theo Luật Biển Việt Nam

Theo Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, một quốc gia ven biển có thể có các vùng biển, như: nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa với nội hàm và chế độ pháp lý khác nhau; trong đó, nội thủy được coi như là bộ phận lãnh thổ đất liền của quốc gia đó.

Chủ quyền vùng biển của nước ta đối với vùng nội thủy và lãnh hải được xác định như thế nào
Các vùng biển của Việt Nam

Luật Biển Việt Nam được Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam thông qua ngày 21-6-2012 (có hiệu lực thi hành từ ngày 01-01-2013), tại Chương II, Điều 9 quy định: “Nội thủy là vùng nước tiếp giáp với bờ biển, ở phía trong đường cơ sở và là bộ phận lãnh thổ của Việt Nam”. Theo đó, nội thủy của Việt Nam bao gồm: biển nội địa, các cửa sông, vũng, vịnh, cảng biển và các vùng nước ở khoảng giữa bờ biển và đường cơ sở; trong đó, vùng nước lịch sử cũng thuộc chế độ nội thủy.

Về chế độ pháp lý, Điều 10 của Luật Biển Việt Nam quy định: “Nhà nước thực hiện chủ quyền hoàn toàn, tuyệt đối và đầy đủ đối với nội thủy như trên lãnh thổ đất liền”. Điều đó có nghĩa, Nhà nước ta có quyền tối cao đối với cả vùng nước, vùng trời, đáy biển và trong lòng đất. Mọi vấn đề có liên quan đến nội thủy về mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… đều do Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam quyết định; mọi tổ chức, cá nhân, phương tiện nước ngoài hoạt động trong nội thủy của Việt Nam đều phải tuân thủ pháp luật Việt Nam; các quốc gia, các tổ chức quốc tế không có quyền can thiệp.

Tuyên bố ngày 12-5-1977 của Chính phủ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam nêu rõ: “Vùng biển phía trong đường cơ sở và tiếp giáp với bờ biển là nội thủy của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam”. Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, tại Điều 8 quy định: “Các vùng nước phía trong đường cơ sở của lãnh hải thuộc nội thủy của quốc gia”. Như vậy, việc quy định nội thủy trong Luật Biển Việt Nam là sự kế thừa các tuyên bố về đường cơ sở, lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam; nó hoàn toàn thống nhất, phù hợp với Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng của Luật Biển Việt Nam để Nhà nước ta thực hiện chủ quyền hoàn toàn, tuyệt đối và đầy đủ ở vùng nội thủy của Việt Nam.

TẠ QUANG

Chủ quyền vùng biển của nước ta đối với vùng nội thủy và lãnh hải được xác định như thế nào
Đảo Trường Sa nhìn từ trên cao

Chủ quyền của quốc gia ven biển là quyền tối cao của quốc gia được thực hiện trong phạm vi vùng biển của quốc gia đó. Các quốc gia ven biển có chủ quyền đối với vùng nước nội thuỷ và lãnh hải của mình cũng như đối với vùng trời bên trên, vùng đáy biển và lòng đất dưới đáy biển bên dưới các vùng nước đó.

1. Nội thuỷ (Internal Waters)

Điều 8 khoản 1Công ước Luật Biển 1982 quy định:“các vùng nước ở phía bên trong đường cơ sở của lãnh hải thuộc nội thuỷ quốc gia”. Như vậy, nội thuỷ được hiểu là tất cả các vùng nước được giới hạn giữa một bên là đường bờ biển của lãnh thổ đất liền hay lãnh thổ đảo của một quốc gia với một bên là đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải cũng như các vùng biển khác thuộc thẩm quyền tài phán của quốc gia đó. Ví dụ như các vùng nước cảng biển, vũng tàu, cửa sông, vịnh...

Trong vùng nước nội thuỷ, các quốc gia ven biển có chủ quyền hoàn toàn, tuyệt đối và đầy đủ như trên lãnh thổ đất liền của mình.Tàu thuyền nước ngoài muốn ra vào vùng nước nội thuỷ phải xin phép quốc gia ven biển và phải tuân theo luật lệ của quốc gia đó. Quốc gia ven biển có quyền không cho phép tàu thuyền đó được hoạt động trong vùng nước nội thuỷ của quốc gia mình. Tuy nhiên, vẫn có đôi chút khác biệt giữa chủ quyền trong vùng nước nội thuỷ và chủ quyền trên lãnh thổ đất liền ở một số trường hợp cụ thể:

- Vùng nước nội thủy tại các cảng biển quốc tế theo chế độ tự do thông thương cho tàu thuyền thương mại (Công ước Geneva 09-12-1923). Tàu chạy bằng năng lượng nguyên tử chỉ được vào cảng quốc tế khi có thỏa thuận giữa quốc gia ven biển và quốc gia tàu mang cờ.

- Khi quốc gia ven biển áp dụng đường cơ sở thẳng làm cho những vùng nước trước đây chưa phải là nội thủy trở thành nội thủy, thì chế độ đi qua không gây hại vẫn áp dụng với vùng nước nội thủy đó.

- Tàu thuyền nước ngoài được đặt dưới thẩm quyền tuyệt đối của quốc gia ven biển về trật tự, an ninh, cảnh sát, y tế, hàng hải. Quốc gia ven biển có quyền khám xét trên boong.

- Tàu nhà nước dùng vào mục đích không thương mại và tàu quân sự nước ngoài được hưởng quyền miễn trừ. Thẩm quyền tài phán hình sự của quốc gia cảng đối với các tàu này chỉ được thực hiện khi:

+ Tội phạm xảy ra trên boong tàu, người thực hiện hành vi là người ngoài thủy thủ đoàn và nạn nhân là người thuộc thủy thủ đoàn. Trường hợp này, quốc gia cảng có thẩm quyền nhưng quốc gia tàu mang cờ cũng có thẩm quyền;

+ Tội phạm xảy ra trên boong tàu, người thực hiện hành vi và nạn nhân đều không thuộc thủy thủ đoàn, thì quốc gia cảng có thẩm quyền tuyệt đối;

+ Nếu thành viên thủy thủ đoàn phạm tội ngoài tàu thì quốc gia cảng có thể bắt giữ nhưng phải trao trả ngay cho thuyền trưởng nếu ông ta yêu cầu.

Điều 8, khoản 2 của Công ước 1982, còn trù định một chế độ quyền qua lại không gây hại của tàu thuyền nước ngoài trong các vùng nước trước kia chưa được coi là nội thuỷ nhưng do việc vạch đường cơ sở thẳng phù hợp với Điều 7 của Công ước 1982 đã bị gộp vào nội thuỷ. Như vậy, Công ước 1982 lần đầu tiên đã phân biệt thêm một vùng nước nội thuỷ trong đó tồn tại quyền qua lại không gây hại của tàu thuyền nước ngoài. Một quốc gia có thể có nhiều vùng nước nội thuỷ với các chế độ pháp lý khác nhau: nội thuỷ, nội thuỷ trong đó quyền qua lại vô hại của tàu thuyền được tôn trọng và vùng nước lịch sử được đặt dưới chế độ nội thuỷ.

2. Lãnh hải (Territorial Sea)

Lãnh hải là vùng biển nằm phía ngoài vùng nước nội thuỷ và có chế độ pháp lý tương tự như lãnh thổ đất liền. Chiều rộng lãnh hải của mỗi quốc gia ven biển tối đa là 12 hải lý (1 hải lý = 1,852 km) tính từ đường cơ sở. Điều 3 của Công ước Luật biển 1982 nêu rõ: “Mọi quốc gia có quyền ấn định chiều rộng lãnh hải của mình; chiều rộng này không vượt quá 12 hải lý kể từ đường cơ sở được vạch ra theo đúng Công ước”. Đường ranh giới phía trong của lãnh hải chính là đường cơ sở, và đường ranh giới phía ngoài là đường thẳng song song với đường cơ sở và cách đường cơ sở một khoảng cách chính bằng chiều rộng của lãnh hải. Đường ranh giới phía ngoài của lãnh hải được coi là biên giới quốc gia trên biển.

Lãnh hải được coi như một bộ phận hữu cơ của lãnh thổ quốc gia, trên đó quốc gia ven biển cũng có chủ quyền hoàn toàn, đầy đủ song không tuyệt đối như trong vùng nước nội thuỷ. Quốc gia ven biển thực hiện thẩm quyền riêng biệt về phòng thủ quốc gia; an toàn hàng hải, điều phối giao thông đường biển; bảo vệ các thiết bị, công trình, hệ thống đảm bảo hàng hải; bảo vệ tuyến dây cáp và ống dẫn ở biển; bảo tồn tài nguyên sinh vật biển; ngăn ngừa vi phạm pháp luật của quốc gia ven biển liên quan đến đánh bắt hải sản; bảo vệ môi trường biển; nghiên cứu khoa học biển; và ngăn ngừa các vi phạm về hải quan, thuế khóa, nhập cư, y tế và quy định hành lang để tàu thuyền đi qua. Tuy nhiên, trong lãnh hải, các tàu thuyền nước ngoài có quyền đi qua không gây hại.

Theo

Một số quy định pháp lý về biển 

1.Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật biển năm 1982 (Công ước Luật biển 1982)
Công ước Luật biển 1982 quy định quốc gia ven biển có năm vùng biển với phạm vi, chế độ pháp lý khác nhau

 1.1.Vùng nước nội thủy Vùng nước nội thủy là vùng nước nằm phía bên trong của đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải, tại đó quốc gia ven biển thực hiện chủ quyền hoàn toàn, tuyệt đối và đầy đủ như trên lãnh thổ đất liền. Chủ quyền ở đây được hiểu là quyền đặc thù của một quốc gia độc lập, quyền tối cao của quốc gia thực hiện trong phạm vi vùng biển thuộc quốc gia đó. 1.2.Lãnh hải Theo Công ước Luật biển năm 1982, lãnh hải là vùng biển có chiều rộng không quá 12 hải lý ở bên ngoài đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải. Ranh giới ngoài của lãnh hải là biên giới quốc gia trên biển. Quốc gia ven biển thực hiện chủ quyền hoàn toàn và đầy đủ đối với lãnh hải.

Tuy nhiên, chủ quyền dành cho quốc gia ven biển trên lãnh hải không phải là tuyệt đối như trên các vùng nước nội thủy, bởi vì tàu thuyền các nước khác được đi qua không gây hại trong lãnh hải nhưng các quốc gia ven biển có quyền ấn định các tuyến đường, quy định việc phân chia các luồng giao thông dành cho tàu nước ngoài đi qua lãnh hải nhằm đảm bảo chủ quyền, an ninh quốc gia và lợi ích của mình.

Chủ quyền vùng biển của nước ta đối với vùng nội thủy và lãnh hải được xác định như thế nào

1.3.Vùng tiếp giáp lãnh hải Vùng tiếp giáp lãnh hải là vùng biển nằm ngoài lãnh hải và tiếp liền với lãnh hải. Phạm vi của vùng tiếp giáp không vượt quá 24 hải lý tính từ đường cơ sở. Công ước Luật biển năm 1982 quy định quốc gia ven biển có quyền tiến hành các hoạt động kiểm soát cần thiết tại vùng tiếp giáp nhằm: -Ngăn ngừa những vi phạm đối với các luật và quy định về hải quan, thuế khóa, y tế hay nhập cư trên lãnh thổ hay trong lãnh hải của mình; -Trừng trị những vi phạm đối với các luật và quy định nói trên xảy ra trên lãnh thổ hoặc trong lãnh hải của mình. 1.4.Vùng đặc quyền kinh tế là vùng biển nằm ở phía ngoài lãnh hải và tiếp liền với lãnh hải, có chiều rộng không vượt quá 200 hải lý tính từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải. Vùng đặc quyền kinh tế là chế định pháp lý mới, lần đầu tiên được ghi nhận trong Công ước Luật biển 1982. Trong vùng đặc quyền kinh tế, quốc gia ven biển có: a.Các quyền thuộc chủ quyền về việc thăm dò và khai thác, bảo tồn và quản lý các tài nguyên thiên nhiên, sinh vật hoặc không sinh vật, của vùng nước bên trên đáy biển, của đáy biển và lòng đất dưới đáy biển, cũng như về những hoạt động khác thăm dò và khai thác vùng này vì mục đích kinh tế, như việc sản xuất năng lượng từ nước, hải lưu và gió. b.Quyền tài phán về việc: -Lắp đặt và sử dụng các đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình; -Bảo vệ và gìn giữ môi trường biển. c.Các quyền và nghĩa vụ khác do Công ước quy định Tuy vậy, trong vùng đặc quyền kinh tế, tất cả các quốc gia, dù có biển hay không có biển, đều được hưởng các quyền tự do hàng hải và hàng không, quyền tự do đặt cáp và ống dẫn ngầm cũng như quyền tự do sử dụng biển vào các mục đích hợp pháp khác và gắn liền với việc thực hiện các quyền tự do nói trên và phù hợp với các quy định của Công ước. Quốc gia ven biển có nghĩa vụ thi hành các biện pháp thích hợp để bảo tồn, quản lý và duy trì các nguồn lợi sinh vật trong vùng đặc quyền kinh tế để tránh không bị ảnh hưởng do khai thác quá mức. 1.5.Thềm lục địa

Thềm lục địa là vùng đáy biển và lòng đất dưới đáy biển nằm bên ngoài lãnh hải của quốc gia ven biển, trên phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền của quốc gia này cho đến bờ ngoài của rìa lục địa, hoặc đến cách đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải 200 hải lý, khi bờ ngoài của rìa lục địa của quốc gia này ở khoảng cách gần hơn 200 hải lý. Trong trường hợp bờ ngoài của rìa lục địa của quốc gia ven biển kéo dài tự nhiên vượt quá 200 hải lý tính từ đường cơ sở, quốc gia ven biển có thể mở rộng ranh giới ngoài của thềm lục địa của mình tới một khoảng cách không vượt quá 350 hải lý tính từ đường cơ sở hoặc cách đường đẳng sâu 2.500m một khoảng cách không vượt quá 100 hải lý.

Thanh Nhàn “Trích nguồn từ Tài liệu định hướng công tác tuyên truyền về biển đảo”.