Con người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa nghĩa là gì

BÀI 10

CON NGƯỜI LÀ HÌNH ẢNH CỦA THIÊN CHÚA

Lời Kinh Thánh

“Thiên Chúa phán : ’Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta, để con người làm bá chủ cá biển, chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất’. Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ.” (St 1, 26-17).

Quyền năng của Thiên Chúa được vận dụng trong việc tạo dựng trời và đất đạt tới đỉnh cao với việc xuất hiện con người theo hình ảnh Thiên Chúa để chúng ngự trị trên thế giới.

Con người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa nghĩa là gì

1. Phẩm giá của con người

a.Địa vị con người trong vũ trụ

Kinh Thánh đã xếp con người vượt trên các vật khác.

– Trong lịch trình sáng tạo, Thiên Chúa đã dựng nên con người ở giai đoạn cuối cùng. Người dọn sẵn cho họ một môi trường thích hợp, với mọi thứ đã được chuẩn bị sẵn – sông biển, cầm thú, thảo mộc… “Trời và đất đã được tạo dựng để phục vụ con người”. (Tl 1,19)

– Việc tạo dựng con người rất quan trọng, Thiên Chúa có vẻ đắn đo, suy nghĩ trước khi thực hiện:”Chúng ta hãy dựng nên con người” (St 1,26a).

– Thiên Chúa ghi nhận con người trổi vượt hơn các sinh vật khác và đặt làm chủ mọi loài Người đã dựng nên: “Hãy quản trị cá biển, chim trời, súc vật, mọi loài mãnh thú và mọi thứ côn trùng nhung nhúc trên mặt đất” (St 1, 26b). Nhưng quan trọng hơn cả:”Thiên Chúa đã dựng nên con người theo hình ảnh mình. Theo hình ảnh Thiên Chúa. Người đã dựng nên chúng là nam và nữ. Người đã dựng nên chúng” (St 1, 27)

b.Những điểm nào cho thấy con người là hình ảnh Thiên Chúa.

– Thiên Chúa là chúa tể trời đất, Người trao cho con người làm chủ mọi loài Người đã tạo dựng.

– Thiên Chúa là Đấng Thượng trí khôn ngoan, Người ban cho con người một trí tuệ cao đẳng.

– Con người có tự do giống như Thiên Chúa, họ có thể thực hiện ý muốn của mình và chịu trách nhiệm công việc mình làm.

– Thiên Chúa sáng tạo vũ trụ. Người trao quyền canh tác phát triển cho con người để họ dự phần sáng tạo với Thiên Chúa.

– Thiên Chúa là Đấng thánh thiện, con người được mời gọi để trở nên thánh thiện:”Anh em hãy sống thánh thiện trong cách ăn nết ở, để nên giống Đấng chí thánh đã kêu gọi anh em. Vì có lời Kinh Thánh chép:”Hãy sống thánh thiện vì ta là Đấng Thánh” (1Pr 1,15-16).

– Thiên Chúa là tình thương. Con người được tạo dựng để sống thành xã hội yêu thương nhau:”Anh em hãy yêu thương nhau như Thiên Chúa đã yêu thương anh em”. (Ga 13,34)

Tất cả những hình ảnh đó xuất phát từ một điểm căn bản chung: Con người được Thiên Chúa ban cho một linh hồn bất tử (St 2,7). Thiên Chúa là đấng vô hình và vĩnh cửu, con người là hình ảnh của Ngài nhờ linh hồn thiêng liêng bất tử này.

2. Nhờ linh hồn, con người được tham dự vào sự sống bất tử của Thiên Chúa

Cuộc sống trần gian không thể thỏa mãn ước vọng tuyệt đối của con người: Họ “muốn sống mãi mãi” và luôn khao khát một công lý tuyệt đối để phân xử. Mọi người không muốn công sức, kiến thức, tài năng của mình …trở về vật chất im lặng. Ai sẽ giúp con người đạt được ước mơ của mình ?

Chỉ có sự sống bất diệt của linh hồn mới làm cho công lý được thi hành trọn vẹn, bảo đảm cho giá trị cuộc sống bền vững. Hơn nữa, Thiên Chúa không bao giờ để cho kẻ Ngài yêu thương chìm đắm trong cõi hư vô (Mt 22,31-32). Ngài là Đấng hằng sống nên con người cũng được ban cho có một linh hồn bất tử để sống mãi với Ngài.

3. Linh hồn và cuộc sống của bạn

Chính bạn, bạn cũng có một linh hồn bất tử và bạn cần nghĩ đến cuộc trường sinh của chính mình. Người ta có thể hy sinh rất nhiều cho những cái phụ thuộc trong cuộc sống, nhưng lại ái ngại khi phải lo cho hạnh phúc tuyệt đối của mình. Có người nói:”Thôi để gần chết hãy lo! Nhưng khi nào ta chết ? Và cuộc sống ta kết thúc thế nào ?- “Hãy sẵn sàng, vì chính vào giờ các ngươi không ngờ, Con Người sẽ đến” (Lc 12,40). Thiên Chúa mời gọi bạn chuẩn bị cho cuộc sống đời đời.

Kết luận

Lạy Đức Chúa là Chúa chúng con, lẫy lừng thay danh Chúa trên khắp cả địa cầu! Uy phong Ngài vượt quá trời cao. Ngài cho miệng con thơ trẻ nhỏ cất tiếng ngợi khen đối lại địch thù, khiến kẻ thù quân nghịch phải tiêu tan. Ngắm tầng trời tay chúa sáng tạo, muôn trăng sao Chúa đã an bài, thì con người là chi, mà Chúa cần nhớ đến,

phàm nhân là gì, mà Chúa phải bận tâm ?

Trước hết, chúng ta cần phải ghi nhận một điều rất quan trọng này là, khác với các tôn giáo khác, dân Do thái đã nhận được giới truyền là không được tạc tượng vẽ hình của Thiên Chúa. Điều này vẫn còn được dân Do thái duy trì cho tới ngày hôm nay. Khi đi viếng một hội đường Do thái, chúng ta không thấy bức tranh hay pho tượng nào của Thiên Chúa hết. Điều này muốn nêu bật chân lý là Thiên Chúa không có hình tượng. Ngài thuộc về thế giới linh thiêng, không có thân thể, không có phái tính nam nữ.

Thế nhưng xem ra đây là một điều mâu thuẫn. Một đàng Kinh thánh khẳng định là Thiên Chúa không có hình dạng nào hết; đàng khác, Kinh thánh nói rằng Thiên Chúa đã dựng nên con người theo hình ảnh của Ngài. Nếu Ngài không có hình ảnh, thì sao lại dựng con người theo hình ảnh được? Đó là thắc mắc mà các nhà thần học đã cố gắng tìm cách giải thích. Dĩ nhiên, trước hết chúng ta hãy khảo sát các đoạn văn Kinh thánh đã, rồi sau đó chúng ta sẽ xem các lời giải thích. Chắc chị còn nhớ Kinh thánh nói về tới việc Thiên Chúa dựng nên con người theo hình ảnh của Ngài ở đoạn nào chứ?

Con người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa nghĩa là gì
Con người là hình ảnh của Thiên Chúa

Ở ngay chương đầu của sách Sáng thế, khi nói về cuộc tạo dựng, câu 27: “Thiên Chúa đã tạo dựng con người theo hình ảnh của mình. Ngài đã tạo dựng con người nam nữ”. Đúng như vậy không?

Đúng thế. Nên biết là đoạn văn vừa nói đã gây ra khá nhiều vấn nạn. Ngoài cái vấn nạn về việc làm sao con người lại được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa trong khi mà Thiên Chúa không có hình ảnh đã nêu trên, chúng ta còn gặp hai vấn nạn khác nữa. Vấn nạn thứ nhất là: con người ở đây là con người nam nữ. Phải chăng cả nam cả nữ họp nhau lại mới làm nên hình ảnh của Thiên Chúa được? Vấn nạn thứ hai là bản văn Kinh thánh sử dụng hai từ ngữ: Thiên Chúa dựng nên con nguời theo hình ảnh (imago) và giống hệt như mình (similitudo).

Như thế thì “hình ảnh” và “giống hệt” là hai tư tưỏng khác nhau, hay đồng nghĩa. Trước khi trình bày những ý kiến giải thích, chúng ta cần thêm những đoạn văn khác của Kinh thánh nhắc tới tư tưởng con người là hình ảnh của Thiên Chúa, đó là: Sách Sáng thế 5,1; 9,6; Sách Khôn ngoan 2,23; Sách Huấn ca 17,1.

Toàn là những đoạn văn của Cựu ước thôi. Thế còn Tân ước thì có nhắc đến tư tưởng này nữa không?

Trong Tân ước, thánh Phaolô là người nói nhiều đến tư tưởng này hơn hết. Một đàng thánh Phaolô thiết lập một tiêu chuẩn cao cấp hơn, khi gọi đức Kitô là hình ảnh của Thiên Chúa (2Cr 4,4; Cl 1,15; Dt 1,3). Từ đó, khi lặp lại tư tưởng của Cựu ước về việc con người được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa (Cl 3,10) ngài đã lái về chiều hướng là chúng ta cần phải trở nên giống hình ảnh của đức Kitô (Rm 8,29; 1Cr 15,49; 2Cr 3,18).

Nhưng thế nào là giống hình ảnh của Thiên Chúa, hoặc giống hình ảnh của đức Kitô?

Trong lịch sử thần học, đã có rất nhiều lối giải thích khác nhau. Lối thứ nhất là phân tích từ ngữ. Như đã nói trên đây, đoạn văn căn bản là Sách Sáng thế chương 1 câu 27. Trước đó, ở câu 26, chúng ta đọc thấy ý định của Thiên Chúa muốn làm nên con người theo “hình ảnh và giống hệt như Ngài”. Các nhà chú giải Kinh thánh đã tranh luận xem hai từ ngữ đó (hình ảnh / giống hệt) đồng nghĩa hay là khác nghĩa.

Hầu hết các học giả đều cho là khác nghĩa. “Hình ảnh” (tiếng Do thái là selem) ám chỉ một sự tương đồng theo nghĩa vật chất, chẳng hạn khi đúc hình tạc tượng. Hình ảnh phải quy chiếu về cái khuôn mà nó được đúc ra, cái mẫu mà nó được tạc. Còn từ ngữ “giống hệt” (tiếng Do thái là demut) có tính cách trừu tượng, phần nào làm giảm bớt ý tưởng của “hình tượng”. Khi nói “giống như, tương tự” thì phải hiểu là không có y hệt trăm phần trăm. Cái hình tượng thì hoàn toàn y hệt như cái khung mà nó được đúc; còn tư tưởng “giống như”, thì chỉ cho thấy một vài nét tương đương, chứ không giống y như khuôn đúc.

Nói khác đi, theo các nhà chú giải Kinh thánh, tác giả sách Sáng thế muốn nói lên rằng con người được thông phần vào một vài ưu phẩm của Thiên Chúa, nhưng con người không thể nào mà bình đẳng ngang hàng với Thiên Chúa được. Tuy nhiên, đây là ý kiến của vài nhà chú giải dựa theo sự phân tích từ ngữ. Trải qua lịch sử thần học, các giáo phụ đưa ra những lối giải thích khác, dựa theo khía cạnh tu đức, siêu hình hay tâm lý. Nói chung, các vị cho rằng hai từ ngữ “hình ảnh” và “giống hệt” diễn tả hai thực tại khác biệt.

Khác biệt ở chỗ nào?

Dĩ nhiên là có khá nhiều ý kiến. Có người cho rằng “hình ảnh” ám chỉ điều kiện thể lý, còn “giống hệt” thì ám chỉ điều kiện luân lý. Ý kiến khác thì cho rằng “hình ảnh” nói tới tình trạng tự nhiên (sinh ra đã như vậy rồi), còn “giống hệt” ám chỉ một lý tưởng phải cố gắng vươn lên để đạt tới. Tiến thêm một bước nữa, người ta sẽ áp dụng vào trạng thái tự nhiên và trạng thái siêu nhiên. Con người trong trạng thái tự nhiên đã là hình ảnh của Thiên Chúa rồi; và trạng thái này không bao giờ mất, cho dù con người có phạm tội. Ngược lại, sự “giống như” thì ám chỉ tình trạng siêu nhiên, con người được hưởng trong tình trạng công chính nguyên thủy, nhưng sau đó đã bị mất đi, và cần được chuộc lại trong đức Kitô.

Không hiểu việc tranh luận về sự đồng nghĩa hay khác nghĩa giữa “hình ảnh” và “giống hệt” có ích lợi gì không. Nhưng chưa thấy cha trả lời câu hỏi: con người là hình ảnh Thiên Chúa theo nghĩa nào? Con người giống hệt Thiên Chúa theo nghĩa nào?

Việc tìm hiểu sự đồng nghĩa hay khác nghĩa không phải là thừa thãi đâu. Nhưng dể chị khỏi sốt ruột. Tôi xin trả lời thẳng cho câu hỏi của chị. Như đã nói từ đầu, Thiên Chúa không có thân xác hay phái tính. Cho nên chúng ta không thể so sánh con người với Thiên Chúa về phương diện thể xác, tựa như nét mặt, màu da, phái tính. Ngay từ thời các thánh giáo phụ, người ta đã hiểu tiếng hình ảnh theo nghĩa quan năng tinh thần, theo đó, con người được sánh ví với Thiên Chúa ở chỗ có lý trí và ý chí. Thoạt tiên, nói như vậy thì xem ra chẳng có gì mới lạ, bởi vì điều này đã được các triết gia nhận thấy rồi; đâu cần phải nại tới mặc khải làm chi.

Tuy nhiên, ta nên nhớ rằng Kinh thánh không có trình bày một suy tư siêu hình về con người, nhưng còn nhằm cái gì hơn nữa. Bản trình thuật về việc tạo dựng con người cần được lồng trong bối cảnh của toàn thể công cuộc tạo dựng và nhất là trong mối tương quan với Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng tạo dựng nên muôn loài, từ tinh tú cho tới khoáng vật, thảo mộc, thú vật, động vật, và loài người. Nhưng chỉ riêng có con người, Kinh thánh mới dùng từ ngữ là Thiên Chúa đã tạo dựng nên theo hình ảnh của mình. Như vậy là Kinh thánh muốn nêu bật sự khác biệt giữa loài người với các động vật và các thụ tạo khác. Sự khác biệt đó ở chỗ con người có lý trí và ý chí.

Chưa hết, Kinh thánh không dừng lại ở chỗ so sánh cơ cấu bản thể của con người với các tạo vật khác, nhưng còn tiến thêm hai bước nữa. Bước thứ nhất là khẳng định rằng tất cả các thụ tạo đã được trao cho con người cai quản, như chúng ta đọc thấy ở câu 29-30, tiếp liền theo việc tạo dựng con người. Như thế, không những là con người cao hơn các thụ tạo khác mà còn chỉ huy điều khiển chúng nữa. Từ suy luận này, các nhà thần học đã giải thích rằng con người được gọi là hình ảnh của Thiên Chúa bởi vì được Ngài trao cho trách nhiệm điều khiển vũ trụ, được thông phần vào vai trò sáng tạo của Ngài. Bước tiến thứ hai là con người có khả năng đối thoại với Thiên Chúa. Thực vậy, khi đọc Kinh thánh, chúng ta thấy rằng trong tất cả muôn loài thụ tạo, Thiên Chúa chỉ hiện ra và đàm đạo với con người. Riêng chỉ có con người mới có khả năng để nghe và đáp lại tiếng Chúa. Tác giả sách Sáng thế đã mô tả sự thân mật đó ở chương 3 câu 8, khi nói rằng Thiên Chúa hẹn con người mỗi ngày đi dạo trong vườn để đàm đạo.

Như vậy khi nói rằng Thiên Chúa tạo dựng con người theo hình ảnh của mình thì có nghĩa là Ngài ban cho con người lý trí và ý chí, Ngài trao cho con người được quản lý vũ trụ, Ngài mời con người đối thoại với mình. Nếu hiểu theo nghĩa thiêng liêng như vậy, thì “hình ảnh” hay là “giống hệt” đâu có quan trọng gì, phải không?

Đúng như vậy. Theo các nhà chú giải Kinh thánh, tác giả sách Sáng thế đã muốn chêm vào tiếng “giống hệt” (hay là: tương tự) là để cho độc giả đừng hiểu lầm, giải thích hoàn toàn theo nghĩa vật chất. Sự so sánh cần phải đi tìm theo nghĩa tinh thần. Tuy nhiên, chúng ta cũng nên để ý tới ý kiến của các giáo phụ, khi họ muốn nêu bật sự khác biệt giữa hai ý tưởng “hình ảnh” và “giống hệt”, áp dụng vào lịch sử cứu rỗi. Con người dù có phạm tội hay không phạm tội thì vẫn là hình ảnh của Thiên Chúa, xét như là loài thụ tạo có lý trí và ý chí, và được đặt làm chủ vũ trụ.

Tuy nhiên, xét như là bạn tri âm của Thiên Chúa, thì sau khi phạm tội, con người đã mất hồng ân đó. Kinh thánh nói rằng, sau khi phạm tội, con người chạy trốn, không dám giáp mặt với Thiên Chúa nữa! Vì thế các giáo phụ nói rằng sau khi phạm tội, con người vẫn còn giữ được hình ảnh của Thiên Chúa, nhưng không còn “giống hệt” với Thiên Chúa nữa. Chính trong tình trạng này, mà chúng ta cần phải quy chiếu về một hình ảnh toàn hảo của Thiên Chúa, đó là đức Kitô. Theo thánh Phaolô, Đức Kitô mới thực là hình ảnh trung thực nhất của Thiên Chúa.

Dĩ nhiên, trong lịch sử thần học cũng đã có nhiều lối giải thích từ ngữ “đức Kitô là hình ảnh của Thiên Chúa”. Một lối giải thích thông thường nhất, đó là: Thiên Chúa vốn là Đấng vô hình vô tượng; nhưng nhờ đức Kitô, chúng ta nhận thấy dung nhan hữu hình của Thiên Chúa. Khi chiêm ngắm dung nhan và cách cư xử của đức Kitô, chúng ta có thể nhận ra dung nhan của Thiên Chúa, người Cha nhân hậu. Tuy vậy, ngoài ý nghĩa này, các giáo phụ còn muốn móc nối với toàn thể lịch sử cứu rỗi, để nêu bật rằng trước đây do tội lỗi, tổ tiên loài người đã mất sự giao hảo với Thiên Chúa, đã mất sự “giống hệt” với Thiên Chúa. Nay đức Kitô đến nối lại mối dây giao hảo đó, giúp cho con người lại trở nên giống hệt với Thiên Chúa.

Trong bối cảnh này, chúng ta thấy có một bước tiến trong suy tư thần học chung quanh tư tưởng “hình ảnh Thiên Chúa”. Trước đây, người ta chỉ lưu ý tới khía cạnh là con người có lý trí và tự do, hoặc khía cạnh là con người được đặt làm chủ vũ trụ. Ngày nay, người ta còn thêm khía cạnh thông hiệp nữa. Không những con người được kêu mời thông hiệp với Thiên Chúa nhưng con người cần phải hoạ lại Thiên Chúa, khuôn mẫu của sự thông hiệp. Thực vậy, Thiên Chúa không đơn độc, nhưng có sự thông hiệp giữa Ba ngôi. Con người cần phải hoạ lại sự thông hiệp đó. Có lẽ đó là tư tưởng mà Sách Sáng thế muốn nhắm tới ở chương 1 câu 26, khi nói rằng Thiên Chúa đã dựng nên “con người nam nữ”. Nguyên nam giới không thì chưa phải là con người. Nguyên nữ giới không thì cũng chưa phải là con người. Cần phải họp lại cả nam cả nữ thì mới thành con người. Có người dựa vào đây để đả phá hết moi thứ bá quyền dù là về phía nam giới hay là về phía nữ giới: cả nam cả nữ đều bình đẳng, và phải bổ túc cho nhau thì mới làm cho nhân loại được hoàn hảo.

Nhưng, ngoài vấn đề nam nữ bình quyền, xem ra chúng ta có thể đoán rằng tác giả sách Sáng thế đã muốn nhìn thấy nơi sự kết hợp nam nữ như là khuôn mẫu để cho con người biểu lộ tính chất hình ảnh Thiên Chúa: Con người là hình ảnh Thiên Chúa khi biết yêu thương kết hiệp với tha nhân.