So sánh ngôn ngữ và các hệ thống tín hiệu khác

HỌC VIỆN NGÂN HÀNG  BỘ MÔN DẪN LUẬN NGÔN NGỮ HỌC Chương ba NGÔN NGỮ LÀ MỘT HỆ THỐNG TÍN HIỆU ĐẶC BIỆT Phần 1: HỆ THỐNG VÀ KẾT CẤU CỦA NGÔN NGỮI. Khái niệm hệ thống và kết cấuHệ thống Kết cấu • Hệ thống là một thể thống nhất bao gồm các yếu tố có quan hệ và liên hệ lẫn nhau. • Mỗi đối tượng trọn vẹn là một hệ thống. • Nói đến hệ thống cần 2 điều kiện: + Tập hợp các yếu tố. + Những mối quan hệ và liên hệ lẫn nhau. • Khái niệm hệ thống gắn bó chặt chẽ với khái niệm kết cấu. • Ngôn ngữ là một hệ thống.• Kết cấu là tổng thể các mối quan hệ và liên hệ giữa các yếu tố của một thể thống nhất.• Kết cấu không nằm ngoài hệ thống.• Khái niệm kết cấu phản ánh hình thức sắp xếp của các yếu tố, phản ánh tính chất của sự tác động lẫn nhau giữa các mặt và các thuộc tính của chúng. II. Các loại đơn vị chủ yếu của ngôn ngữCâuTừHình vịÂm vị II. Các loại đơn vị chủ yếu của ngôn ngữCâuTừHình vịÂm vị là đơn vị ngữ âm nhỏ nhất mà người ta có thể nhận ra được trong chuỗi lời nói. Ví dụ các âm b, t, v… hoàn toàn không thể chia nhỏ chúng hơn nữa. Âm vị có chức năng nhận cảm và chức năng phân biệt nghĩa. II. Các loại đơn vị chủ yếu của ngôn ngữCâuTừÂm vịHình vị là một hoặc một chuỗi kết hợp một vài âm vị, biểu thị một khái niệm. Nó là đơn vị nhỏ nhất có ý nghĩa. Chức năng của hình vị là chức năng ngữ nghĩa. II. Các loại đơn vị chủ yếu của ngôn ngữCâuHình vịÂm vịTừ là chuỗi kết hợp của một hoặc một vài hình vị mang chức năng gọi tên và chức năng ngữ nghĩa II. Các loại đơn vị chủ yếu của ngôn ngữTừHình vịÂm vịCâu là chuỗi kết hợp của một hay nhiều từ, chức năng của nó là chức năng thông báo. II. Các loại đơn vị chủ yếu của ngôn ngữCâuTừHình vịÂm vị III. Những kiểu quan hệ chủ yếu trong ngôn ngữ•Quan hệ tuyến tính: Khi biểu hiện bằng chữ viết, người ta đã thay thế sự kế tiếp trong thời gian của các yếu tố ngôn ngữ bằng tuyến không gian của các chữ. Đặc điểm này của ngôn ngữ được gọi là tính hình tuyển của cái biểu hiện và mối quan hệ giữa các yếu tố trong hình tuyến được gọi là quan hệ tuyến tính hay quan hệ ngang. Tất cả các loại đơn vị ngôn ngữ đều xuất hiện trên trục ngang, nhưng chỉ có thể nói tới quan hệ ngang giữa các đơn vị cùng loại mà thôi.•Quan hệ liên tưởng: Quan hệ ngang thể hiện trong lời nói như quan hệ thực tại giữa các đại diện của các loại đơn vị. Nghĩa là cùng một chỗ hay vị trí trong chuỗi lời nói có thể thay thế bằng cả một loạt các yếu tố đồng loại. Những yếu tố đồng loại có thể thay thế nhau trong cùng một vị trí của chuỗi lời nói nằm trong quan hệ liên tưởng đối với nhau, hay còn gọi là quan hệ dọc. III. Những kiểu quan hệ chủ yếu trong ngôn ngữ•Quan hệ tuyến tính: Khi biểu hiện bằng chữ viết, người ta đã thay thế sự kế tiếp trong thời gian của các yếu tố ngôn ngữ bằng tuyến không gian của các chữ. Đặc điểm này của ngôn ngữ được gọi là tính hình tuyển của cái biểu hiện và mối quan hệ giữa các yếu tố trong hình tuyến được gọi là quan hệ tuyến tính hay quan hệ ngang. Tất cả các loại đơn vị ngôn ngữ đều xuất hiện trên trục ngang, nhưng chỉ có thể nói tới quan hệ ngang giữa các đơn vị cùng loại mà thôi.↑ III. Những kiểu quan hệ chủ yếu trong ngôn ngữ→ ↑ III. Những kiểu quan hệ chủ yếu trong ngôn ngữ→ ↑ Phần 2: NGÔN NGỮ LÀ MỘT HỆ THỐNG TÍN HIỆU ĐẶC BIỆTI. Bản chất tín hiệu của hệ thống ngôn ngữ•Các yếu tố trong hệ thống tín hiệu có giá trị đối với hệ thống không phải do những thuộc tính vật thể tự nhiên của chúng mà do những thuộc tính được người ta trao cho để chỉ ra những khái niệm hay tư tưởng nào đó.•Tính hai mặt của tín hiệu. Mỗi tín hiệu là cái tổng thể do sự kết hợp giữa cái biểu hiện và cái được biểu hiện mà thành. •Tính võ đoán của tín hiệu. Mối quan hệ giữa cái biểu hiện và cái được biểu hiện là có tính võ đoán.•Giá trị khu biệt của tín hiệu. Thuộc tính vật chất của mỗi tín hiệu ngôn ngữ thể hiện ở những đặc trưng có khả năng phân biệt của nó. II. Ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu đặc biệt•Ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu phức tạp bao gồm các yếu tố đồng loại và không đồng loại, với số lượng không xác định.•Vì ngôn ngữ bao gồm các yếu tố không đồng loại cho nên nó tạo ra nhiều hệ thống và hệ thống con khác nhau.•Các đơn vị ngôn ngữ làm thành những cấp độ khác nhau. •Tính đa trị và tín hiệu của ngôn ngữ.•Tính độc lập tương đối của ngôn ngữ.•Giá trị đồng đại và giá trị lịch đại của ngôn ngữ HỌC VIỆN NGÂN HÀNG  BỘ MÔN DẪN LUẬN NGÔN NGỮ HỌC Chương tám CÁC NGÔN NGỮ THẾ GIỚI Phần 1: PHÂN LOẠI CÁC NGÔN NGỮ THEO NGUỒN GỐCI. Cơ sở phân loại các ngôn ngữ theo nguồn gốc•Marx và Engels đã nói: “ Nguồn gốc của xu thế không hề biến đổi của sự phân li là ở trong những phần tử của tổ chức thị tộc;… Vì các thị tộc ở vào những khu vực xa cách nhau, nên không khỏi thành ra có sự khác nhau trong ngôn ngữ…sự xa cách có tính chất địa phương – về mặt không gian – dần dần dẫn tới sự xuất hiện của những hiện tượng khác nhau trong ngôn ngữ”•Engels cũng viết: “Chúng ta còn thấy trong nội bộ các bộ lạc, những thị tộc tách ra như thế nào thành nhiều bộ phận và những thị tộc mẹ vẫn được duy trì với danh nghĩa là bào tộc…”•Antoine Meillet viết: “Hai ngôn ngữ được gọi là thân thuộc khi cả hai đều là kết quả của hai sự tiến hóa khác nhau của cùng một ngôn ngữ đã được dùng trước đây. Toàn bộ các ngôn ngữ thân thuộc tạo nên cái gọi là họ ngôn ngữ.” II. Phương pháp so sánh – lịch sử•Mục đích: Để phân loại các ngôn ngữ theo nguồn gốc liên quan trực tiếp đến lịch sử các ngôn ngữ và lịch sử của các dân tộc sử dụng các ngôn ngữ đó, phát hiện ra sự thân thuộc giữa các ngôn ngữ.•Nội dung: So sánh các từ và các dạng thức của từ tương tự nhau về ý nghĩa và âm thanh trong các ngôn ngữ khác nhau dựa vào tài liệu ngôn ngữ sống cũng như những sự kiện, hiện tượng được ghi trên văn bia và thư tịch cổ.•Lưu ý: a) Sự giống nhau của các từ trong các ngôn ngữ có thể là do vay mượn hoặc ngẫu nhiên b) Không đòi hỏi các sự kiện được so sánh phải bắt buộc giống nhau hoàn toàn mà chỉ cần tương ứng nhau một cách có quy luật. III. Một số họ ngôn ngữ chủ yếu 1.Họ Indo-European a) Dòng Indo-Aryan: + Hindi và Urdu. +Bengali, Punjabi, Lahnda, Sindhi, Gujarati, Marathi, Nepali, Oriya, Kashmiri, Assamese… b) Dòng Iranian: +Persian, Pashto, Baluchi, Tajik, Kurdish, Ossestian, Parachi, Pamir c) Dòng Slavic: +Nhánh đông: Russian, Ukrainian, Belarusian +Nhánh nam: Bulgarian, Macedonian, Slovene… +Nhánh tây: Czech, Slovak, Polish, Kashubian… d) Dòng Baltic: +Latvian, Lithuanian, Latgalian III. Một số họ ngôn ngữ chủ yếu 1.Họ Indo-European e) Dòng Germanic: +Nhánh bắc: Danish, Swedish, Norwegian, Icelandic +Nhánh tây: English, German, Frisian, Dutch, Yiddish f) Dòng Romance: +French, Italian, Spanish, Portuguese, Romanian, Aromanian, Catalan… g) Dòng Greek: h) Dòng Albanian: i) Dòng Armenian III. Một số họ ngôn ngữ chủ yếu 2.Họ Cacausus a) Dòng tây: + Abkhaz, Kabardian, Ubyx, Adyghe… b) Dòng Nakh: +Batsbi, Chechen, Ingush. c) Dòng Dagestanian: +Avaro, Dargin, Lezgic, Lak, Tabasaran… d) Dòng Kartvelian: +Laz, Svan, Mingrelian… III. Một số họ ngôn ngữ chủ yếu 3.Họ Turkic + Turkish, Azerbaijani, Turkmen, Gagauz, Karaim, Uzbek, Nogay 4.Họ Mongolic + Khalkha, Buryat, Kalmyk 5.Họ Hán Tạng a) Dòng Hán Thái: Hán, Tày Nùng, Cao Lan, Sán Chỉ, Giáy, La Ha b) Dòng Tạng Miến: Tạng, Miến Điện, Hà Nhì, La Hủ, Côông, Si La, Lô Lô, Phù Xá c) Dòng Mèo – Dao: Mèo, Dao, Pà Thển III. Một số họ ngôn ngữ chủ yếu 6.Họ Malay + Indonesian, Balinese, Javanese, Acehnese, Madurese… 7.Các ngôn ngữ thổ dân châu Phi 8.Các ngôn ngữ Bắc Mĩ 9.Các ngôn ngữ Trung Mĩ 10. Các ngôn ngữ Nam Mĩ Phần 2: PHÂN LOẠI CÁC NGÔN NGỮ THEO LOẠI HÌNHI. Cơ sở phân loại•Phân loại các ngôn ngữ theo loại hình là cách phân loại căn cứ vào cấu trúc và chức năng của chúng.•Thuộc tính loại hình được dùng làm tiêu chuẩn để quy định vị trí của một ngôn ngữ nào đó trong khi phân loại.•Trong so sánh loại hình, cấu trúc ngữ pháp có tầm quan trọng đặc biệt, II. Các loại hình ngôn ngữ 1.Ngôn ngữ đơn lập + Từ không biến đổi hình thái. + Quan hệ ngữ pháp và ý nghĩa ngữ pháp được biểu thị chủ yếu bằng hư từ và trật tự từ. + Tính phân tiết. + Những từ ngữ có ý nghĩa đối tượng, tính chất, hành động … không phân biệt nhau về cấu trúc. II. Các loại hình ngôn ngữ 2.Ngôn ngữ không đơn lập a) Ngôn ngữ niêm kết + Sử dụng rộng rãi các phụ tố để cấu tạo từ và biểu thị những mối quan hệ khác nhau. + Mỗi phụ tố chỉ biểu thị một ý nghĩa ngữ pháp và ngược lại. b) Ngôn ngữ hòa kết + Có sự biến đổi nguyên âm và phụ âm ở trong hình vị. + Mỗi phụ tố có thể đồng thời mang nhiều ý nghĩa và ngược lại. + Các hình vị liên hệ chặt chẽ. c) Ngôn ngữ hỗn nhập + Có thể tương ứng với một câu trong ngôn ngữ khác. + Bên cạnh các hình thái hỗn nhập còn có cả các hình thái độc lập

Trong đời sống của mình, loài người phát hiện, làm quen, xây dựng và sử dụng nhiều kiểu loại tín hiệu khác nhau. Việc nghiên cứu toàn diện các loại tín hiệu đó, là nhiệm vụ trung tâm của khoa tín hiệu học (semiology)

Khái niệm tín hiệu

Đã có nhiều quan niệm khác nhau và nhiều cách phân loại khác nhau đối với tín hiệu. Để cho vấn đề ở đây trở nên giản tiện, đỡ phức tạp, chúng ta quan niệm về tín hiệu như sau:

Tín hiệu là một sự vật (hoặc một thuộc tính vật chất, một hiện tượng) kích thích vào giác quan của con người, làm cho con người ta tri giác được và lí giải, suy diễn tới một cái gì đó nằm ngoài sự vật ấy.

Ví dụ: Cái đèn đỏ trong bảng đèn tín hiệu giao thông đường bộ là một tín hiệu, bởi vì, khi nó hoạt động (sáng lên), người ta thấy nó và suy diễn tới sự cấm đoán, không được đi qua chỗ nào đó.

Vậy, một sự vật sẽ là một tín hiệu nếu nó thoả mãn các yêu cầu sau đây:

  • Phải là một sự vật hoặc thuộc tính vật chất được cảm nhận qua giác quan của con người, chẳng hạn: âm thanh, màu sắc, ánh sáng, hình vẽ, vật thể,... Nói cách khác, tín hiệu phải là vật chất, kích thích đến giác quan của con người và con người cảm nhận được.
  • Phải đại diện cho một cái gì đó, gợi ra cái gì đó không phải là chính nó. Tức là cái mà nó đại diện cho, không trùng với chính nó. Ví dụ: Tín hiệu đèn đỏ báo hiệu nội dung cấm đi. Nội dung này và bản thể vật chất của cái đèn đỏ không hề trùng nhau.
  • Mặt khác, nó cũng sẽ chỉ là tín hiệu khi mối liên hệ giữa nó với "cái mà nó chỉ ra" được người ta nhận thức, tức là người ta phải biến liên hội nó với cái gì.
  • Sự vật đó phải nằm trong một hệ thống tín hiệu nhất định để được xác định tư cách tín hiệu của mình cùng với các tín hiệu khác. Chẳng hạn, cái đèn đỏ vừa nói bên trên là một tín hiệu, thế nhưng, nếu tách nó ra, đưa vào chùm đèn trang trí thì nó lại không phải là tín hiệu nữa. Sở dĩ như thế là vì chỉ có nằm trong hệ thống tín hiệu đèn giao thông, nó mới có tư các tín hiệu, được xác định cùng với đèn xanh, đèn vàng nhờ vào sự đối lập quy ước giữa chúng với nhau.

Theo Mai Ngọc Chừ; Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến: Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt. Nxb Giáo dục, H., 1997, trang 20–21

Bản chất tín hiệu của ngôn ngữ

Khi nói về bản chất tín hiệu của ngôn ngữ, chúng ra bàn về đặc trưng cấu trúc ngôn ngữ. Còn khi nói về bản chất xã hội của ngôn ngữ là chúng ta nói về các mặt chức năng khác nhau của ngôn ngữ trong xã hội. Như là một sự kiện quan trọng của đời sống nhân loại, ngôn ngữ mang trong mình nó cả những đặc điểm của cấu trúc lẫn chức năng.

Bởi vì con người là những thực thể vật chất rất cụ thể cho nên những gì đối với con người là quen thuộc thì cũng phải được vật chất hoá như vậy. Chính vì vậy, khi nói về bản chất tín hiệu của ngôn ngữ, người ta thường nói về hình thức tín hiệu, đó chính là phương tiện vật chất rất cụ thể mà trong ý thức con người, người ta có thể cảm nhận được thông qua các giác quan cụ thể của mình.

Các tín hiệu ngôn ngữ đã tác động trực tiếp đến con người thông qua hai giác quan quan trọng nhất là thính giác và thị giác. Trong hai kênh để truyền tín hiệu đó thì kênh thông quan thính giác là kênh cổ xưa hơn rất nhiều (trong vòng 5000 năm trở lại đây mới có chữ viết). Điều này có thể giải thích như J. Lyons đã từng giải thích:

  • Trong quá trình lao động, khi đôi tay phải làm việc, đôi chân phải trụ thì chỉ có mắt và tai là rỗi. Tuy nhiên, trong hai cơ quan ấy thì mắt bận rộn hơn do phải thâu nhận hơn 90% thông tin cuộc sống. Chính vì thế, một cách tiêu cực, có thể suy ra rằng tai (thính giác) là có khả năng được sử dụng nhiều hơn cho thông tin về lời nói.
  • Mặt khác, khi sử dụng thị giác thì đương nhiên sẽ liên quan đến vấn đề ánh sáng trong khi những thông tin cần phải trao đổi giữa con người với nhau thì lại bất kể tối sáng.
  • Lí do thứ 3 mà loài người chọn âm thanh là do điều kiện lao động của người nguyên thuỷ. Môi trường làm việc lúc bấy giờ là các khu rừng sâu có nhiều cây cối che lấp. Với điều kiện như vậy, thị giác rất khó làm việc [1]. Chính vì vậy, loài người ngay từ cổ xưa đã chọn kênh thính giác làm kênh thông tin chủ yếu để giao tiếp.

Engels đã từng nói: “trước hết là lao động và sau đó đồng thời với lao động là ngôn ngữ đã biến bầy vượn thành loài người”. Sự khẳng định này của Engels cũng đồng thời nhấn mạnh rằng: ngôn ngữ nảy sinh từ lao động và chính nhờ lao động, con người đã tìm ra một kênh tối ưu nhất cho việc truyền tải các thông tin qua phương tiện âm thanh.

Bên cạnh kênh âm thanh, loài người, sau khi đã phát kiến ra chữ viết, còn sử dụng kênh thị giác cho việc truyền tải các thông tin trong giao tiếp giữa người với người. Tuy nhiên, do hạn chế về phương diện truyền, điều kiện chọn lựa người truyền nên phương tiện thông qua văn tự, chữ viết vẫn chỉ là một dạng phương tiện phái sinh trên một phương tiện vạn năng hơn là ngôn ngữ có âm thanh.

Với mỗi một tín hiệu ngôn ngữ, theo nguyên lí chung của việc thành lập một tín hiệu, bao giờ cũng phải có hai mặt: Đó là mặt biểu hiện (hình thức tín hiệu) và mặt được biểu hiện (nội dung tín hiệu). Mặt hình thức của tín hiệu là những dạng âm thanh khác nhau mà trong quá trình nói năng con người đã thiết lập lên mã cụ thể cho mình, đó chính là đặc trưng âm thanh cụ thể của từng ngôn ngữ. Còn mặt nội dung (cái được biểu hiện) là những thông tin, những thông điệp về những mảnh khác nhau của thế giới hiện tại mà con người đang sống, hoặc những dấu hiệu hình thức để phân cắt tư duy, phân cắt thực tại.

So sánh ngôn ngữ và các hệ thống tín hiệu khác

Như vậy, để trở thành một tín hiệu, bất kì một hiện tượng ngôn ngữ nào đã xuất hiện trong giao tiếp của loài người cũng phải bao gồm 2 mặt khác nhau là mặt biểu hiện và mặt được biểu hiện. Mặt biểu hiện làm nhiệm vụ trung chuyển những ý nghĩ, tình cảm, xúc cảm, nhu cầu khác nhau của người nói tới được cơ quan thụ cảm của người nghe. Nếu không có cái biểu hiện thì quá trình giao tiếp giữa người nói và người nghe sẽ bị hoàn toàn cắt đứt. Lúc đó, người ta gọi là ngôn ngữ không hành chức.

Mối liên hệ giữa cái biểu hiện và cái được biểu hiện là mối liên hệ rất đặc trưng của ngôn ngữ. Đặc trưng này được thể hiện ở chỗ: mỗi một cái biểu hiện luôn chỉ có một cái được biểu hiện tương ứng. Khi mối liên hệ 1–1 này bị cắt đứt thì các quá trình giao tiếp sẽ bị ảnh hưởng hoặc không thể thực hiện được. Do tính chất và số lượng của các từ trong một ngôn ngữ là vô cùng lớn nên ngôn ngữ học cấu trúc luận cho rằng mối liên hệ 1–1 này phải được coi là võ đoán với nhau và phải được quy ước.

Cơ chế tạo nên quan hệ 1–1 được hình dung theo tạo sinh luận như sau:

Trong mỗi ngôn ngữ đều có một bộ hay một tập tín hiệu gọi là bộ từ vựng (lexicon) của một ngôn ngữ. Nhưng để một bộ từ vựng có thể hành chức còn cần thêm các luật ngữ pháp (grammartical rules) là quy tắc nối kết các hạng tử (items) có trong bộ từ vựng theo những quy tắc nhằm bộc lộ những thông điệp có riêng trong một ngôn ngữ. (Như vậy, khái niệm ngữ pháp của tạo sinh luận là rộng hơn rất nhiều so với quan niệm thông thường của chúng ta).

Tổng hợp của bộ từ vựng và bộ ngữ pháp tạo thành cơ chế phân định và thiết lập mối quan hệ giữa cái biểu hiện và cái được biểu hiện của từng tín hiệu trong ngôn ngữ. Khi mối quan hệ cơ giới 1–1 bị phá vỡ thì nó có nguy cơ làm phương hại tới quá trình giao tiếp của một cộng đồng nói năng cụ thể. Nguyên nhân của sự phá vỡ này có thể là:

  • Vì cơ chế của bộ từ vựng một ngôn ngữ là cơ chế mở (open) để đáp ứng nhu cầu phản ánh thực tại.
  • Các luật ngữ pháp có những biến động do có sự tiếp xúc văn hoá (culture contact) từ những ngôn ngữ khác. Chính những biến động như vậy sẽ làm ngôn ngữ phát triển nhưng cũng có thể sẽ làm ngôn ngữ bị phân tầng, phân lớp mạnh mẽ có khi đến mức không thể kiểm soát được.
So sánh ngôn ngữ và các hệ thống tín hiệu khác

Trong lí thuyết tín hiệu học hiện đại, bộ từ vựng và bộ ngữ pháp của một ngôn ngữ còn được gọi là mã của ngôn ngữ đó.

Trong ngôn ngữ học, mặc dù cái được biểu hiện (hay mặt nội dung) là quan trọng nhưng trong việc nghiên cứu ngôn ngữ học, do nguyên tắc tín hiệu học quy định, người ta thường chú trọng rất nhiều đến cái biểu hiện hay mặt hình thức của ngữ nghĩa. Theo nguyên tắc của chủ nghĩa miêu tả Mĩ thì thậm chí người ta có thể bỏ mặt cái được biểu hiện mà vẫn có thể khái quát hoá được đặc trưng của ngôn ngữ. Đó chính là khuynh hướng hình thức hoá trong việc nghiên cứu ngôn ngữ mà trường phái hậu tạo sinh luận đang kế tục và phát huy.

Tuy nhiên, khi nghiên cứu về các đặc trưng tín hiệu của ngôn ngữ thì việc nghiên cứu các quan hệ giữa các tín hiệu cũng là một công việc rất quan trọng. Bởi, giá trị của một yếu tố (một tín hiệu) ngoài việc được xác định bằng các đặc trưng của cái được biểu hiện – mặt ngữ nghĩa của tín hiệu – thì còn được xác định, trong tuyệt đại đa số các trường hợp, bằng các đặc điểm phân bố của yếu tố đó trong các phát ngôn khác nhau. Các đặc điểm phân bố này chính là sự thể hiện ra bên ngoài của các mối quan hệ có thật giữa các tín hiệu trong một ngôn ngữ. Ngôn ngữ học thường chia các quan hệ này theo các cấp độ mang tính phổ quát của tất cả các ngôn ngữ. Đó là các cấp độ âm vị học và mối quan hệ âm vị học; cấp độ hình thái học (từ) và các quan hệ từ pháp học; cấp độ cú pháp học (câu, phát ngôn) và các quan hệ cú pháp học; cấp độ văn bản (trên câu và phát ngôn) và các quan hệ liên kết trong văn bản. Thông tin do các quan hệ này đưa lại thường không phải là các thông tin về định danh học (nghĩa từ vựng của từ) cũng không phải là các thông tin logic học (thông tin logic của một câu) mà là những thông tin về giá trị của tín hiệu thông
tin đó trong hệ thống, những thông tin về hệ thống, cấu trúc hay nói như Nguyễn Tài Cẩn đó là các nghĩa cấu trúc.

  Tín hiệu (hạng tử) Các tín hiệu (quy luật)
Thực thể - cbh: vật chất hoá tín hiệu
- cđbh: phi vật chất, ý niệm
→ mã ngôn ngữ
- tín hiệu: đơn vị
- quan hệ tín hiệu: theo các cấp độ xác định (4 cấp)
Sự dùng (usage) - định danh, phân cắt
- dấu hiệu ngữ pháp
phản ánh tính trọn vẹn của thực tại vào tư duy

Theo nội dung bài giảng của TS H.C.Cương tại lớp K46 Ngôn ngữ, 2004.

(Nguồn: ngonngu.net)