Đất nước Việt Nam có bao nhiêu triệu người?

Số liệu được Ban chỉ đạo Tổng điều tra dân số và nhà ở trung ương công bố tại hội nghị trực tuyến toàn quốc công bố kết quả sơ bộ tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019, tổ chức ngày 11-7.

Dân số cả nước đạt 96,2 triệu người

Số liệu công bố cho thấy trong tổng dân số 96.208.984 người, nam giới 47.881.061 người (49,8%), nữ giới 48.327.923 người (50,2%).

Sau 10 năm (2009-2019) quy mô dân số Việt Nam tăng thêm 10,4 triệu người. Tỉ lệ tăng dân số bình quân là 1,14%/năm, giảm nhẹ so với giai đoạn 1989-2009, tăng khoảng 1,18 triệu người/năm.

Kết quả tổng điều tra năm 2019 cũng cho thấy Việt Nam là quốc gia có mật độ dân số cao so với các nước trên thế giới và trong khu vực. Năm 2019, mật độ dân số cả nước đạt 290 người/km2, tăng 31 người/km2 so với năm 2009.

Hai thành phố có mật độ dân số cao trong cả nước là Hà Nội 2.398 người/km2 và TP.HCM 4.363 người/km2. Mật độ dân số của 2 trung tâm kinh tế xã hội này cao gấp hơn 10 lần so với mật độ chung của cả nước.

Đất nước Việt Nam có bao nhiêu triệu người?

Đồ họa: NGỌC THÀNH

Theo ông Nguyễn Bích Lâm, Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê, kết quả tổng điều tra ghi nhận cả nước có khoảng 91,7% dân số trong độ tuổi đi học phổ thông hiện đang đi học. Tỉ lệ dân số trong độ tuổi đi học không đi học giảm từ 16,4% (năm 2009) xuống 8,3% (năm 2019).

Tỉ lệ dân số trong độ tuổi đi học hiện không đi học ở khu vực nông thôn cao gấp 1,7 lần so với thành thị. Tây Nguyên và Đồng bằng sông Cửu Long là các vùng có tỉ lệ dân số thuộc nhóm này cao nhất cả nước, tỉ lệ trẻ em không đi học mỗi vùng là 13,3%.

Cũng theo ông Lâm, tỉ lệ trẻ em trong độ tuổi đi học nhưng không đến trường ở vùng Đồng bằng sông Hồng thấp nhất cả nước, khoảng 3,2%. Tỉ lệ biết chữ của dân số từ 15 tuổi trở lên năm 2019 là 95,8%, tăng 1,8 % so với năm 2009.

Đất nước Việt Nam có bao nhiêu triệu người?

Bộ trưởng Kế hoạch - đầu tư Nguyễn Chí Dũng phát biểu tại hội nghị - Ảnh: ĐT

Còn 4.800 hộ gia đình không có nhà ở

Kết quả tổng điều tra dân số và nhà ở cả nước cũng cho thấy tổng số hộ gia đình cả nước đạt 26.870.079 hộ, tăng 4,4 triệu hộ sau 10 năm. Tỉ lệ tăng số hộ dân cư giai đoạn 2009 - 2019 là 18,0%, bình quân tăng 1,8%/năm.

Về nhà ở, trong tổng số 26,9 triệu hộ dân cư vẫn còn 4.800 hộ không có nhà ở. Tính trung bình cứ 10.000 hộ dân có khoảng 1,8 hộ không có nhà ở.

Tình trạng hộ gia đình không có nhà ở đang dần được cải thiện qua hai thập kỉ, từ mức 6,7 hộ/10.000 hộ (năm 1999) xuống còn 4,7 hộ/10.000 hộ (năm 2009) và đến năm 2019 còn 1,8 hộ/10.000 hộ.

Kết quả sơ bộ Tổng điều tra năm 2019 cho thấy, trong 20 năm qua, điều kiện nhà ở của các hộ dân cư đã được cải thiện rõ rệt, đặc biệt ở khu vực thành thị. Có 93,1% hộ dân cư đang sống trong các ngôi nhà kiên cố hoặc bán kiên cố.

Trong vòng 20 năm qua, kể từ Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 1999, tỉ lệ hộ sống trong nhà ở kiên cố và bán kiên cố đã tăng nhanh.

"Đây là dấu hiệu tích cực cho thấy các chính sách phát triển nhà đã được thực hiện tốt và có hiệu quả trong thời gian qua, góp phần cải thiện điều kiện sống của người dân" - ông Lâm nhấn mạnh.

Diện tích nhà ở bình quân đầu người năm 2019 là 23,5 m2/người, cao hơn 6,8 m2/người so với 10 năm trước.

Diện tích nhà ở bình quân đầu người khu vực thành thị cao hơn khu vực nông thôn, tương ứng là 24,9 m2/người và 22,7 m2/người.

Tuy nhiên, vẫn còn 6,9% hộ dân cư đang sống trong nhà thiếu kiên cố hoặc đơn sơ.

Đặc biệt, có khoảng 1,4 triệu hộ với khoảng 5 triệu người đang sống trong các nhà đơn sơ là đối tượng cần được quan tâm trong các chính sách cải thiện nhà ở thời gian tới.

Dân số Việt Nam sẽ sớm đạt 100 triệu người và dấu mốc này sẽ đưa Việt Nam trở thành quốc gia đông dân thứ 15 trên thế giới. Đây nên được xem là cột mốc quan trọng đối với Việt Nam, và xin được chúc mừng Chính phủ Việt Nam bởi đây là minh chứng cho câu chuyện thành công. Từng là quốc gia bị chiến tranh tàn phá, Việt Nam nay đã thành công trong việc đưa người dân thoát khỏi cảnh đói nghèo và đạt mức tăng trưởng kinh tế - xã hội đáng ghi nhận trong lĩnh vực y tế, giáo dục, việc làm, tiến bộ công nghệ, v.v.
  • Thế giới đang thay đổi nhanh chóng và Việt Nam cũng không nên tụt lại phía sau. Dân số 100 triệu đồng nghĩa với việc Việt Nam có một thị trường nội địa rộng lớn, khả năng thu hút nhiều vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài hơn với nguồn lao động khỏe mạnh, có trình độ học vấn và tay nghề cao, tư duy đổi mới sáng tạo và động lực mạnh mẽ của đất nước. Do đó, chúng ta cần phải nhận ra rằng 100 triệu người vào năm 2023 không chỉ là con số. Mà đó là tầm nhìn xây dựng một đất nước Việt Nam hùng cường cho các thế hệ hôm nay và mai sau. 
  • Cơ hội và thách thức 

    1. Thời điểm UNFPA phát động chiến dịch #8BillionStrong vào năm ngoái nhân kỷ niệm thế giới đạt mốc 8 tỷ dân, 100 triệu người dân Việt Nam chính là tượng trưng cho “100 triệu hy vọng, 100 triệu giấc mơ và 100 triệu giải pháp”. Nhờ những tiến bộ trong nỗ lực cải thiện tình trạng kinh tế - xã hội cho người dân, giờ đây Việt Nam có thể hưởng lợi từ nguồn nhân lực lành nghề ngày càng gia tăng. Việt Nam hiện có tỷ lệ dân số trẻ cao nhất trong lịch sử đất nước. 21,1% tổng dân số là thanh thiếu niên trong độ tuổi từ 10 đến 24. Thời kỳ dân số vàng của Việt Nam sẽ còn tiếp diễn đến năm 2039 với sự hiện diện của các nhóm dân số trẻ có năng suất lao động cao, đồng thời có thể khai thác lợi thế về cơ cấu dân số để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế - xã hội của đất nước hơn nữa.
    2. Thách thức đặt ra là khi cả tỷ lệ tử vong và mức sinh đều giảm, Việt Nam sẽ sớm hoàn thành tiến trình quá độ dân số. Mọi người dân Việt Nam ngày nay được sống khỏe mạnh hơn và hưởng thọ cao hơn là một thành tựu quan trọng. Song, sự suy giảm tỷ lệ sinh và hạn chế mức sinh trong những thập kỷ vừa qua đang khiến cho dân số Việt Nam già đi nhanh chóng. Việt Nam được dự báo sẽ trở thành quốc gia có dân số già vào năm 2036 khi dân số từ 65 tuổi trở lên đạt 15,5 triệu người, chiếm hơn 14% tổng số dân. Ngoài ra, do tâm lý ưa thích có con trai vẫn còn phổ biến trong xã hội Việt Nam, cùng với mức sinh giảm và hạn chế số con cũng như các công nghệ sẵn có nên thực hành lựa chọn giới tính trước sinh đang diễn ra phổ biến, ước tính khoảng 47.000 trẻ em gái bị thiếu hụt mỗi năm. Dự báo đến năm 2034, Việt Nam sẽ dư thừa 1,5 triệu nam giới trong độ tuổi 15-49 và con số này sẽ lên đến 2,5 triệu người vào năm 2059.

     

    Hành động tiếp theo hướng tới phát triển bền vững 

    1. Trên lộ trình phát triển bền vững của Việt Nam, cần nhấn mạnh con người là giải pháp, không phải là vấn đề. Vấn đề không nằm ở số lượng người nhiều hơn hay ít hơn, mà là đảm bảo tất cả mọi người được tiếp cận các cơ hội một cách bình đẳng hơn. 
    2. Sau đây là một số kiến nghị của chúng tôi với Việt Nam. Thứ nhất, mọi người dân phải được hỗ trợ thực hiện các quyền, trong đó có quyền đưa ra quyết định về sức khỏe tình dục và sức khỏe sinh sản cũng như bình đẳng giới. Với tư cách là cơ quan bảo hộ của Hội nghị quốc tế về Dân số và Phát triển (ICPD) tổ chức năm 1994 mà Việt Nam đã tham gia, UNFPA khuyến nghị Việt Nam cần tuân thủ một cách đầy đủ những nguyên tắc của ICPD, theo đó các cá nhân và các cặp vợ chồng nên được tự do quyết định một cách có trách nhiệm về số lần sinh, khoảng cách giữa các lần sinh và thời điểm sinh con. Để làm được như vậy, tất cả chúng ta phải đảm bảo rằng mọi phụ nữ, mọi bà mẹ và mọi cặp vợ chồng đều có thể tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe tình dục và sức khỏe sinh sản có chất lượng, và các chính sách xã hội hỗ trợ trẻ em và có thể xem xét hỗ trợ nhà ở cho các cặp vợ chồng trẻ. Theo ước tính của UNFPA trên toàn cầu, cứ 1 USD đầu tư vào sức khỏe bà mẹ có thể mang lại 8,4 USD lợi tức kinh tế vào năm 2050. Tương tự như vậy, cứ 1 USD đầu tư vào công tác kế hoạch hóa gia đình sẽ thu về 10,1 USD lợi tức kinh tế. 
    3. Thứ hai, để hưởng trọn vẹn lợi ích mà lợi thế dân số mang lại, UNFPA khuyến nghị Việt Nam tiếp tục đầu tư vào thanh thiếu niên thông qua các chính sách và chương trình y tế, giáo dục, cơ hội việc làm nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động trong kỷ nguyên mới và thúc đẩy tinh thần đổi mới sáng tạo trong nước. Cũng giống như các nước thu nhập trung bình khác trên thế giới, tình trạng bất bình đẳng và chênh lệch vẫn tồn tại trong nước. Tỷ lệ tử vong mẹ và nhu cầu kế hoạch hóa gia đình chưa được đáp ứng vẫn cao hơn đáng kể trong nhóm dân tộc thiểu số, lao động nhập cư và thanh thiếu niên. Việt Nam cần tăng cường các chính sách về dịch vụ liên quan đến sức khỏe, bao gồm cả sức khỏe tình dục và sức khỏe sinh sản. 
    4. Và cuối cùng, những thay đổi quan trọng về cơ cấu dân số đang diễn ra tại Việt Nam như một phần của Xu hướng lớn toàn cầu hơn bao giờ hết đang thôi thúc Việt Nam lồng ghép một cách thận trọng yếu tố biến động dân số và phân tích nhân khẩu học vào Chiến lược, Kế hoạch Phát triển Kinh tế - Xã hội của đất nước, cũng như Kế hoạch hành động quốc gia vì sự phát triển bền vững. Chúng ta cần đặc biệt chú ý đến nhu cầu đặc thù của các nhóm dân số dễ bị tổn thương như phụ nữ và trẻ em gái, thanh thiếu niên, người cao tuổi, dân tộc thiểu số, lao động di cư, người khuyết tật và nạn nhân của bạo lực gia đình và bạo lực giới. Hơn nữa, với vấn đề già hóa dân số, an sinh xã hội cũng như các cơ chế hỗ trợ và chăm sóc dài hạn cho người cao tuổi, đặc biệt là phụ nữ cao tuổi, cần phải được đảm bảo bằng cách áp dụng phương pháp tiếp cận theo vòng đời, và khuyến khích người cao tuổi tiếp tục và mở rộng tham gia vào các hoạt động kinh tế-xã hội.
    5. Đảm bảo không ai bị bỏ lại phía sau trong quá trình phát triển bền vững của đất nước và một cách tiếp cận chung cho tất cả mọi người sẽ không phù hợp trong bối cảnh kinh tế - xã hội đa dạng của Việt Nam.