Dạy văn miêu tả cho học sinh tiểu học năm 2024

Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp rèn kĩ năng làm văn miêu tả cho học sinh lớp 5

PHẦN I: MỞ ĐẦU

  1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Tiếng Việt là tiếng phổ thông của dân tộc Việt Nam. Trong nhà trường Tiểu học, Tiếng Việt là đối tượng mà học sinh cần chiếm lĩnh. Đồng thời, cũng là một môn học được gọi là môn Tiếng Việt. Môn Tiếng Việt ở bậc Tiểu học có nhiệm vụ hình thành và phát triển cho học sinh các kĩ năng: nghe, nói, đọc, viết để học tập và giao tiếp trong môi trường hoạt động, góp phần rèn luyện các thao tác tư duy. Môn Tiếng Việt còn cung cấp cho học sinh những kiến thức ban đầu về tiếng Việt. Học tập môn này, học sinh còn được bồi dưỡng tình yêu tiếng Việt, hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam.

Trong chương trình Tiểu học mới, Tiếng Việt được chia thành các phân môn, mỗi phân môn có nhiệm vụ rèn luyện cho học sinh những kĩ năng nhất định. Phân môn Tập làm văn là phân môn mang tính tổng hợp cao nhất và là một phân môn rất quan trọng trong chương trình dạy học Tiểu học, nó không chỉ giúp học sinh hình thành các kĩ năng: nghe, nói, đọc, viết mà còn rèn cho học sinh khả năng giao tiếp, quan sát, phân tích tổng hợp và đặc biệt còn hình thành cho học sinh những phẩm chất tốt đẹp của con người mới hiện đại và năng động. Dạy Tập làm văn là dạy học sinh cách nhìn nhận cuộc sống xung quanh trong thực tế vốn có của nó với cảm xúc thực của các em. Đồng thời cũng dạy các em cách ghi lại sự nhìn nhận ấy qua các văn bản - còn gọi là đoạn văn, bài văn một cách chính xác về đối tượng, về ngữ pháp Tiếng Việt.

Với học sinh lớp Năm, việc rèn kĩ năng làm văn miêu tả cho các em là cần thiết. Học tốt văn miêu tả sẽ là điều kiện thuận lợi để học tốt các môn học khác ở Tiểu học và học tiếp lên các lớp trên. Việc giúp các em hoàn thành tốt bài văn miêu tả sẽ góp phần nâng cao năng lực cảm thụ văn học mà còn giúp các em khám phá được những cái đẹp qua việc xây dựng văn bản.

Nhằm góp phần đổi mới phương pháp và nâng cao chất lượng dạy học trong nhà trường nói chung, dạy cho học sinh lớp Năm học tốt văn miêu tả nói riêng, tôi đã chọn đề tài: Một số biện pháp rèn kĩ năng làm văn miêu tả cho học sinh lớp 5.

II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU

- Trang bị cho học sinh lớp 5 kĩ năng làm văn miêu tả, để từ đó bài làm của học sinh được cải thiện chất lượng học tập của các em cũng sẽ được nâng lên một cách đáng kể.

- Giúp học sinh hứng thú, yêu thích môn học.

III. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU:

- Nội dung chương trình môn Tập làm văn lớp 5

- Biện pháp rèn kĩ năng làm văn miêu tả cho học sinh lớp 5

IV. PHẠM VI NGHIÊN CỨU

Trong trường học việc rèn kĩ năng làm văn miêu tả cho học sinh diễn ra qua nhiều cấp học, lớp học. Nhưng đối với học sinh lớp 5 thể loại văn miêu tả chiếm phần lớn các tiết tập làm văn được chia làm nhiều dạng bài khác nhau.Vì vậy tôi chủ yếu tập trung vào rèn kĩ năng làm văn miêu tả cho học sinh lớp 5.

  1. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Để hoàn thành sáng kiến kinh nghiệm rèn kĩ năng làm văn miêu tả cho học sinh lớp 5 tôi đã vận dụng các phương pháp sau:

  1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết.
  2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
  3. Phương pháp quan sát.
  4. Phương pháp đàm thoại.
  5. Phương pháp luyện tập thực hành.
  6. Phương pháp thực nghiệm sư phạm.
  7. Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia.

PHẦN II : NỘI DUNG

  1. CƠ SỞ LÍ LUẬN

Tập làm văn là một phân môn mang tính tổng hợp và sáng tạo cao. Tổng hợp các kiến thức, kĩ năng từ Tập đọc, Kể chuyện, Chính tả, Luyện từ và câu,... để viết nên một bài Tập làm văn.

Theo quan điểm tích hợp, các phân môn được tập hợp lại xung quanh trục chủ điểm và các bài đọc. Nhiệm vụ cung cấp kiến thức và rèn luyện kĩ năng gắn bó chặt chẽ với nhau. Như vậy, muốn dạy - học có hiệu quả Tập làm văn miêu tả (tả cảnh, tả người, tả cây cối, tả đồ vật….) nhất thiết người giáo viên phải dạy tốt Tập đọc, Kể chuyện, Chính tả, Luyện từ và câu. Vì trong các bài đọc, trong câu chuyện, trong các bài tập luyện từ - câu thường xuất hiện các đoạn văn, khổ thơ có nội dung miêu tả rất rõ về cảnh vật, thiên nhiên, con người,...Bài Tập làm văn nếu không sáng tạo sẽ trở thành một bài văn khô cứng, góp nhặt của người khác, nội dung bài văn sẽ không hồn nhiên, trong sáng, mới mẻ như tâm hồn của các tác giả nhỏ tuổi.

Chất lượng Tập làm văn là chất lượng của cảm thụ văn học, của các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết tiếng mẹ đẻ. Cho nên, thầy và trò phải soạn giảng và học tập tích cực, nghiêm túc, hiệu quả, mới mong nâng cao một cách bền vững chất lượng môn Tiếng Việt ở lớp cuối cấp Tiểu học. Dạy Tập làm văn lớp 5 phải đảm bảo mục tiêu yêu cầu cần đạt về kiến thức, kĩ năng của Chương trình giáo dục phổ thông cấp Tiểu học theo Chuẩn kiến thức, kĩ năng của từng môn học (ban hành kèm theo quyết định số 16 của Bộ GD-ĐT) và phù hợp trình độ của từng học sinh trong lớp mà “Hướng dẫn 896” của Bộ GD-ĐT đã đề ra.

Tôi tin rằng đề tài này nếu được áp dụng và vận dụng hợp lý sẽ đem lại hiệu quả cao cho phân môn Tập làm văn, góp phần nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt lớp 5.

II. CƠ SỞ THỰC TIỄN

Năm nay (2018-2019), tôi được phân công phụ trách lớp 5A6 với 53 học sinh. Hầu hết 53 học sinh của lớp 5A6 tôi chủ nhiệm còn rất hạn chế khi làm bài Tập làm văn. Sau khi nghiên cứu sách Hướng dẫn học Tiếng Việt 4, tôi nhận thấy học sinh lớp 4 đã được học văn miêu tả về đồ vật, cây cối, con vật. Thế nhưng qua các bài kiểm tra tôi thấy bài làm của các em kết quả không cao. Chủ yếu mắc các lỗi :

- Bài viết của học sinh còn mắc nhiều lỗi chính tả.

- Học sinh chưa xác định được trọng tâm đề bài cần miêu tả.

- Nhiều em thường liệt kê, kể lể dài dòng, diễn đạt vụng về, lủng củng. Nhiều em chưa biết dừng lại để nói kĩ một vài chi tiết cụ thể nổi bật.

- Vốn từ ngữ của các em còn nghèo nàn, khuôn sáo, quan sát sự vật còn hời hợt.

- Các em chưa biết cách dùng các biện pháp nghệ thuật khi miêu tả.

Thực trạng học sinh còn nhiều hạn chế như vậy đã làm cho tiết Tập làm văn trở thành một gánh nặng, một thách thức đối với giáo viên tiểu học. Ý nghĩ cho rằng Tập làm văn là một phân môn khó dạy, khó học và khó đạt hiệu quả cao đã là nhận thức chung của nhiều thầy cô giáo dạy lớp 5.

Đâu là nguyên nhân dẫn đến tình trạng chất lượng Tập làm văn của học sinh không đạt yêu cầu ? Qua quá trình giảng dạy lớp 5, tôi nhận thấy học sinh học yếu Tập làm văn là do nhiều nguyên nhân.

- Khi làm văn, học sinh chưa xác định được yêu cầu trọng tâm của đề bài.

- Học sinh không được quan sát trực tiếp đối tượng miêu tả

- Khi quan sát thì các em không được hướng dẫn về kĩ năng quan sát: quan sát những gì, quan sát từ đâu ? Làm thế nào phát hiện được nét tiêu biểu của đối tượng cần miêu tả.

- Không biết hình dung bằng hình ảnh, âm thanh, cảm giác về sự vật miêu tả khi quan sát.

- Vốn từ đã nghèo nàn lại không biết sắp xếp như thế nào để bài viết mạch lạc, chưa diễn đạt được bằng vốn từ ngữ, ngôn ngữ của mình về một sự vật, cảnh vật, về một con người cụ thể nào đó.

- Nguyên nhân cuối cùng là trách nhiệm của người giáo viên. Phân môn Tập làm văn là một môn học mang tính tổng hợp và sáng tạo, nhưng lâu nay người giáo viên (nhất là giáo viên lớp 4, lớp 5) chưa có cách phát huy tối đa năng lực học tập và cảm thụ văn học của học sinh; chưa bồi dưỡng được cho các em lòng yêu quý Tiếng Việt, ham thích học Tiếng Việt để từ đó các em nhận ra rằng đã là người Việt Nam thì phải đọc thông viết thạo Tiếng Việt và phát huy hết ưu điểm của tiếng mẹ đẻ.

III. NỘI DUNG, CHƯƠNG TRÌNH TẬP LÀM VĂN LỚP 5

Dạy như thế nào để học sinh học giỏi Tập làm văn, viết được những bài văn miêu tả sinh động ? Điều cơ bản là người dạy phải nắm vững nội dung chương trình, đồng thời biết chọn và vận dụng phương pháp phù hợp để truyền thụ kiến thức cho học sinh. Biết được học sinh cần gì, chưa biết những gì để xác định đúng mục tiêu bài dạy, xác lập được mối quan hệ giữa kiến thức bài dạy với kiến thức cũ và kiến thức sẽ cung cấp tiếp theo. Cụ thể, giáo viên cần nắm vững những vấn đề sau :

  1. Nội dung chương trình Tập làm văn lớp 5: Cả năm có 62 tiết trong đó Tập làm văn miêu tả 33 tiết (chiếm hơn 50% số tiết) với mục tiêu là trang bị kiến thức và rèn luyện kĩ năng làm văn, góp phần cùng với các môn học khác làm giàu vốn sống, rèn luyện tư duy, bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc thẩm mĩ, hình thành nhân cách cho học sinh.
  1. Biện pháp dạy học từng kiểu bài: Hướng dẫn học sinh phân tích ngữ liệu và làm bài tập thực hành theo các biện pháp sau:

Giúp học sinh nắm vững yêu cầu bài tập.

Tổ chức cho học sinh thực hiện bài tập.

  1. Trình tự dạy Tập làm văn:

Trong phần dạy bài mới, giáo viên phải nắm vững trình tự dạy đối với hai loại bài Tập làm văn: loại bài dạy lý thuyết và loại bài dạy thực hành. Khi dạy từng loại bài, giáo viên cần chú ý đến các đối tượng học sinh của lớp: có nội dung cho học sinh khá, giỏi; có nội dung cho học sinh trung bình, yếu,...

Ví dụ:

Muốn dạy học sinh làm văn miêu tả đạt yêu cầu thì giáo viên cần biết thế nào là văn miêu tả, đặc điểm thể loại văn miêu tả, biết yếu tố nào là quan trọng và cần thiết để giúp học sinh làm được bài văn miêu tả sinh động thông qua quan sát đối tượng miêu tả.

IV. MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG LÀM VĂN MIÊU TẢ CHO HỌC SINH LỚP 5

Biện pháp 1: Rèn luyện kĩ năng quan sát cho học sinh

  1. Mục tiêu:
  2. Giúp học sinh có khả năng quan sát các sự vật một cách chính xác, chi tiết.
  3. Hình thành kĩ năng quan sát cho học sinh.
    1. Cách tiến hành:

Bước 1: Giáo viên hướng dẫn học sinh sử dụng các giác quan như thị giác, thính giác, khứu giác, xúc giác để quan sát.

Bước 2: Hướng dẫn học sinh trình tự quan sát : quan sát bao quát trước rồi đến từng bộ phận hoặc quan sát từ xa đến gần, từ ngoài vào trong, từ trái qua phải…(hoặc ngược lại). Trình tự này được vận dụng khi miêu tả loài vật, đồ vật, cảnh vật...Giáo viên còn hướng dẫn học sinh cái gì xảy ra trước miêu tả trước, cái gì xảy ra sau miêu tả sau. Trình tự này thường được vận dụng khi làm Tập làm văn miêu tả cảnh vật hay tả cảnh sinh hoạt của người.

Bước 3: Tìm ra những đặc điểm riêng, nổi bật nhất, thu hút và gây cảm xúc mạnh nhất đến bản thân để tả kĩ.

  1. Ví dụ : Tả cái đồng hồ báo thức

Bước 1: Giáo viên yêu cầu học sinh sử dụng các giác quan thị giác để quan sát màu sắc, hình dáng, kích thước của các bộ phận. Dùng thính giác để cảm nhận âm thanh khi đồng hồ chạy. Dùng xúc giác để xem mặt đồng hồ nhẵn bóng hay không…

Bước 2: Giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát theo trình tự từ bao quát rồi đến từng bộ phận.

Bao quát hình dáng : Cái đồng hồ được làm từ nhựa cao cấp, có hình con thỏ màu trắng với hai cái tai dài trông rất dễ thương.

Từng bộ phận:

+ Mặt đồng hồ: Mặt kính sáng bóng, không vết xước, sờ vào rất mát tay.

Dưới mặt kính là các con số từ 1 đến 12 xếp thành vòng tròn xinh xắn theo đúng thứ tự.

+ Bốn kim đồng hồ: Đều có màu đen riêng kim báo thức thích nổi bật nên khoác trên mình chiếc áo màu đỏ.Kim giờ to nhất rồi đến kim phút, kim giây nhỏ, dài…

+ Đằng sau đồng hồ có hai nút điều khiển. Một nút đặt báo thức, một nút chỉnh giờ. Có một hộp nhỏ dùng để đựng pin.

Bước 3: Đặc điểm nổi bật nhất, thu hút nhất của đồng hồ là các kim.

Kim giờ mập mạp nhất nên chạy rất chậm.

Kim phút nhỏ hơn kim giờ nên tốc độ nhanh hơn.

Kim giây thanh mảnh luôn chạy nhanh nhất.

Kim báo thức thì đứng im có ai điều chỉnh thì mới chạy.

Biện pháp 2: Hướng dẫn học sinh xác định yêu cầu trọng tâm đề bài:

Mục tiêu:

Giúp học sinh viết đúng đề bài.

Rèn kĩ năng xác định được yêu cầu trọng tâm của đề.

Cách tiến hành:

Bước 1: Giáo viên yêu cầu học sinh đọc đề bài.

Bước 2: Giáo viên hỏi học sinh nêu yêu cầu của bài.

Bước 3: Giáo viên hướng dẫn gạch chân, giải thích từ cần lưu ý.

  1. Ví dụ : Tả một người mà em thường gặp.

Bước 1: Giáo viên gọi học sinh đọc đề bài.

( 1 học sinh đọc).

Bước 2: Giáo viên hỏi học sinh: Bài tập yêu cầu gì?

( Hs trả lời: Bài yêu cầu hãy tả một người mà em thường gặp).

Bước 3: Giáo viên hướng dẫn gạch chân, giải thích từ cần lưu ý.

Tả một người mà em thường gặp.

( Giáo viên gạch chân các từ tả, một người, em thường gặp.

Giáo viên hỏi: Người thường gặp đó là ai?

Học sinh trả lời: Người thường gặp đó là thầy giáo, cô giáo, chú công an, người hàng xóm…)

  • Lưu ý

Bài văn của học sinh được viết theo một đề bài cụ thể, cho nên yêu cầu hàng đầu là các em phải viết đúng đề bài. Một đề bài đưa ra cho học sinh viết thường ẩn chứa đến 3 yêu cầu: yêu cầu về thể loại (kiểu bài), yêu cầu về nội dung, yêu cầu về trọng tâm.

Khi xác định yêu cầu trọng tâm của đề bài, giáo viên phải làm sao giúp học sinh hiểu được rằng việc viết đúng yêu cầu của đề bài là yếu tố quyết định nội dung bài viết:

Ví dụ: Đề bài ở tuần 4 lớp 5:

“ Tả cảnh một buổi sáng (hoặc trưa, chiều) trong một vườn cây (hay trong công viên, trên đường phố, trên cánh đồng, nương rẫy).

Với đề bài trên, ẩn chứa 3 yêu cầu sau:

  1. Yêu cầu về thể loại của đề là: Miêu tả (thể hiện ở từ “Tả”).
  1. Yêu cầu về nội dung là: Buổi sáng (hoặc trưa, chiều) thể hiện ở cụm từ “cảnh một buổi sáng (hoặc trưa, chiều)”.
  1. Yêu cầu về trọng tâm là: Ở trong một vườn cây (hay trong công viên….).

Trong thực tế, không phải đề bài nào cũng xác định đủ 3 yêu cầu. Như đề bài “Tả một cơn mưa” chỉ có yêu cầu về thể loại và nội dung. Với đề bài này, giáo viên cần giúp học sinh tự xác định thêm yêu cầu về trọng tâm của bài viết. Chẳng hạn “Tả một cơn mưa khi em đang trên đường đi học”...

Việc xác định đúng trọng tâm của đề sẽ giúp cho bài viết được thu hẹp nên các em có được ý cụ thể, chính xác, tránh việc viết tràn lan, chung chung,...

Biện pháp 3: Làm giàu vốn từ cho học sinh

3.1. Mục tiêu:

Giúp học sinh có vốn từ để tái hiện sự vật mình quan sát được.

Rèn kĩ năng sử dụng vốn từ của mình sao cho đúng, hay.

  1. . Cách tiến hành:

Bước 1: Làm giàu vốn từ cho học sinh thông qua các phân môn Tiếng Việt:

Môn Tập đọc giúp các em hiểu được nghĩa đen, nghĩa bóng, hiểu được nội dung của các đoạn văn, khổ thơ có ý nghĩa miêu tả (cảnh vật, con người,...). Mỗi tiết dạy Tập đọc nên thêm một vài câu hỏi về thể loại, bố cục và trình tự miêu tả của tác giả để học sinh thấm dần về Tập làm văn miêu tả.

Môn Luyện từ - câu là môn có thể giúp học sinh làm giàu vốn từ nhiều nhất khi dạy các tiết Mở rộng vốn từ. Trong các tiết này có các bài tập mở rộng vốn từ rất cụ thể, thiết thực như tìm từ, ghép từ, phát hiện từ miêu tả, dùng từ đặt câu, sắp xếp các từ thành nhóm miêu tả như nhóm từ ngữ miêu tả ngoại hình, nhóm từ ngữ miêu tả đặc điểm cảnh vật, nhóm miêu tả hoạt động,...

Đặc biệt ở chính phân môn Tập làm văn, giáo viên có thể giúp học sinh làm giàu vốn từ theo các đề tài nhỏ.

Bước 2: Làm giàu vốn từ cho học sinh thông qua các nguồn tài liệu sách, báo, truyện…Tôi khuyến khích các em xuống thư viện đọc sách, báo, truyện....để tích lũy thêm vốn từ.

Ngoài ra tôi làm giàu vốn từ cho học sinh trong các giờ sinh hoạt câu lạc bộ “ Yêu thơ văn em tập viết”, “ Viết văn hay chống nói ngọng”, “ Em tập làm MC”, ...

Để tích lũy vốn từ tôi khích lệ học sinh tham gia các hoạt động.

Bước 3: Hướng dẫn học sinh sử dụng từ ngữ trong miêu tả:

Sau khi học sinh đã có một vốn từ nhất định, giáo viên giúp học sinh các cách sử dụng vốn từ trong miêu tả như: sử dụng từ láy, sử dụng tính từ tuyệt đối (đỏ mọng, đặc sệt, trong suốt...), sử dụng các biện pháp nghệ thuật (so sánh, nhân hoá, ẩn dụ...).

3.3. Ví dụ:

Bước 1: Trong phân môn Luyện từ và câu bài: Mở rộng vốn từ Thiên nhiên ( Bài tập 4 - SGK Tiếng Việt 5 - trang 78.

Tìm những từ ngữ miêu tả sóng nước. Đặt câu với một trong các từ ngữ vừa tìm được

  1. Tả sóng nước. M: ì ầm
  1. Tả làn sóng nhẹ. M: lăn tăn
  1. Tả đợt sóng mạnh. M: cuồn cuộn

Để giúp các em làm giàu vốn từ của mình qua bài tập trên, tôi hướng dẫn các em thực hiện như sau:

+ Cho học sinh đọc yêu cầu của bài.

+ Tổ chức cho học sinh làm việc theo nhóm để tìm từ, đặt câu ra phiếu học tập.

+ Gọi đại diện các nhóm báo cáo. Yêu cầu nhóm khác nhận xét theo các tiêu chí sau: Những từ ngữ tìm được đã phù hợp với yêu cầu của từng nhóm từ chưa. Câu văn đặt đã đúng chưa.

+ Giáo viên nhận xét, tuyên dương những nhóm tìm được nhiều từ để động viên, khích lệ các em. Còn nhóm nào tìm từ chưa phù hợp, đặt câu chưa đúng thì giáo viên giải thích cho các em hiểu để các em sửa lại.

Riêng với phần đặt câu tôi khuyến khích các em đặt câu thêm với các từ khác. Việc làm này sẽ giúp các em biết sử dụng vốn từ để đặt câu.

Ví dụ: Học sinh đặt câu: Những đợt sóng cuồn cuộn vỗ nhẹ vào bờ.

Giáo viên hướng dẫn học sinh sửa lại: Từ cuồn cuộn thường tả đợt sóng mạnh. Còn sóng nhẹ ta hay dùng lăn tăn, dập dềnh, lững lờ....

Những đợt sóng lăn tăn vỗ nhẹ vào bờ.

Bước 2: Khi học văn tả một người trong gia đình em. Trong giờ hướng dẫn học môn Tiếng Việt tôi dành khoảng 15 phút để cho học sinh sinh hoạt câu lạc bộ : Yêu thơ văn em tập viết.

Tôi đưa ra yêu cầu các con hãy tập làm nhà thơ sáng tác ra những bài thơ hay về mẹ.

Học sinh đọc những bài thơ mà mình viết để các bạn nghe và cảm nhận.

Học sinh 1 viết:

Mẹ là số Một

Sao trời có hàng vạn

Cây cỏ có hàng trăm

Nhưng mẹ chỉ có một

Biết mấy là yêu thương.

Mẹ chăm con từng tí

Mẹ dạy con từng li

Mẹ cho con đạo đức

Mẹ chỉ con làm người.

Mùa đông đủ lạnh giá

Đã có mẹ sưởi bên

Mùa hè dù nóng nực

Tay mẹ mát tâm hồn.

Con thương mẹ xiết bao

Tảo tần qua khó nhọc

Bàn tay mẹ gầy chai

Cho con được đi học.

Biết bao nhiêu của ngon

Mẹ dành cho con hết

Bấy nhiêu là câu chuyện

Mẹ thủ thỉ con nghe.

Mẹ ơi có biết không

Con yêu mẹ nhiều lắm

Không thứ gì sánh được

Tình thương mẹ vô bờ!

Vân Khánh 5 A6

Học sinh 2 viết:

Mẹ yêu

Ngày con sinh ra

Là ngày hoa đào nở sớm

Giọt nước mắt hạnh phúc

Lăn dài trên gò má mẹ.

Rồi thời gian qua đi

Mẹ chăm con khôn lớn

Chắt bóp từng đồng xu

Để cho con đi học

Ở nơi tốt nhất...

Mẹ mỉm cười khi con hạnh phúc

Mẹ không vui khi thấy con buồn

Con thành công – niềm tự hào dâng trên đôi mắt mẹ

Con thất bại – mẹ dịu dàng ủi an...

Và giờ đây, con đã trưởng thành hơn

Đã có thể sống tự lập

Nhưng làm sao con quên

Công ơn mẹ...

Người đã dưỡng dục con nên người

“ Suốt cả cuộc đời

Đôi mắt mẹ vẫn dõi theo con

Từng bước chân”

Minh Ngọc – 5A6

Bằng ngôn từ giản dị học sinh nói lên được tình cảm yêu quý của mình dành cho mẹ. Qua việc sáng tác thơ, đọc cho nhau nghe học sinh sẽ học hỏi nhau để có những câu văn, câu thơ hay về mẹ.

Bước 3: Khi hướng dẫn học sinh sử dụng từ ngữ trong văn miêu tả tôi hướng dẫn học sinh thông qua các bài tập.

Ví dụ : Hãy chọn từ ngữ thích hợp trong ngoặc điền vào chỗ trống để được các câu văn có hình ảnh so sánh phù hợp nhất (tiếng chuông, chùm sao, thuỷ tinh, dải lụa, giọng bà tiên).

- Hoa xoan nở từng chùm trông giống như... (chùm sao )

Trong câu hình ảnh hoa xoan màu trắng tạo thành chùm ta liên tưởng đến những chùm sao lấp lánh trên bầu trời đen. Vì thế chọn từ chùm sao là thích hợp.

- Giọng bà trầm ấm ngân nga như... ( tiếng chuông )

Từ tiếng chuông gợi âm thanh vang vọng. Vì thế giọng bà được so sảnh với tiếng chuông để gợi lên giọng điệu trầm ấm, ngân vang.

Ở ví dụ trên cho số từ nhiều hơn số chỗ trống cần điền, buộc HS phải suy nghĩ kĩ hơn khi chọn từ.

Qua cách trên học sinh nhận thấy tác dụng của việc sử dụng các từ ngữ gợi tả, gợi cảm. Biết cách chọn từ và sử dụng các từ ngữ gợi tả, gợi cảm, những biện pháp nghệ thuật sao cho phù hợp với văn cảnh.

Biện pháp 4: Hướng dẫn học sinh luyện viết câu

4.1. Mục tiêu:

  • Giúp học sinh viết được câu văn đúng ngữ pháp.
  • Rèn kĩ năng viết câu văn đúng, hay.
    1. . Cách tiến hành:

Bước 1: Hướng dẫn học sinh viết câu văn đúng ngữ pháp.

Bước 2: Hướng dẫn học sinh dùng dấu câu đúng, nhất là dấu chấm và dấu phẩy. Ngắt câu đúng sẽ diễn đạt rõ ràng, người đọc, người nghe dễ dàng tiếp nhận thông tin.

Bước 3: Hướng dẫn học sinh sử dụng từ ngữ giàu hình ảnh, tạo được sắc thái riêng của đối tượng miêu tả.

4.3. Ví dụ: Miêu tả mái tóc của một bạn.

Bước 1: Yêu cầu học sinh đặt câu đủ chủ ngữ - vị ngữ.

Bạn Lan có mái tóc màu đen dài ngang vai.

Bước 2: Hướng dẫn học sinh sử dụng dấu câu.

Gv hỏi học sinh nhận xét về phần đặt câu của bạn.

Hs trả lời : Câu bạn đặt còn thiếu dấu phẩy để ngăn cách giữa các ý trong thành phần vị ngữ.

Hs sửa: Bạn Lan có mái tóc màu đen, dài ngang vai.

Bước 3: Hướng dẫn học sinh viết câu văn hay hơn.

GV nói: Cùng nói về mái tóc màu đen, ngang vai ai có thể đặt được câu khác hay hơn.

Học sinh đặt: Bạn Lan có mái tóc đen huyền, óng ả, xõa ngang vai.

Ngoài những biện pháp trên , để rèn kĩ năng làm văn miêu tả cho học sinh tôi còn hướng dẫn học sinh:

  • Tích lũy vốn kiến thức văn học

Tích luỹ văn học là điều kiện tối thiểu để học tốt môn Tiếng Việt, nhất là phân môn Tập làm văn. Giáo viên đã cho học sinh sử dụng sổ tay chính tả để ghi chép những tiếng khó, ghi những trường hợp mắc lỗi chính tả đã được sửa chữa. Trong môn Tập làm văn, đây cũng là một biện pháp tích cực để giúp học sinh trau dồi vốn kiến thức văn học. Sổ tay văn học dùng cho các em ghi chép các ý hay, các câu, đoạn văn hay. Việc ghi chép này không nhất thiết để cho học sinh khi làm văn sẽ mở ra sử dụng nhưng trước hết, qua mỗi lần ghi chép, các em sẽ được một lần đọc, ghi nhớ, bắt chước, lâu dần thành thói quen. Khi làm bài, những từ ngữ, hình ảnh, ý văn sẽ tự động tái hiện, giúp học sinh có thể vận dụng trong bài làm.

  • Tìm hiểu, cảm nhận cái hay, cái đẹp của một đoạn văn:

Hướng dẫn học sinh tìm hiểu để cảm nhận cái hay, cái đẹp qua việc đọc một đoạn văn được tiến hành qua nhiều tiết học. Cảm nhận được cái hay, cái đẹp, các em sẽ hình thành được những cảm xúc thẩm mĩ, giúp cho việc học tập làm văn tốt hơn, nhất là văn miêu tả.

Để hướng dẫn tìm hiểu cảm nhận cái hay, cái đẹp của đoạn văn, giáo viên hướng dẫn các em hình thành thói quen suy nghĩ, tự đặt và ghi các câu hỏi xoay quanh nội dung đoạn văn. Kết quả học sinh có thể tự đặt các câu hỏi như:

+ Đoạn văn này miêu tả đặc điểm gì của nhân vật ?

+ Đoạn văn này dùng những từ láy nào để miêu tả hình ảnh của nhân vật ?

+ Có thể dùng những hình ảnh so sánh nào cho đoạn văn ?...

Ví dụ: Trong đoạn văn Chú bé vùng biển( Tiếng Việt 5 tập 1)

Thằng Thắng, con cá vược của thôn Bần và là địch thủy bơi lội đáng gờm nhất của bọn trẻ, lúc này đang ngồi trên chiếc thuyền đậu ở ngoài cùng. Nó trạc tuổi thằng Chân ‘‘ phệ”nhưng cao hơn hẳn cái đầu. Nó cởi trần, phơi nước da rám đỏ khỏe mạnh của những đứa trẻ lớn lên với nắng, nước mặn, gió biển.Thân hình nó rắn chắc, nở nang: cổ mập, vai rộng, ngực nở căng, bụng thon hằn rõ những múi, hai cánh tay gân guốc như hai cái bơi chèo, cặp đùi dế to, chắc nình nịch…

Giáo viên hướng dẫn để học sinh có thể trả lời được câu hỏi

+ Đoạn văn này miêu tả đặc điểm gì của nhân vật ?

Đoạn văn này miêu tả đặc điểm ngoại hình của cậu bé Thắng

+ Đoạn văn này dùng những từ láy nào để miêu tả hình ảnh của nhân vật ?

Đoạn văn này dùng những từ láy nở nang, gân guốc…

+ Có thể dùng những hình ảnh so sánh nào cho đoạn văn ?...

Hình ảnh so sánh: So sánh khả năng bơi giỏi của cậu bé Thắng như con cá vược. Hai cánh tay gân guốc của Thắng như hai cái bơi chèo.

  • Hướng dẫn lập và hoàn thiện dàn ý

Khi học sinh đã được cung cấp những từ ngữ miêu tả rồi, giáo viên cần tổ chức, hướng dẫn cho các em lập dàn ý, lựa chọn sắp xếp ý để miêu tả. Mục đích xây dựng dàn ý là giúp học sinh xác định được đúng yêu cầu của từng phần: mở bài, thân bài, kết bài, xác định thể loại và đối tượng miêu tả để tránh tình trạng học sinh viết tràn lan, lạc đề và miêu tả không trọng tâm.

Hoạt động tiếp theo sau khi lập dàn ý là hoàn thiện dàn ý. Đây là bước quan trọng, cần thiết để có được một bài tập làm văn viết tốt nhất. Khi làm bài vào vở, học sinh cần chú ý cách trình bày, chữ viết, lỗi chính tả. Đó là những yếu tố giúp học sinh thành công trong quá trình học Tập làm văn. Cuối cùng, khi đã làm bài xong học sinh cần kiểm tra lại bài viết của mình trước khi nộp bài.

Ví dụ Đề bài: Hãy miêu tả một người bạn thân của em.

Học sinh quan sát, viết nhanh ra giấy những điều mà mình quan sát được. Ví dụ:

+ Bạn Lan Anh học chung lớp với em.

+ Bạn chơi thân với em từ năm học lớp Một.

+ Chúng em rất thân nhau.

+ Em sẽ cố gắng làm những điều thật tốt để tình bạn của chúng em mãi mãi bền lâu.

+ Những ngày bạn nghỉ học, em cảm thấy rất nhớ.

+ Bạn có nước da trắng trẻo

+ Bạn hay phát biểu và hiểu bài rất nhanh nên được thầy và các bạn khen ngợi.

+ Bạn rất hay cười.

+ Mái tóc bạn không đen như tóc em nhưng dài hơn.

+ Bằng tuổi với em nhưng cao hơn em một cái đầu.

+Lan Anh viết chữ rất đẹp. Bạn đã được chọn dự thi viết chữ đẹp vòng trường và đạt giải ba.

+ Mỗi khi bạn cười, hai lúm đồng tiền trên má hiện rõ trên khuôn mặt ngăm đen dễ thương.

+ Bạn không gây gổ với ai bao giờ.

+ Thầy cô thường lấy bạn để làm gương.

Sau khi tìm ý, cho các em chọn và sắp sếp ý thành các đoạn Mở bài, Thân bài, Kết bài phù hợp.

  • Mở bài

+Em và bạn Lan Anh chơi thân với nhau từ năm lớp Ba.

+Chúng em rất thân nhau. Đi học, em thường đi chung với bạn.

  • Thân bài

+Bằng tuổi với em cao hơn em một cái đầu.

+Bạn có nước da trắng trẻo, mịn màng như làn da em bé..

+Bạn rất hay cười, mỗi khi bạn cười, hai lúm đồng tiền trên má hiện rõ trên khuôn mặt trắng trẻo dễ thương.

+Lan Anh có đôi mắt to rất đẹp với hàng lông mi dài, cong. Đôi mắt bạn luôn ánh lên ra vẻ hồn nhiên, chất phác.

+Mái tóc bạn không đen như tóc em nhưng dài hơn

+ Lan Anh viết chữ rất đẹp, bạn đã được chọn dự thi viết chữ đẹp vòng trường và đạt giải ba.

+Thầy thường lấy bạn ra làm gương cho chúng em noi theo để rèn chữ. Ở lớp, thầy thường khen bạn hiểu bài rất nhanh.

+Em chưa thấy bạn gây gổ với ai bao giờ.

Kết bài

+Mỗi khi vắng Lan Anh, nhất là những ngày bạn nghỉ học, em cảm thấy rất nhớ.

  1. CHƯƠNG 5: KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM

Qua những biện pháp mà tôi đã áp dụng được nêu ở trên, đến giữa học kì 2 năm học 2018 – 2019 các em đã nắm được một số vốn kiến thức nhất định để học có hiệu quả phân môn Tập làm văn. Cả lớp đều ham thích môn học, không sợ sệt khi đến tiết Tập làm văn như đầu năm học nữa. Bài làm của các em đa số đã có tiến bộ, học sinh nắm được cách sắp xếp ý, bố cục chặt chẽ, dùng từ chính xác, viết câu văn trôi chảy, mạch lạc, bước đầu có hình ảnh, cảm xúc, hiểu và vận dụng khá tốt các biện pháp tu từ trong các bài tập làm văn của mình. Các em cảm thụ được bài văn, đọc bài trôi chảy, hiểu đúng nội dung bài, nhất là rất tự tin khi đến tiết học Tập làm văn.

Kết quả học tập phân môn Tập làm văn tại lớp 5A6 đến giữa học kì 2 năm học 2018 - 2019 đạt hiệu quả rõ rệt.

Cụ thể như sau: Sĩ số 53 học sinh

Thời gian

Kết quả khảo sát học sinh

Điểm

10

9

8

7

6

5

Dưới 5

Giữa học kì 1

5

(9%)

14

(26%)

15

(28%)

10

(19%)

4

(8%)

5

(10%)

0

Giữa học kì 2

10

(19%)

17

(32%)

19

(36%)

3

(5%)

2

(4%)

2

(4%)

0

↑5HS

( ↑10%)

↑ 3HS

(↑6%)

↑ 4HS

(↑8%)

↓7 HS

(↓14%)

↓2 HS

(↓4%)

↓ 3 %

(↓6%)

PHẦN III : KẾT LUẬN

Sau một học kì áp dụng sáng kiến kinh nghiệm này, thành công tuy nhỏ nhoi nhưng tôi ý thức được rằng để giúp học sinh lớp 5 làm được bài văn miêu tả sinh động, đúng kiểu bài, đòi hỏi giáo viên phải dành nhiều thời gian, công sức nghiên cứu soạn giảng, có lòng nhiệt tình với học sinh và tâm huyết với nghề nghiệp. Thầy cô giáo đã miệt mài, tận tuỵ thì việc mong muốn có nhiều học sinh giỏi văn sẽ không còn là khó. Sau thời gian đầu tư nghiên cứu và áp dụng những biện pháp dạy học như trên, học sinh lớp tôi đã có chuyển biến đi lên về chất lượng phân môn Tập làm văn nói riêng và môn Tiếng Việt nói chung.

Tập làm văn đúng là phân môn có tính chất tổng hợp và sáng tạo cao. Cho nên mỗi bài văn của từng học sinh là một tác phẩm văn học của các em, chúng ta phải tôn trọng nó, giúp đỡ nó để mỗi ngày có được nhiều học sinh giỏi văn. Biết đâu sau này trong các em, sẽ có người trở thành nhà văn, nhà thơ...

Có thể nói, bước đầu thành công trong việc dạy Tập làm văn miêu tả cho học sinh lớp 5 là nguồn động viên rất lớn cho tôi. Tôi sẽ đem kinh nghiệm này tiếp tục áp dụng để giảng dạy phân môn Tập làm văn ở học kì II và các năm sau, với mong muốn lớn nhất của tôi là giúp học sinh nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt cấp Tiểu học.

Tuy nhiên những biện pháp mà tôi đã áp dụng trên, tuỳ đối tượng học sinh cũng cần có sự vận dụng một cách khéo léo, sáng tạo của giáo viên. Tôi nghĩ rằng nội dung đề tài này không có nhiều điểm mới, đó chỉ là nhiệm vụ hằng ngày của giáo viên mà thôi. Nhưng đồng thời tôi cũng tin rằng nếu lâu nay ta làm chưa tốt thì bây giờ ta dốc hết tâm huyết vào, tận tuỵ với học sinh, soạn giảng nghiêm túc thì chắc chắn sẽ gặt hái được thành công.

MỘT SỐ ĐỀ XUẤT

Để việc rèn kĩ năng làm văn miêu tả cho học sinh được tốt tôi xin có một số đề xuất sau:

- Là giáo viên, tôi hiểu rõ tầm quan trọng trong công tác trồng người. Vì thế, bản thân tôi luôn cố gắng trau dồi sách vở, học hỏi từ đồng nghiệp cũng như đúc kết kinh nghiệm giảng dạy của bản thân, nâng cao đạo đức và chuyên môn.

- Đối với đồng nghiệp dạy lớp 5: Thầy, cô giáo cần phải đầu tư hơn nữa về phương pháp và biện pháp cho mỗi giờ học phân môn Tập làm văn (từng thể loại, từng kiểu bài cụ thể ) để từng bước giúp các em nắm vững kiến thức, chủ động nói lên những suy nghĩ hồn nhiên của mình; nói đúng, nói hay, làm giàu thêm vốn từ ngữ và giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt.

- Bên cạnh sự nỗ lực của giáo viên, kính mong nhà trường cho tiến hành các tiết chuyên đề chuyên sâu về văn miêu tả nhằm rút kinh nghiệm chung đồng thời nâng cao chất lượng, hiệu quả giảng dạy phân môn Tập làm văn nói chung và kiểu bài văn miêu tả nói riêng.